Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 84 trang )

THƯ
VIỆN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
______________

ĐINH ÁI LINH

CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN ĐẠI
HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số
: 06 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU

Thành phố Hồ Chí Minh - 2006


LỜI CẢM ƠN
Xin cảm ơn các phòng, ban chức năng thuộc các Trường, khoa, Đơn vị
thành viên Đại học Quốc gia Tp HCM đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình
khảo sát, điều tra;
Xin cảm ơn Phòng Sau đại học, Khoa tâm lý giáo dục Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh giúp đỡ về các thủ tục hành chính thực


hiện luận văn tốt nghiệp.
Cám ơn quí thầy cô đã tận tình giảng dạy, đồng nghiệp, bạn bè, gia đình
đã quan tâm giúp đỡ trong quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đoàn Văn Điều đã giúp đỡ thực hiện
luận văn, đặc biệt là sự ủng hộ, động viên, khích lệ của Thầy trong những lúc
gặp khó khăn.

ĐINH ÁI LINH


BẢNG DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHQG-HCM

:

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

HSSV

:

Học sinh, sinh viên

KTX

:

Ký túc xá

TTQLKTX


:

Trung tâm Quản lý Ký túc xá

GD& ĐT

:

Giáo dục và Đào tạo

CĐSP

:

Cao đẳng Sư phạm

ĐH

:

Đại học

NCKH

:

Nghiên cứu khoa học

SV


:

Sinh viên

QLSV

:

Quản lý Sinh viên

TNCS

:

Thanh niên cộng sản

Tp HCM

:

Thành phố Hồ Chí Minh


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
-Học sinh, sinh viên (HSSV) trước hết là công dân có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy
định trong Hiến pháp Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và trong các luật định
hiện hành. “Công tác HSSV phải hướng vào thực hiện mục tiêu đào tạo chung là hình thành
nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân; đào tạo những người lao động tự chủ, sáng tạo

và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, có kiến
thức văn hóa, khoa học, công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp, có sức khỏe, có khả năng góp phần
hiệu quả làm cho dân giàu nước mạnh, đưa đất nước tiến kịp thời đại, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [39] .Vì vậy công tác quản lý HSSV đóng vai trò hết sức quan
trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần xây dựng nên con người xã hội chủ nghĩa.
-Đại học Quốc gia Tp HCM (ĐHQG-HCM) là một trong hai đại học hàng đầu của cả nước
về giáo dục đào tạo. Đại học Quốc gia Tp HCM là một trung tâm đào tạo đại học, sau đại
học và nghiên cứu khoa học chất lượng cao, đạt trình độ tiên tiến, làm nòng cốt trong hệ
thống giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội (Điều 6 Chương 2- Quy
chế ĐHQG-HCM theo QĐ 16/2001/QĐ-TTg ngày 12/2/2001). Số lượng sinh viên Đại học
Quốc gia Tp HCM có trên 40.000 sinh viên thuộc các hệ đào tạo. Công tác quản lý hoạt động
học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM chưa đáp ứng được nhu cầu số
lượng sinh viên ngày càng tăng.
- Hiện nay, Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên
ĐHQG-HCM còn thiếu các văn bản pháp lý mà mới chỉ ở bước đầu ban hành một số hướng
dẫn, thông báo, qui chế, qui trình về tổ chức … song cũng chưa đầy đủ và kịp thời nên ít
nhiều gây khó khăn, trở ngại cho việc thực thi. Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên
cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM còn lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
trên lĩnh vực này. Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học chưa thực sự
có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng đào tạo của ĐHQG-HCM. Vì thế, công tác quản
lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM còn ở mức độ hạn
chế nhất định. Muốn phát triển giáo dục thì phải gắn chặt việc học tập với nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ. Đó là quốc sách, là giải pháp có tính chiến lược để đưa đất
nước phát triển nhanh.


Từ những lý do trên đề tài “Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học
của sinh viên ĐHQG-HCM” được thực hiện.

2. Mục đích nghiên cưú đề tài

Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh
viên ĐHQG-HCM và đưa ra các biện pháp nhằm cải tiến, góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh
viên ĐHQG-HCM.
- Khách thể nghiên cứu: Cán bộ, giảng viên và sinh viên trong ĐHQG-HCM.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học
của sinh viên ĐHQG-HCM.
4.2 Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh
viên ĐHQG-HCM.
4.3 Đề xuất các giải pháp cải tiến công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học
của sinh viên ĐHQG-HCM.

