Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

A SANG KIEN - KINH NGHIEM L 4 REN VIET CAU DUNG CAU HAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.83 KB, 10 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN VIẾT CÂU ĐÚNG CÂU HAY
i. Đặt vấn đề
Qua thực tế giảng dạy, Tôi thấy rằng: Học sinh viết câu chưa
đúng, chưa hay vì vậy tôi đã chọn “Rèn viết câu đúng, câu hay cho
học sinh, giúp cho các em có kỹ năng ngôn ngữ nhằm giúp các em
sử dụng Tiếng Việt có hiệu quả trong suy nghĩ và trong giao tiếp là
rất quan trọng. Ngoài ra các em vốn hiểu biết và vốn sống còn ít
nên các em sử dụng ngữ pháp tiếng Việt rất hạn chế. Các em học
sinh đa phần viết câu còn què, cụt, chưa đủ nghĩa và nội dung
thông báo. Đôi khi các em viết câu đủ cấu trúc ngữ pháp nhưng lại
sai biệt hoàn toàn về nghĩa của câu. Việc xác định các từ loại Tiếng
Việt đối với các em hầu như rất mơ hồ, theo định tính, các em thích
nó là từ loại nào thì cho là từ loại đó. Nhưng có một điều rất sâu để
tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiệm này là do bản thân các em
cũng biết mình còn hạn chế về kiến thức ngữ pháp nên rất ham tìm
hiểu, học hỏi, buộc một thầy giáo như tôi thấy mình phải có trách
nhiệm tìm tòi học hỏi để dạy cho các em sao cho đúng và viết hay
về từ - về câu và cả đoạn …
Tình hình thực trạng học sinh :
Qua khảo sát đầu năm ngay từ bài tập đọc đầu tiên, tôi đã thấy
học sinh đọc bài chưa đúng, chưa lưu loát , phần trả lời câu hỏi tìm
hiểu nội dung học sinh nói ấp a, ấp úng, không đúng trọn câu , sai
ngữ pháp . Tôi đá tiến hành kiểm tra phân lọai chất lượng học sinh
theo ba đối tượng
1/ Tôi đã nghiên cứu kĩ sách giáo khoa Tiếng Việt phân môn
luyện từ và câu từ lớp 1 đến lớp 5 để nắm rõ được các ưu điểm và
hạn chế của chương trình trong sách.
Tôi nhận thấy chương trình và các tài liệu dạy học luyện từ và
câu ở tiểu học hướng đến thực hành và có tính đồng tâm. Chương
trình ngữ pháp đã đã hướng đến yêu cầu rèn luyện kĩ năng ngôn


ngữ cho học sinh qua hoạt động đội, nghe, nói, viết thực hiện mục
tiêu của môn học, làm cho học sinh hiểu và sử dụng tốt phương
tiện tư duy và giao tiếp của loài người. Chương trình ngữ pháp, tiểu
học đã xác định rất rõ hai mặt quan trọng của dạy học ngữ pháp và
rèn luyện các kỹ năng sư dụng các đơn vị ngữ nghĩa . Đó là chương
trình luyện từ và câu hướng tới thực hành là chủ yếu.
1
2- Tôi thống kê trong các bài kiểm tra , trong vở tiếng Việt của
học sinh nhiều lớp các số lỗi về về từ mà học sinh hay mắc phải để
dễ dàng củng cố sâu hơn cho các em sửa những lỗi đó.
Tôi thấy các em còn sai khi nhận diện từ, phân cách các đơn vị
từ, việc nắm cá khái niệm câu, thành phần câu và kĩ năng nhận
diện, phân tích các thành phần câu, nhận diện, phân loại từ theo
cấu tạo, đặc biệt các em sử dụng dấu câu còn rất lung tung, không
đúng yêu cầu của câu, khi viết các đoạn văn đôi khi không có sự
liên kết chặt chẽ giữa các câu... Còn rất nhiều số lỗi khác nhau mà
trong khuôn khổ hạn hẹp này tôi không thể thống kê ra hết.
Chính vì vậy khi dạy từng bài luyện từ và câu đối với học sinh
lớp 4 của tôi là lớp mà kiến thức ngữ pháp được tổng hợp lại tương
đối đầy đủ tôi đã chú trọng thay đổi một số điểm.
3- Những biện pháp sáng tạo khi dạy:
a- Tôi sử dụng trực quan khi dạy trong giờ ngữ pháp . Trực
quan ở đây không chỉ là các vật thật, vật thay thế như tranh ảnh,
mô hình, sơ đồ, biểu bảng... mà còn là trực quan lời nói. Tôi cố
gắng rèn luyện bản thân mình cách nói sao cho đúng ngữ pháp, từ
dùng sao cho chuẩn. Ngoài ra khi đưa ra các ví dụ mẫu tôi chọn và
suy nghĩ kĩ để có được một ví dụ tương đối chuẩn xác, giúp học sinh
dẽ phát hiện rút ra bài học.
Ví dụ với bài “câu và từ” (Tiết 2-Ngữ pháp 4)
Tôi nhận thấy ví dụ của sách giáo khoa:

