Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Lượng vi khuẩn trong nước bọt trước và sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch, ngầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.27 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

LƯỢNG VI KHUẨN TRONG NƯỚC BỌT TRƯỚC
VÀ SAU PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI LỆCH, NGẦM
Việt Thanh Nhã*, Tạ Tố Trân**

TÓM TẮT
Mở đầu: Nhiễm trùng sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm thường được đánh giá gián tiếp
dựa vào các dấu hiệu lâm sàng như sưng, đau, khít hàm hoặc đánh giá trực tiếp thông qua lượng vi khuẩn hình
thành sau nuôi cấy.
Mục tiêu: So sánh số lượng vi khuẩn trong nước bọt giữa 2 nhóm bệnh nhân sử dụng kháng sinh
Amoxicillin theo phác đồ phòng ngừa 1 liều (2g trong 30 đến 60 phút) và phòng ngừa thông thường (500mg mỗi
lần, mỗi ngày 3 lần trong 5 ngày) trong phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch, ngầm.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng so sánh trên 68 bệnh
nhân. Đối tượng được lấy nước bọt 3 lần (lần 1: trước khi bắt đầu phẫu thuật; lần 2: 2 ngày sau phẫu thuật và
lần 3: 7 ngày sau phẫu thuật). Mẫu nước bọt được giữ trong lọ vô khuẩn và chuyển ngay đến labo vi sinh để cấy
trên đĩa thạch máu cừu; sau đó ủ trong môi trường 37oC trong 18 giờ đến 24 giờ. Sau thời gian ủ, đếm số khúm
vi khuẩn, từ đó suy ra số đơn vị khúm trong 1 ml dung dịch nước bọt.
Kết quả: Số đơn vị khúm vi khuẩn giữa 2 nhóm tại các thời điểm đánh giá khác biệt không có ý nghĩa
thống kê.
Kết luận: Bệnh nhân sử dụng thuốc Amoxicillin 1 liều 2g trước phẫu thuật hay 15 liều 500mg sau phẫu
thuật không có sự khác biệt về số đơn vị khúm vi khuẩn trong nước bọt.
Từ khoá: Kháng sinh phòng ngừa, vi khuẩn, nước bọt, Amoxicillin

ABSTRACT
THE NUMBER OF SALIVARY BACTERIA BEFORE AND AFTER SURGERY
OF IMPACTED MANDIBULAR THIRD MOLAR
Viet Thanh Nha, Ta To Tran * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 62 - 69
Background: Infection could occur after surgery of impacted mandibular third molar. Amoxicillin


prophylaxis is usually prescribed to prevent this complication. The drug could be taken preoperatively (2g singledose in 30 to 60 mn before surgery) or postoperatively (500mg per time, thrice a day in 5 after surgery).
Objectives: To compare the number of colony forming unit (CFU) of salivary bacteria between 2 groups
received Amoxicillin prophylaxis pre and post-operation in surgery of impacted mandibular third molar.
Method: This study was designed as a clinical trial involving 68 patients under third lower molar surgery.
Patients were devised into 2 groups using Amoxicillin before or after surgery. Saliva of each patient had been
taken out in day 1 (day of surgery), day 2 (2 days after surgery) and day 7 (7 days after surgery) by rinsing
sodium chloride solution 0.9%. Salivary solution was kept in a sterilized pot and cultured immediately on sheep
blood agars, then incubated at 37oC in incubator for 18 to 24 hours. The number of bacteria colony was counted to
evaluate the number of CFU in 1 ml of salivary solution.
*Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
**Bộ môn Phẫu Thuật Miệng, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Tạ Tố Trân
ĐT: 091363252
Email:

62

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Nghiên cứu Y học

Result: There were no significant differences of the CFU in 1 ml salivary solution in day 1, day 2 and day 7
between 2 groups.
Conclusion: Patients receiving single dose preoperational or several doses postoperation of Amoxicillin did
not have the same number of bacterial CFU in saliva under surgery of impacted mandibular third molar.
Key word: Antibiotic prophylaxis, saliva, bacteria, Amoxicillin


ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU

Phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch,
ngầm can thiệp đến mô mềm và mô xương nên
thường gây sưng, đau, cứng khít hàm, đặc biệt là
nhiễm trùng(4). Do đó, kháng sinh thường được
chỉ định để phòng ngừa biến chứng này sau
phẫu thuật.