5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và các biện pháp công tác quản lý hoạt động học tập
và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM.

6.Giả thuyết nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM
chưa đạt được các yêu cầu đề ra. Vì thế, muốn đạt được hiệu quả thì cần phát triển các biện
pháp quản lý, giáo dục, hỗ trợ sinh viên học tập và nghiên cứu khoa học.

7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh

viên ĐHQG-HCM.


+ Phân tích các báo cáo Hội nghị, báo cáo tổng kết năm học của các Trường/ Khoa/ Đơn vị
thành viên ĐHQG-HCM để tổng kết thực tiễn.
- Phương pháp điều tra, khảo sát xã hội bằng phiếu trưng cầu ý kiến của sinh viên và cán bộ,
giảng viên trong ĐHQG-HCM.
Giai đoạn 1: Dùng bảng câu hỏi, chủ yếu là câu hỏi mở, xoay quanh các nội dung nghiên cứu
của đề tài. Trưng cầu ý kiến cán bộ, giảng viên và sinh viên ĐHQG-HCM về nhận thức và vai
trò của hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học trong sinh viên.
Giai đoạn 2: Xây dựng bảng câu hỏi tên cơ sở các ý kiến thu được ở giai đoạn 1 (xem phụ lục)
- Phương pháp toán thống kê ứng dụng dùng xử lý số liệu
+ Toán thống kê ứng dụng để xử lý các số liệu kết quả thu thập được.
- Điều tra thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh
viên từ 102 cán bộ, giảng viên các trường đại học thành viên ĐHQG-HCM và 584 sinh viên
ĐHQG-HCM.

8. Đóng góp của đề tài
1. Xác định những đặc trưng của công tác quản lý sinh viên, làm cơ sở cho những nghiên
cứu lý luận về việc tổ chức quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên
ĐHQG-HCM.
2. Góp phần làm sáng tỏ thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa
học của sinh viên ĐHQG-HCM, đồng thời chỉ ra những tồn tại về mặt tổ chức quản lý hoạt
động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM.
3. Một số biện pháp khả thi trong công tác tổ chức, quản lý và làm tăng hiệu quả hoạt động
học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM.


NỘI DUNG
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN ĐHQG-HCM
1.1. Lịch sử nghiên cứu
Đề tài công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên tuy đã
có đầu tư nghiên cứu của các cơ quan khoa học, các tác giả trong và ngoài nước đề cập đến,
song các công trình cụ thể về công tác này còn rất ít ỏi và chưa hệ thống.
Gần đây có một số Luận văn thạc sỹ khoa học và Tạp chí Giáo dục đã có những
nghiên cứu xung quanh vấn đề này như sau:
* Nghiên cứu về công tác quản lý học sinh, sinh viên
1. Nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục học sinh, sinh viên [19,tr.14] Tác giả đề cập đến việc
nâng cao hiệu quả quản lý, giáo dục HSSV, bồi dưỡng năng lực phẩm chất cho đội ngũ
HSSV-những người chủ tương lai của đất nước.
2. Những biện pháp tăng cường quản lý học sinh ở Trường Trung học Cảnh sát Nhân dân I
[25]. Trường Trung học Cảnh sát Nhân dân I là một trường có mô hình quản lý sinh viên
chặt chẽ, mang tính nghiêm ngặt do tính chất đặc thù của ngành nên đòi hỏi tính kỹ luật cao.
Tác giả đã nêu lên những thực trạng và tồn tại cần khắc phục, đồng thời đưa ra biện pháp khả
thi nhằm thực hiện tốt việc lưu trữ, lập hồ sơ HSSV để quản lý và đề xuất công tác hỗ trợ
HSSV trong học tập.
3. Một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường cao đẳng giao
thông vận tải 3 [46] Tác giả đưa ra nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng quản lý nếp sống ăn
ở, học tập, sinh hoạt sinh viên nội trú trong nhà trường.
* Nghiên cứu về công tác quản lý hoạt động học tập của học sinh, sinh viên ngoài giờ lên
lớp.
1. Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp của học sinh
Trường Trung học Cảnh sát Nhân dân I [8] Tác giả đề cập đến hoạt động học tập ngoài giờ
lên lớp là một hoạt động rất cần thiết và hữu ích đối với học sinh sinh viên, hoạt động này
mang tính tự học cao mà tự học được thì mới tự đào tạo được, mới học tập suốt đời được.
Ngoài ra, hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp thông qua những hoạt động ngoại khoá làm