“Đêm nay, anh đứng gác ở trại”
Học sinh cần phải phân tích câu này thành các từ trong đó câu có
từ “đêm nay”, “đứng gác” theo SGK thì phân tích thành từng từ
đơn: Đêm/nay, đứng/gác...Nhưng bản thân các từ này các nhà
Việt ngữ học còn đang tranh luận chưa thống nhất là một từ hay
hai từ nên tôi đã không lấy ví dụ học sinh dễ nắm bắt hơn:
“Trời/ nắng/ chang chang”
Trong ví dụ này tôi yêu cầu học sinh chia câu “Trời nắng chang
chang” thành các phần có nghĩa sao cho được nhiều phần nhất. Học
sinh của tôi đã chia câu thành:
Trời nắng/ chang chang.
2
Trời/ nắng/ chang/ chang.
Trời/ nắng/ chang chang.
Tôi yêu cầu các em suy nghĩ kĩ là “chia nhiều phần nhất” nhưng
phải có “nghĩa”, từ đó học sinh tôi đã biết lược bỏ rút ra trường
hợp:
“Trời/ nắng/ chang chang”
Từ đó các em tự rút ra cho bản thân “từ làa đơn vị nhỏ nhất” có
nghĩa dùng để đặt câu “ví dụ bài động từ” (tiết 23 - ngữ pháp 4)
Tôi nhận thấy qua nhiều năm các em thắc mắc là từ “xem”
trong ví dụ “Nam xem đá bóng” tại sao lại là động từ nội động? vì
Nam “xem” tức là Nam đã có tác động đến đối tượng khác, bắt
buộc phải có đối tượng Nam mới “xem” được. Tôi thấy việc giải
thích thật khó vì các em thắc mắc hoàn toàn hợp lí, nên tôi thay thế
câu “Nam xem đá bóng” bằng câu: “Bạn Nam đang bơi”
b- Ngoài việc sử dụng trực quan tôi còn cho các em phát hiện
khi đang trao đổi một ví dụ câu xem đó đã là câu hay chưa? Câu đó
có dấu hiệu mở đầu ra sao? dấu hiệu kết thúc câu thế nào?
Việc thực hành trong giao tiếp hàng ngày như vậy giúp các em

nói, viết câu đúng, ngữ pháp, rõ nghĩa, phát hiện nhanh xem mình
dùng câu sai hay đúng. Việc phát hiện thực hành tôi sử dụng không
chỉ trong giờ ngữ pháp mà còn dùng trong bất cự lúc nào để giúp
các em ứng dụng ngữ pháp trong giao tiếp.
c- Để học sinh viết được câu đúng, câu hay trước tiên tôi cho
học sinh nắm kĩ các câu đơn giản nhất. Tôi trao đổi bàn bạc nhiều
lần với các em xem câu phải có mấy bộ phận chính? (2: chủ ngữ và
vị ngữ)
Chủ ngữ là bộ phận chính thứ mấy? trả lời cho câu hỏi nào?vị
ngữ là bộ phận chính thứ mấy? trả lời cho câu hỏi nào?
Không chỉ nắm vững lí thuyết tôi còn cho các em thực hành
nhiều lần luyện tập viết câu, phân tích câu. Ví dụ trong khi học sinh
có một từ ngữ nào đó cần nắm trong bài “tập đọc” tôi cho các em
đặt ngay câu với từ đó rồi phân tích bộ phận chủ ngữ, vị ngữ của
câu, học sinh khác nhận xét.
Hoặc cho các em đặt câu theo cấu trúc tôi cho các em làm:
3
- Đặt câu có một chủ ngữ, một vị ngữ.
- Đặt câu có nhiều chủ ngữ, nhiều vị ngữ.
Học sinh đã có thể đặt được các câu:
- Những chú gà trống/ đang gáy báo sáng.
- Hoa mai và hoa đào/ là chị em.
- Bạn Lan lớp em/ đang học bài và làm bài.
Hoặc tôi đưa ra nhiều câu đơn ngắn gộp lại thành một câu có
chung chủ ngữ hoặc vị ngữ.
Ví dụ: Bạn Nam rất hiền. Bạn Nam rất ngoan.
Tôi hỏi các em:Bạn Nam thế nào? (hiền, ngoan)
Có thể ghép 2 câu làm một: Chủ ngữ vẫn là “Bạn Nam” nhưng
có hai đặc điểm, dùng từ nối “và” nối hai đặc điểm lại.
Ví dụ: Bạn Nam rất hiền và ngoan.