Mẫu nghiên cứu

Amoxicillin là thuốc kháng sinh thường sử
dụng trong Nha khoa từ rất lâu và cho đến nay
vẫn cho thấy có hiệu quả trong việc kiểm soát
nhiễm khuẩn vùng răng miệng. Trong phẫu
thuật nhổ răng khôn hàm dưới, Amoxicillin là
kháng sinh thường được chỉ định trên lâm sàng
để phòng ngừa nhiễm trùng sau phẫu thuật theo
2 phác đồ trước hoặc sau phẫu thuật. Đối với
người trưởng thành bình thường, Amoxicillin
được chỉ định với liều lượng 1500 mg/ngày,
uống trong 5-7 ngày hoặc Amoxicillin 2 g trước
phẫu thuật 30 đến 60 phút.
Trong Nha khoa, nước bọt thường được sử
dụng làm nghiên cứu do tính chất thường
xuyên và tính phổ biến của nước bọt trong
môi trường miệng. Thông qua nước bọt
nghiên cứu viên có thể đánh giá được tình

trạng môi trường quanh vùng cần khảo sát.
Mặt khác, nước bọt là một loại mẫu dễ lấy
mẫu và không xâm lấn. Nước bọt cũng có thể
được sử dụng trong nghiên cứu các bệnh lý
răng miệng để khảo sát vi khuẩn, trong đó, xét
nghiệm định lượng vi khuẩn trong nước bọt
được sử dụng nhằm đánh giá tình trạng viêm,
nhiễm trùng trong môi trường miệng.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác
định và so sánh số lượng vi khuẩn trong nước
bọt trước và sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới
lệch, ngầm, giữa 2 nhóm bệnh nhân sử dụng
Amoxicillin theo 2 phác đồ khác nhau.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

68 bệnh nhân đến nhổ răng khôn hàm dưới
mọc lệch, ngầm, từ 20 đến 30 tuổi tại bộ môn
Phẫu Thuật Miệng, khoa Răng Hàm Mặt, trường
Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân có răng khôn hàm dưới lệch
ngầm có độ khó thuộc loại II, III và độ sâu B, C
dựa theo phân loại của Pell và Gregory, 1933.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân dị ứng với bất kỳ thuốc nào
thuộc nhóm β- lactam.
- Bệnh nhân đang sử dụng bất kỳ một loại
thuốc nào khác trong thời gian nghiên cứu hay

bệnh nhân đã sử dụng một loại kháng sinh toàn
thân trong vòng 2 tuần trước khi sử dụng thuốc
trong nghiên cứu hoặc sử dụng một loại thuốc
kháng sinh đường tiêm có tác dụng kéo dài như
Penicillin G Benzathine trong vòng 4 tuần trước
khi sử dụng thuốc trong nghiên cứu.
- Bệnh nhân có bệnh toàn thân: tim mạch,
cao huyết áp, tiểu đường…
- Bệnh nhân có thai hoặc cho con bú.
- Bệnh nhân đang có tình trạng nhiễm trùng
tại chỗ.
- Bệnh nhân không thể hoặc không chịu hợp
tác trong việc cung cấp những thông tin cần thiết
theo yêu cầu của nghiên cứu hay theo các chỉ
định của phẫu thuật viên.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu
nhiên.

63


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Phương tiện nghiên cứu

Vật liệu nghiên cứu
Amoxicillin 500 mg dạng viên nén.

Mẫu bệnh phẩm
Dung dịch nước bọt.
Xét nghiệm vi khuẩn
- Đĩa thạch máu cừu (Sheep blood agar)
- Que cấy 1 μl
- Tủ ủ 37oC
- Ống chân không
- Kim tiêm 1ml, 5ml
- Ống nghiệm vô khuẩn 12 ml
- Pipette nhựa 1 ml tiệt trùng
Quy trình nghiên cứu

Phân nhóm nghiên cứu
Bệnh nhân bốc thăm số thứ tự đã được phân
nhóm trước bằng phần mềm Excel.
- Nhóm A: Nhóm sử dụng Amoxicillin 2 g
30-60 phút trước phẫu thuật.
- Nhóm B: Nhóm sử dụng Amoxicillin 500
mg mỗi 6 - 8 giờ trong 5 ngày sau phẫu thuật, bắt
đầu uống sau phẫu thuật 3 giờ.