cho HSSV gắn kết với nhau trong học tập. Việc tổ chức quản lý học sinh, sinh viên bằng các
hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp là một việc làm có tính khả thi, mang lại hiệu quả cao.
2. Rèn luyện kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho sinh viên sư phạmMột số vấn đề cấp thiết [34] Tác giả đề xuất một số kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp cho sinh viên.
* Nghiên cứu việc đánh giá học tập và nâng cao tính tích cực tự học cho sinh viên.
1. Đổi mới công tác kiểm tra- đánh giá kết quả học tập của sinh viên [16] Tác giả đề xuất sự
cần thiết phải đổi mới công tác kiểm tra đánh giá và một số giải pháp đổi mới công tác kiểm
tra đánh giá học tập của sinh viên.
2. Nâng cao tính tích cực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên qua việc tổ chức Seminar và
hướng dẫn ôn tập, tổng kết chương [22] Tác giả đề xuất biện pháp nhằm hỗ trợ sinh viên tự
học, tự nghiên cứu phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động trong học tập mà biểu hiện cao
nhất là thực hiện “sáu mọi” : học mọi lúc, học mọi nơi, học mọi người, học mọi hoàn cảnh,
học bằng mọi cách, học qua mọi nội dung.
* Nghiên cứu việc tổ chức nghiên cứu khoa học cho sinh viên.
1. Rèn luyện kĩ năng tổ chức nghiên cứu khoa học cho sinh viên, đáp ứng nhu cầu đào tạo
mới [6,tr.23] Tác giả đưa ra 5 tiêu chí cụ thể của việc rèn luyện và đánh giá kỹ năng tổ chức
nghiên cứu khoa học của sinh viên theo một đề tài đã chọn, đồng thời đưa ra các kiến nghị để
nâng cao chất lượng của việc rèn luyện kỹ năng tổ chức NCKH cho sinh viên.
2. Về các tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học-công [12,tr.5] Tác giả
đưa ra các tiêu chí để đánh giá chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học và tác giả cho
rằng đối với hoạt động nghiên cứu khoa học-công nghệ, chất lượng được thể hiện qua giá trị,
hiệu quả khoa học-công nghệ, tính đặc thù, độc đáo và sáng tạo của kết quả nghiên cứu đã dự
kiến và mong muốn.
3. Sinh viên nghiên cứu khoa học- một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo
ở Trường Đại học Bách khoa Hà nội [10,tr.41] Tác giả nêu lên quan điểm trong việc nghiên
cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Bách khoa Hà nội và Ông cho rằng việc sinh
viên nghiên cứu khoa học là một mắc xích quan trọng trong dây chuyền đào tạo kĩ sư công
nghệ của Trường.

1.2 Sơ lược về Đại học Quốc gia Tp HCM



1.2.1. Sự hình thành, xây dựng, phát triển ĐHQG-HCM
Sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ những năm cuối thế kỷ 20 đầu thể
kỷ 21, cùng với xu thế hợp tác phát triển trên thế giới, đẩy nhanh sự phát triển của nền kinh
tế trí thức, càng chứng tỏ vai trò có ý nghĩa của nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng
cao. Ở Việt nam, điều này lại càng có ý nghĩa lớn lao khi sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện
đại hóa đất nước là mục tiêu hàng đầu để phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Chính vì vậy,
hơn lúc nào hết những đòi hỏi về đột phá, cải tổ hệ thống giáo dục – đào tạo nhằm đáp ứng
nhu cầu hội nhập và phát triển đất nước càng trở nên bức thiết.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện, hệ thống đại học Việt Nam bộc lộ sự
lạc hậu và yếu kém; do đó việc tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học trở thành
đòi hỏi cấp thiết. Mục tiêu của việc sắp xếp này là nhằm xóa bỏ những bất hợp lý đang tồn
tại trong mạng lưới trường đại học (chuyên ngành đào tạo quá hẹp, tình trạng khép kín, cục
bộ trong hoạt động đào tạo giữa các trường, phân tán, trùng lắp nhiệm vụ đào tạo trên cùng
một địa bàn) là nhằm tạo sự liên thông trong hệ thống, để sử dụng có hiệu quả đội ngũ giảng
viên và cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu, xây dựng các
trường đại học lớn, đa ngành có trình độ và chất lượng cao trong đào tạo nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ.
Việc thành lập Đại học Quốc gia, một trung tâm đào tạo nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ đa ngành, đa lãnh vực, chất lượng cao là một chủ trương đúng đắn.
Đây cũng là việc mới mẻ, khó khăn. Để thực hiện chủ trương này ngoài quyết tâm cao còn
phải có sự đầu tư về con người, phương tiện và cơ chế, phải có cách thức và bước đi thích
hợp.
Ngày 27-1-1995, Chính phủ ra Nghị định 16/CP thành lập Đại học Quốc gia Tp HCM
(ĐHQG-HCM) trên cơ sở sắp xếp 9 trường đại học thành 8 trường thành viên (thực tế là 10
trường, vì Trường Đại học Kỹ thuật gồm ba trường hợp thành: Đại học Bách khoa, Đại học
Sư phạm Kỹ thuật và Đại học Kiến trúc, nhưng ba trường này không hợp nhất được).
Tổng số cán bộ công chức khi đó của ĐHQG-HCM là 3.573 người. Cán bộ giảng dạy
có 2.320 người, trong đó có 18 giáo sư, 80 phó giáo sư, 426 tiến sĩ, 620 thạc sĩ.