+Để câu văn viết được hay hơn, tôi cho các em bổ xung thêm
trạng ngữ.
Tôi cho câu đơn giản có đủ chủ ngữ, vị ngữ yêu cầu các em bổ
xung thành phần chỉ thời gian, nguyên nhân, nơi chốn, mục
đích...Để học sinh nắm chắc hơn về câu có bộ phận phụ, tôi còn
cho các em câu văn có đủ cả trạng ngữ và chủ ngữ, vị ngữ sau đó
yêu cầu các em lược bỏ bớt trạng ngữ và so sánh câu đã lược bỏ với
câu ban đầu. Qua việc so sánh như vậy các em thấy rõ được hơn
trạng ngữ chỉ là bộ phận phụ của câu nhưng khi có trạng ngữ thì
câu văn sẽ hay hơn.
Ví dụ: Ngoài vườn, khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt.
Khác câu: Khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt.
Khi có thêm trạng ngữ “ngoài vườn” câu rõ hơn, khóm hồng toả
hương thơm từ đâu.
Hoặc câu: Hôm nay, lúc 7 giờ sáng, tôi đi học. So với câu: Tôi đi
học khi có trạng ngữ câu rõ hơn “Tôi đi học” từ lúc nào
4
+Học sinh phân tích từng câu để xác định rõ bộ phận chủ ngữ
và vị ngữ. Tôi cho các em phân tích từng câu, từ đơn giản như: Con
mèo đang trèo cây cau.
Một em đặt câu hỏi tìm chủ ngữ: Con gì đang trèo câu cau?
(Con mèo).
Một em đặt câu hỏi tìm vị ngữ: Con mèo đang làm gì? (đang
trèo cay cau).
Khi trả lời về bộ phận chủ ngữ hoặc vị ngữ tôi yêu cầu các em
chỉ trả lời những từ ngữ bộ phận đang tìm, không trả lời theo cả
câu.
Ví dụ không trả lời câu tìm vị ngữ là: “Con mèo làm gì?” (Con
mèo đang trèo cây cau). Trả lời như vậy chưa tách bạch được rõ
chủ ngữ và chủ ngữ.

Các em sẽ dần phân tích những câu phức tạp hơn.
Ví dụ: Con mèo là bạn của Lan/ đang nằm dài phơi nắng.
Khi đặt câu hỏi tìm vị ngữ “Con gì đang nằm dài phơi nắng?”
học sinh dễ lẫn lộn chỉ trả lời “Con mèo” là chủ ngữ. Đến đây ta càn
đặt ngược lại con mèo làm gì “đang nằm dài phơi nắng” là vị ngữ
còn “của bạn Lan” là từ ngữ thuộc chủ ngữ hay vị ngữ?
Học sinh cần suy nghĩ thấy “của bạn Lan” gắn với chủ ngữ “con
mèo” của ai? (của bạn Lan) bởi vì hành động của con mèo là “đang
nằm dài phơi nắng”.
Ví dụ: Con mèo nhảy/ làm đổ lọ hoa.
Việc phân tích câu giúp các em nắm rõ được cách đặt câu sao
cho chuẩn bao gồm đủ nội dung thông báo.
d- Để các em biết xác định và viết câu cho đúng tôi cho các
em xác định nhiều dòng xem dòng nào là câu, dòng nào chưa là
câu, nếu chưa là câutự học sinh cần bổ xung cho thành câu. Việc
học sinh bổ xung cho thành câu và xác định xem một câu dã hoàn
chỉnh giúp học sinh củng cố sâu hơn về kiến thức ngữ pháp về câu.
Khi cho các dòng đã là câu tôi thường cho các em nắm bắt các
câu đơn giản ngắn gọn nhưng những câu đó đều do các từ có hình
ảnh, gợi tả.
5

×