Các bước tiến hành trước phẫu thuật
- Bệnh nhân được khám tổng quát, chụp
phim toàn cảnh, xét nghiệm thường quy.
- Bệnh nhân đủ điều kiện tham gia nghiên
cứu được giải thích, thông báo đầy đủ về mục
đích nghiên cứu, bệnh nhân đồng ý hợp tác để
thực hiện nghiên cứu và ký tên vào mẫu đồng ý
tham gia nghiên cứu.
- Nghiên cứu viên ghi nhận những thông tin

hành chính: số bệnh án, tên, tuổi, giới tính, cân
nặng, địa chỉ trong phiếu thu thập dữ liệu.
- Mỗi bệnh nhân chọn vào trong nghiên cứu
được mã hóa bằng một mã số.

Các bước tiến hành trong phẫu thuật
Phẫu thuật được tiến hành theo một quy
trình phẫu thuật chuẩn bởi 1 phẫu thuật viên có
kinh nghiệm, tại bộ môn Phẫu thuật miệng,

64

Khoa Răng Hàm Mặt, trường Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh:
- Sát trùng với dung dịch sát khuẩn Povidine
10% ngay trước khi phẫu thuật.
- Gây tê vùng bằng thuốc tê Lidocaine 2%
với epinephrine 1:100000.
- Tạo vạt
- Mở xương
- Chia cắt răng
- Nhổ răng
- Làm sạch vết thương
- Khâu đóng
Bệnh nhân chỉ bắt đầu uống thuốc sau phẫu
thuật 3 giờ và tất cả bệnh nhân đều được sử
dụng thuốc Ibuprofen 400 mg ngày 3 lần trong 3
ngày đầu sau phẫu thuật.
Thu thập số liệu


Thu thập nước bọt
Bệnh nhân được súc miệng trong vòng 30
giây với 10 ml dung dịch nước muối sinh lý rồi
nhả vào lọ vô khuẩn sau đó đem chuyển vào
phòng thí nghiệm vi sinh để làm xét nghiệm
định lượng vi khuẩn ngay lập tức.
Thời điểm lấy mẫu nước bọt
- Ngày 1: (Ngày thực hiện phẫu thuật)
+ Nhóm A: được lấy nước bọt trước khi dùng
thuốc.
+ Nhóm B: được lấy nước bọt trước khi tiến
hành phẫu thuật.
- Ngày 2:
+ Nhóm A và nhóm B: được lấy nước bọt 2
ngày sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới.
- Ngày 7:
+ Nhóm A và nhóm B: được lấy nước bọt 7
ngày sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới.

Quy trình cấy vi sinh
- Cấy VK trên thạch máu: Pha loãng 1 ml
dung dịch X 100 lần. Dùng pipette hút 10μl dung
dịch pha loãng nhỏ lên thạch máu. Tráng đều

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
mặt thạch, sau đó ủ hộp thạch trong môi trường
37oC trong vòng 24 giờ.

- Sau thời gian ủ, đếm số khúm VK mọc trên
mặt đĩa thạch. Sau đó, tính ra số đơn vị khúm
trong 1 ml dung dịch nước bọt (CFU/ml) bằng
cách lấy số đơn vị khúm đếm được nhân cho 105.
Xử lý số liệu thống kê
- Các số liệu được xử lý bằng phần mềm
SPSS 22.0.

Nghiên cứu Y học

- Sử dụng phép kiểm thống kê χ2 để so sánh
các giới tính, loại răng, độ khó của răng cần nhổ
giữa hai nhóm, phép kiểm Mann-Whitney và Ttest để so sánh số lượng khúm vi khuẩn giữa 2
nhóm ở các ngày đo.
Vấn đề đạo đức
Nghiên cứu đã được xét duyệt và được sự
chấp thuận của hội đồng Y đức trường Đại học Y
dược TPHCM.

KẾT QUẢ
Bảng 1. Phân bố giới tính, tuổi, loại răng, thời gian phẫu thuật, số lượng thuốc tê giữa nhóm A và nhóm B
Nhóm A (%)
17 (50)
17 (50)
23,76 ± 2,641
19 (55,9)
15 (44,1)
18,21 ± 9,96
2,7 ± 0,37


Nam
Nữ

Giới tính
Tuổi

38
48
Thời gian phẫu thuật (phút)
Số lượng thuốc tê (ml)

Loại răng

(*)

: Phép kiểm χ2

p
(*)

0,5

(**)

0,405

(*)

0,234


(**)

0,097
(**)
0,079

(**)