Về qui mô đào tạo, tổng số sinh viên: 142.228, trong đó hệ chính qui: 67.059, hệ đại
học không chính qui: 50.253, cao đẳng: 14.470. Số học viên sau đại học: 2.016, bao gồm 313
nghiên cứu sinh và 1.703 học viên cao học.


ĐHQG-HCM chính thức ra mắt ngày 6-2-1996. ĐHQG-HCM hoạt động chưa được bao lâu
thì lâm vào khủng khoảng cơ cấu kéo dài và ngày càng trầm trọng.
Bắt đầu là sự bộc lộ tính không hợp lý trong việc chia hai giai đoạn trong đào tạo đại
học và việc có Trường Đại học Đại cương riêng biệt, làm cho quá trình đào tạo đại học bị cắt
khúc, gián đoạn, còn mục tiêu liên thông và sử dụng chung đội ngũ, cơ sở vật chất lại không
đạt được.Việc thi chuyển giai đoạn, sàng lọc, cấp chứng chỉ đại học đại cương tạo ra sự nặng
nề, căng thẳng, dư luận xã hội không đồng tình. Trong ĐHQG-HCM, việc tổ chức đào tạo
giai đoạn đại cương cũng không thống nhất. Trường Đại học Đại cương ĐHQG-HCM chỉ tổ
chức đào tạo chung cho 5 trường thành viên, các trường còn lại tự tổ chức đào tạo.
Ngày 1-9-1998, Chính phủ ra Nghị định 67/CP/1998 giải thể Trường Đại học Đại
cương.
Đại học Quốc gia bao gồm cả các Trường Đại học Sư phạm làm cho chủ trương tập
trung đầu tư xây dựng trường Đại học Sư phạm trọng điểm gặp trở ngại, vì các trường này là
những trường ngành, có chức năng, nhiệm vụ đặc thù trong hệ thống đại học. Ngày 26-81999 Bộ Chính trị có công văn số 244/CV-TW “đồng ý tách trường Đại học Sư phạm ra
khỏi Đại học Quốc gia Tp HCM”, tiếp đó ngày 12-10-1999, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết
định số 201/1999/QĐ-TTg để thực hiện việc này.
Trước đó, ngày 23-8-1999, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố Đề án quy hoạch mạng
lưới các trường đại học và cao đẳng Việt nam đến năm 2020, mà một trong các nội dung là
dự kiến biến Đại học Quốc gia thành trường đại học và các trường thành viên trong Đại học
Quốc gia thành các khoa. Đề án này gây xôn xao dư luận trong các trường thành viên
ĐHQG-HCM, nhiều trường tổ chức thảo luận, kiến nghị. Sáu trên tám trường thành viên gửi
công văn xin tách ra khỏi ĐHQG-HCM. Tình hình mất ổn định nghiêm trọng. ĐHQG-HCM
đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Để tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng Đại học Quốc gia, các
Đại học Quốc gia nhất thiết phải được tổ chức lại.
Ngày 29-8-2000, Bộ Chính trị ra thông báo số 315- TB/TW về định hướng tổ chức lại