: Phép kiểm T-test cho 2 mẫu độc lập

Giới tính và tuổi
Mẫu nghiên cứu gồm 68 bệnh nhân đến
phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới trong đó có
33 nam và 35 nữ. Tỷ lệ nam: nữ ở nhóm A và
nhóm B lần lượt là 1:1và 8:9, tỷ lệ nam nữ giữa
nhóm A và nhóm B khác biệt không có ý nghĩa
thống kê.
Tuổi trung bình ở 2 nhóm lần lượt là 23,76
± 2,641 và 23,29 ± 1,931. Sự phân bố tuổi ở
nhóm A và nhóm B khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (Bảng 1).
Bảng 2. Phân bố loại răng giữa nhóm A và nhóm B
Độ khó
IIA
IIIA
IIB
IIIB
IIC
Tổng


Nhóm B (%)
16 (47,1)
18 (52,9)
23,29 ± 1,931
15 (44,1)
19 (55,9)
22,09 ± 9,063
3 ± 0,64

Nhóm A (%)
13 (38,2)
8 (26,5)
9 (23,5)
4 (11,8)
0 (0)
34

Nhóm B (%)
6 (17,6)
6 (17,6)
17 (50)
4 (11,8)
1 (2,9)
34

p

(*)

0,176


: Phép kiểm χ2

(*)

Loại răng và mức độ khó nhổ
Trong 68 bệnh nhân nghiên cứu có 19 bệnh
nhân nhóm A và 15 bệnh nhân nhóm B đến nhổ
răng 38. Ngược lại, có 15 bệnh nhân nhóm A và

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

19 bệnh nhân nhóm B đến nhổ răng 48. Sự phân
bố của 2 răng này ở 2 nhóm A và nhóm B khác
biệt không có ý nghĩa thống kê.
Mức độ khó nhổ của răng khôn hàm dưới
trong nghiên cứu này được phân loại theo Pell
và Gregory, 1933. Đa số bệnh nhân nhóm A
thuộc nhóm IIA (38,2%) và bệnh nhân nhóm B
thuộc loại IIB (50%). Tuy nhiên, mức độ khó nhổ
ở 2 nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(Bảng 2).
Thời gian phẫu thuật và số lượng thuốc tê
Thời gian phẫu thuật được tính từ khi bệnh
nhân bắt đầu thấy tê môi cho đến khi kết thúc
mũi khâu cuối cùng.
Thời gian phẫu thuật trung bình ở nhóm A là
18,21 ± 9,96 phút và nhóm B là 22,09 ± 9,063 phút.
Thời gian phẫu thuật trung bình ở nhóm A và
nhóm B khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

(Bảng 1).
Lượng thuốc tê được tính theo số lượng và
phần trăm sử dụng của ống thuốc tê trong suốt
quá trình phẫu thuật. Lượng thuốc tê trung bình
được sử dụng ở nhóm A và B lần lượt là 2,74 ±

65


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

0,4 và 3 ± 0,6. Sự khác biệt về lượng thuốc tê
được sử dụng trong 2 nhóm không có ý nghĩa
thống kê.
Số lượng khúm vi khuẩn trong 1 ml dung dịch
nước bọt (CFU/ml)
Bảng 3. Số lượng khúm VK trung bình trong 1 ml
dung dịch nước bọt giữa nhóm A và B ở ngày 1,2 và 7
Ngày
đo
1
2
7
(*):

Số lượng khúm VK
5
trong 1 ml dung dịch (CFUx10 /ml)

Nhóm A
Nhóm B
237,94 ± 179,31
222,12 ± 199,46
274,68 ± 162
238,62 ± 134,11
229,06 ± 180
228,59 ± 165,81

p
(*)

0,294
(**)
0,312
(*)
0,917

Phép kiểm Mann-Whitney cho 2 mẫu độc lập

(**)

: Phép kiểm T-test cho 2 mẫu độc lập

Vào thời điểm trước phẫu thuật, số lượng
khúm vi khuẩn trung bình ở nhóm A là 237,94 ±
179,31 x 105 và nhóm B là 222,12 ± 199,46 x 105
CFU/ml, khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Vào thời điểm 2 ngày và 7 ngày sau phẫu thuật,
số lượng khúm vi khuẩn trung bình ở nhóm A

và nhóm B lần lượt là 274,68 ± 162 x 105,229,06 ±
180 x 105 và 238,62 ± 134,11 x 105, 228,59 ± 165,81
x105 CFU/ml khác biệt cũng không có ý nghĩa
thống kê (Bảng 3).

BÀN LUẬN
Tuổi và giới tính
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy
tuổi và giới tính có ảnh hưởng đến tình trạng
nhiễm trùng sau phẫu thuật nhổ răng khôn
hàm dưới(6,8). Đối với những bệnh nhân lớn
tuổi thường có thời gian nhai nhiều trên răng
khôn đã mọc làm cho lực gắn dính giữa răng
và xương ổ thông qua dây chằng nha chu càng
chặt chẽ(7). Thêm vào đó, tuổi tác càng cao
càng làm tăng mật độ xương(5). Chính vì vậy,
phẫu thuật nhổ răng khôn ở những bệnh nhân
này đòi hỏi tính xâm lấn nhiều hơn. Đối với
những bệnh nhân nhỏ tuổi, dưới 18 tuổi, đang
trong giai đoạn hình thành và mọc răng nên
chưa thể xác định được khả năng lệch, ngầm
của răng cũng như khó xác định vị trí tương
quan răng và hàm theo các phân loại. Vì vậy,
nghiên cứu này cũng không chọn những bệnh
nhân ở độ tuổi dưới 18. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi chỉ chọn những bệnh nhân trong độ
tuổi 20-30 tuổi và không có sự khác biệt về
tuổi vàgiới tính giữa nhóm A và nhóm B để
đồng nhất về tính xâm lấn của phẫu thuật.
Loại răng và mức độ khó nhổ


Biểu đồ 1: Sự thay đổi số lượng khúm VK trung bình
trong 1 ml dung dịch nước bọt giữa nhóm A và B ở
các ngày đo
Biểu đồ 1 cho thấy số lượng khúm vi khuẩn
của 2 nhóm đều tăng vào ngày thứ 2 và giảm
dần đến ngày thứ 7 sau phẫu thuật. Số lượng vi
khuẩn ở nhóm A luôn cao hơn nhóm B ở cả 3
thời điểm đánh giá, tuy nhiên sự khác biệt đều
không có ý nghĩa thống kê.

66

Hầu hết các nghiên cứu trên thế giới đều
không đề cập đến ảnh hưởng của loại răng lên
phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới do tính chất
đối xứng của răng hàm dưới bên phải và trái.
Tuy nhiên, đối với một số bệnh nhân có thói
quen cận chức năng như nghiến răng hay ăn
nhai 1 bên làm cho mức độ gắn dính giữa răng
và xương ổ răng thông qua dây chằng nha chu
càng chặt chẽ gây khó khăn cho việc lấy răng ra
trong phẫu thuật. Theo kinh nghiệm của phẫu
thuật viên, vị trí răng khôn hàm dưới bên phải
thuận lợi hơn trong khi quan sát, từ đó giúp
phẫu thuật viên dễ dàng thao tác, dẫn đến giảm
thời gian phẫu thuật trên lâm sàng. Trong
nghiên cứu này, tỷ lệ phân bố các răng ở phần
hàm phải và trái giữa nhóm A và nhóm B không
có sự khác biệt.


Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Răng khôn càng khó nhổ càng đòi hỏi những
kỹ thuật phức tạp trong quá trình phẫu thuật
như phải chia cắt răng, lật vạt và mở xương để
có thể lấy răng ra. Điều này làm tăng mức độ
xâm lấn của phẫu thuật, tạo điều kiện cho vi
khuẩn tăng trưởng. Vì vậy, chúng tôi đánh giá
mức độ khó nhổ của răng khôn hàm dưới theo
phân loại của Pell và Gregory, 1933(9). Trong
nghiên cứu này, mức độ khó nhổ của răng khôn
hàm dưới ở nhóm A và nhóm B là không có sự
khác biệt.
Thời gian phẫu thuật và số lượng thuốc tê
Thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu được
tính từ khi bệnh nhân bắt đầu tê môi cho đến khi
hoàn tất mũi khâu cuối cùng. Nhiều nghiên cứu
trên thế giới cho thấy thời gian phẫu thuật có
ảnh hưởng đến các biến chứng sau phẫu thuật
nhổ răng khôn hàm dưới. Nghiên cứu của Seidu
A. Bello và cộng sự, 2011(2), cho rằng thời gian
phẫu thuật nhổ răng khôn kéo dài làm tăng mức
độ sưng, đau và khít hàm sau phẫu thuật. Trên
thực tế, từ khi bắt đầu phẫu thuật, vùng thao tác
đã tiếp xúc với môi trường bên ngoài. Tiếp xúc
càng lâu với môi trường bên ngoài thì càng dễ
dàng tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập và

tăng trưởng. Trong nghiên cứu này, thời gian
phẫu thuật trung bình giữa nhóm A và nhóm B
không có sự khác biệt.
Thuốc tê được sử dụng trong nghiên cứu
này cho tất cả bệnh nhân là Lidocain 2%. Đây là
loại thuốc tê thuộc nhóm ester, rất ít gây dị ứng
và có hiệu quả tê kéo dài và thời gian bắt đầu tê
ngắn(9). Trong nghiên cứu này, lượng thuốc tê
trung bình được sử dụng giữa nhóm A và nhóm
B không có sự khác biệt. (Bảng 1).
Vật liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng Amoxicillin.
Amoxicillin là kháng sinh thuộc họ Penicillin
hay họ β-lactam có tính diệt khuẩn. Amoxicillin
có tác dụng kháng khuẩn với hầu hết các VK
Gram + cocci và một số VK Gram - hiếu khí và kỵ
khí(15). Streptococcus viridans là 1 cocci Gram +
cũng nhạy cảm với kháng sinh này(11). VK này

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Nghiên cứu Y học

thuộc vi khuẩn thường trú trong miệng nhưng
vẫn được tìm thấy thường xuyên với tỷ lệ 45%
trong các sang thương nhiễm trùng ở vùng
miệng mặt và là tác nhân hàng đầu gây nhiễm
trùng sau phẫu thuật nhổ răng khôn(1). Chính vì
vậy, Amoxicillin là thuốc kháng sinh thường
được chỉ định để đề phòng nhiễm trùng sau

phẫu thuật nhổ răng khôn. Liều lượng kháng
sinh được sử dụng trong trường hợp này ở
người lớn là từ 5 đến 7 ngày, mỗi ngày 500 mg 3
lần tuỳ theo nguy cơ nhiễm khuẩn. Amoxicillin
còn là kháng sinh thường được chỉ định trước
phẫu thuật ở những bệnh nhân có nguy cơ để
phòng ngừa viêm nội tâm mạc mà Streptococcus
viridans là tác nhân chính. Amoxicillin được sử
dụng trong trường hợp này với liều lượng
50mg/kg, uống 1 giờ đến 1 ngày trước khi phẫu
thuật và 25mg/kg, uống mỗi 6 giờ sau liều đầu
tiên. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho rằng
Amoxicillin dùng với 1 liều duy nhất 2 g 30 - 60
phút trước phẫu thuật, trong đó có phẫu thuật
nhổ răng khôn hàm dưới cũng có tác dụng
phòng ngừa nhiễm trùng như phác đồ trên(10,13).
Trong nghiên cứu này, Amoxicillin được sử
dụng ở dạng viên nang, liều lượng của mỗi viên
là 500 mg. Bệnh nhân ở nhóm A sử dụng 4 viên
trước phẫu thuật 1 giờ và bệnh nhân nhóm B sử
dụng thuốc 1 ngày 3 lần, mỗi lần 1 viên sau phẫu
thuật 6 giờ trong 5 ngày.
Mẫu bệnh phẩm
Bệnh phẩm sử dụng trong nghiên cứu là
nước bọt. Việc lấy nước bọt là một thủ thuật
không xâm lấn và có thể thực hiện được dễ dàng
trên lâm sàng. Do tính chất thường xuyên và phổ
biến của nước bọt trong miệng nên nước bọt
thường được sử dụng làm bệnh phẩm cho một
số nghiên cứu có liên quan đến các chỉ số trong

môi trường miệng, trong đó có việc xác định số
lượng vi khuẩn trong nước bọt. Có nhiều
phương pháp định lượng vi khuẩn trong nước
bọt. Trong nghiên cứu sử dụng phương pháp
cấy vi khuẩn trên môi trường thạch máu, là một
môi trường không chọn lọc giàu dinh dưỡng

67


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

thích hợp cho vi khuẩn phát triển; cho phép xác
định số vi khuẩn bằng cách đếm khuẩn lạc.
Bệnh nhân được yêu cầu không ăn uống gì
trong vòng 1 giờ trước khi được lấy mẫu để
tránh việc nhiễm khuẩn ngoại lai làm sai lệch kết
quả nghiên cứu. Ngoài ra, nước bọt được lấy
bằng cách cho bệnh nhân súc miệng với 10 ml
nước muối sinh lý vô trùng và được giữ trong 1
lọ vô khuẩn.

Số lượng khúm vi khuẩn trong 1 ml dung dịch
nước bọt (CFU/ml)
Môi trường miệng là môi trường thích hợp
cho nhiều loại vi khuẩn sinh sôi và phát triển.
Trung bình có khoảng 106 vi khuẩn trên 1 ml
nước bọt. Trong nghiên cứu này, số lượng vi

khuẩn trung bình trong 1 ml dung dịch nước
bọt ở nhóm A và B lần lượt là là 237,94 x 105 ±
179,31 và 222,12 ± 199,46 x 105 CFU. Ở trạng
thái bình thường, môi trường miệng là nơi trú
ngụ của những vi khuẩn thường trú không
gây bệnh, bao gồm một số loài trong đó có
Gram + như Streptococci, Peptostreptococci,
Eubacteria, Lactobacillus, Gram - như
Porphyromonas, Prevotella hay Fusobacterium.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự hiện
diện của Gram + và Gram - như trên. Nghiên
cứu còn cho thấy có sự hiện diện của liên cầu
khuẩn Gram + là hình dạng tiêu biểu của
Streptococci, ngoài ra, Streptococci cũng thuộc
loại vi khuẩn có khả năng gây tiêu huyết α và
β (không được trình bày trong kết quả).
Bình thường môi trường miệng ở trạng thái
cân bằng đa vi khuẩn, tạo thành 1 hệ tạp khuẩn.
Khi có sự thay đổi làm mất cân bằng hệ sinh thái
trong môi trường miệng, sẽ tạo điều kiện cho
nhiều loại vi khuẩn tăng sinh và gây nhiễm
trùng miệng. Nhiễm trùng trong miệng không
có vi khuẩn đặc hiệu mà là sự kết hợp của nhiều
loại vi khuẩn khác nhau. Phẫu thuật nhổ răng
khôn hàm dưới lệch, ngầm là một phẫu thuật có
tính xâm lấn và có thể gây thay đổi môi trường
miệng. Các thủ thuật gây tê và phẫu thuật đều
làm gia tăng số lượng vi khuẩn từ 15% đến

68


97%(14). Những yếu tố nguy cơ gây nhiễm trùng
của phẫu thuật này bao gồm các dị vật tại vết
thương như chỉ khâu, mô hoại tử, thiếu máu
nuôi dưỡng hay do những biến chứng trong quá
trình phẫu thuật như kim nhiễm khuẩn hoặc tạo
vạt không đúng cách(9). Nhiều nghiên cứu cho
thấy tình trạng nhiễm trùng của bệnh nhân sau
phẫu thuật này(4,5). Trong nghiên cứu này, số
lượng vi khuẩn ở 2 ngày sau phẫu thuật ở nhóm
A và B lần lượt là 274,68 ± 162 x 105 và 238,62 ±
134,11 x 105 cao hơn so với trước khi phẫu thuật.
Ngoài ra, những nghiên cứu trên còn cho thấy số
lượng vi khuẩn giảm dần theo thời gian sau
phẫu thuật(4,5). Trong nghiên cứu này số lượng vi
khuẩn 7 ngày sau phẫu thuật ở nhóm A và B lần
lượt là 229,06 ± 180 x 105 và 228,59 ± 165,81 x 105
hay có sự giảm vi khuẩn so với ngày thứ 2 sau
phẫu thuật.
Vì đây là một phẫu thuật có nguy cơ nhiễm
trùng nên thường có chỉ định kháng sinh trong
phẫu thuật để phòng ngừa biến chứng này.
Amoxicillin là kháng sinh được sử dụng rộng rãi
trong Nha khoa vì có khả năng diệt được nhiều
chủng vi khuẩn gây bệnh phổ biến trong môi
trường miệng. Việc sử dụng Amoxicillin sau
phẫu thuật để phòng ngừa nhiễm trùng đã được
đưa vào phác đồ điều trị ở các thủ thuật nhổ
răng khôn ở Việt Nam. Trên thế giới, các nghiên
cứu trên thế giới đều khẳng định hiệu quả

phòng ngừa nhiễm trùng sau phẫu thuật của
Amoxicillin(3,11). Amoxicillin phòng ngừa, sử
dụng 1 liều duy nhất trước phẫu thuật răng
khôn lệch, ngầm là một phác đồ mới, chưa được
chỉ định rộng rãi tại Việt Nam. Trên thế giới
nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu quả phòng ngừa
nhiễm trùng của phác đồ này(12,13). Trong nghiên
cứu này, kết quả cho thấy sự thay đổi số lượng
khúm vi khuẩn trước và sau phẫu thuật ở nhóm
dùng kháng sinh 1 liều duy nhất trước phẫu
thuật và nhiều liều sau phẫu thuật là như nhau.
Điều này cho thấy hiệu quả kiểm soát nhiễm
trùng của phác đồ 1 liều trước phẫu thuật tương
tự như hiệu quả của phác đồ sau phẫu thuật.
Phác đồ kháng sinh một liều trước phẫu thuật

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
còn có những ưu điểm khác như giảm thiểu số
lần dùng thuốc, giảm chi phí điều trị và quan
trọng hơn là giảm nguy cơ quên liều hoặc không
tuân thủ phác đồ điều trị, lạm dụng thuốc. Đây
là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng
kháng thuốc kháng sinh. Do đó, phác đồ kháng
sinh 1 liều duy nhất trước phẫu thuật nên chỉ
được chỉ định trong một số trường hợp nhất
định trong phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới
lệch, ngầm.


3.

KẾT LUẬN

8.

Nghiên cứu cho thấy số lượng vi khuẩn
trước và sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm
dưới lệch, ngầm ở nhóm sử dụng kháng sinh
Amoxicillin 1 liều trước và nhiều liều sau phẫu
thuật là như nhau. Tuy nhiên, việc không thay
đổi số lượng vi khuẩn không đánh giá được ảnh
hưởng của kháng sinh đến nguy cơ nhiễm
khuẩn sau phẫu thuật của bệnh nhân mà điều
này chịu chi phối của những yếu tố khác như
sức đề kháng, tình trạng nhiễm trùng tại chỗ
trước khi phẫu thuật, quy trình vô trùng cũng
như tình trang vệ sinh răng miệng của bệnh
nhân. Do đó, để đánh giá chính xác hiệu quả của
kháng sinh một liều hay nhiều liều đến sự nhiễm
trùng sau phẫu thuật cần nghiên cứu sâu hơn về
dược động lực học của kháng sinh đến khả năng
gây nhiễm trùng của vi khuẩn gây ra do quá
trình phẫu thuật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.


Bahl R et al. (2014). "Odontogenic infection: Microbiology and
management", Contemp Clin Dent. Vol. 5, pp. 307-311.
Bello SA et al. (2011). “Effect of age, impaction types and
operative time on imflammatory tissue reactions following
lower third molar surgery”, Head and Face Medecine, 7, 8-15.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

4.

5.

6.

7.

9.
10.

11.

12.

13.

14.
15.

Nghiên cứu Y học


Bresco Salinas M et al. (2006). "Susceptibilidad antibiótica de
las bacterias causantes de infecciones odontogénicas", Med
Oral Patol Oral Cir Bucal, 11, pp. 51-6.
Bui CH et al. (2003). “Types, frequencies, and risk factors for
complications after third molar extraction”, J Oral Maxillofac
Surg, 61(12), pp. 1379-89.
Chiapasco M et al. (1993). “Side effects and complications
associated with third molar surgery”, Oral Surg Oral Med Oral
Pathol, 76, pp. 412-420.
Chuang SK et al. (2007). “Age as a risk factor for third molar
surgery complication”, J Oral Maxillofac Surg, 65(9), pp. 168592.
Cotran RS et al., (1999), “Robbins pathologic basis of disease”,
W.B. Sanders Company, Philadenphia, 6, pp. 50-87.
Francois Blondeau và Nach G. Daniel (2007). "Extraction of
impacted
mandibular
third
molars:
Postoperative
complications and their risk factor", Journal of Canadian Dental
Association. Vol. 73, pp. 325-325e.
Lê Đức Lánh (2011). Phẫu thuật miệng Tập 1, Nhà xuất bản Y
học, Thành phố Hồ Chí Minh.
López Cedrún JL et al. (2011). " Efficacy of Amoxicilline
treatment in preventing postoperative complications in
patients undergoing third molar surgery: a prospective,
randomized, double-blind controlled study.", J Oral Maxillofac
Surg Vol. 69, pp. e5-14.
Maestre JR et al. (2005). "Odonntopathogen susceptibility too
amoxicillin clavulanic acid and other common antibiotics used in

odontology", European congress of chemotherapy and
infection, pp. 209.
Monaco G et al. (2009). "Evaluation of antibiotic prophylaxis
in reducing postoperative infection after mandibular third
molar extraction in young patients. J Oral Maxillofac Surg", J
Oral Maxillofac Surg, 67, pp. 1467-1472.
Olunsanya AA et al. (2011). "Prophylaxis versus pre-emptive
antibiotics in third molar surgery: a randomised control study",
Niger Postgrad MJ, 18, pp. 105-10.
Robert RJ et al. (1997). "Dental bacteremia in children", Pediatr
Cardiol, 18, pp. 24-27.
Trần Thu Hằng (2012). Dược lực học, Nhà xuất bản Phương
Đông, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày nhận bài báo:

24/01/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

25/02/2018

Ngày bài báo được đăng:

15/03/2018

69




×