Đại học Quốc gia, trong đó nêu kết luận quan trọng “Chủ trương xây dựng hai Đại học Quốc
gia thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đa ngành, đa
lĩnh vực, chất lượng cao, ngang tầm khu vực, dần dần đạt trình độ quốc tế là hoàn toàn đúng
đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và xu hướng phát tiển giáo dục đại học
của khu vực và thế giới”. Đó là sự đánh giá đúng đắn và nghiêm khắc. Cũng trong thông báo


này, Bộ Chính trị có ý kiến cụ thể về tổ chức lại ĐHQG-HCM, theo đó trước mắt gồm:
Trường Đại học Bách khoa, Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, các Viện, Khoa, Trung tâm trực thuộc. Các trường đại học thành viên khác
(Kinh tế, Nông lâm, Kiến trúc, Luật, Sư phạm Kỹ thuật) tách ra khỏi ĐHQG-HCM thành các
trường độc lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Ngày 1-2-1001, Chính phủ ra Nghị định 07/2001/NĐ-CP về ĐHQG-HCM, tiếp đó
ngày 12-2-2001 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 16/2001/QĐ-TTg ban hành Quy chế
về tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia. Những quyết định này góp phần chặn lại quá
trình khủng hoảng mô hình, khủng hoảng cơ cấu kéo dài, mở ra thời kỳ mới, thời kỳ ổn định,
tạo thế và lực cho sự phát triển vững chắc của ĐHQG-HCM.
Ngày nay, ĐHQG-HCM có quy chế tổ chức và hoạt động riêng, là nơi đóng vai trò
nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại học nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của khu vực và cả nước. ĐHQG-HCM còn 4 trường đại học, 01 viện, 01 khoa, các trung
tâm chức năng và 01 trường phổ thông năng khiếu chịu trách nhiệm đào tạo học sinh năng
khiếu. ĐHQG-HCM đã xác định ba mũi nhọn quan trọng để đột phá nhằm tạo nên bước
chuyển biến nhanh: Tập trung đầu tư cơ sở vật chất theo qui hoạch tổng thể đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt trên tổng diện tích 643,7 ha, trong đó 522 ha thuộc tỉnh Bình
Dương và 121,7 ha thuộc thành phố Hồ Chí Minh theo mô hình trung tâm đào tạo đại học và
sau đại học; Không ngừng nghiên cứu đổi mới nội dung chương trình đào tạo, phương pháp
giảng dạy theo hướng tiêu chuẩn hoá quốc tế và đưa chính sách đãi ngộ để thu hút nhân tài
tiến tới xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý, giảng dạy có trình độ chuyên môn cao, đạo
đức tốt; Tăng cường đầu tư trang thiết bị, công cụ giảng dạy tiên tiến và nghiên cứu ứng
dụng, triển khai khoa học công nghệ hiện đại.

1.2.2. Sinh viên ĐHQG-HCM
* Khái niệm sinh viên
Theo ngôn ngữ Hán Việt, từ “Sinh viên” được diễn nghĩa ra là người bước vào cuộc
sống, cuộc đời. Theo từ điển tiếng Việt khái niệm sinh viên dùng để chỉ người học ở bậc đại
học (Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng-Trung tâm Từ điển học, Hà Nội- Đà Nẵng,
1977). Theo cách hiểu phổ biến hiện nay thì “….. người đang học trong hệ đại học và cao
đẳng gọi là sinh viên” (Qui chế công tác học sinh, sinh viên trong các Trường đào tạo, Bộ
GD&ĐT-Hà Nội 1996, Ban hành kèm theo quyết định số 1584/GD-ĐT ngày 27/7/1993).


Như thế, nếu không xét về hình thức gọi tên thì sự ra đời của thuật ngữ sinh viên đã gắn liền
với sự ra đời của trường đại học. Hơn 700 năm đối với sinh viên thế giới và gần 300 năm đối
với sinh viên Việt nam quả là một lịch sử lâu dài đủ cho chúng ta có quyền tự hào, suy ngẫm
và nhìn nhận những gì mình đã có, để chuẩn bị hành trang cho sinh viên thêm một tuổi
đời…. Nhưng theo cách phổ biến hiện nay trong xã hội thì khái niệm sinh viên được dùng
trùng hợp, và cũng được Nhà nước thể chế hóa, pháp lý hoá thuật ngữ này bằng Luật định
trong Luật Giáo dục do Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X kỳ họp
thứ 4 thông qua đã thống nhất cách gọi đối với học sinh-sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh:
-Sinh viên (SV): là danh từ được gọi chung cho người học ở bậc cao đẳng, đại học.
* Đặc điểm tâm lý sinh viên


Về mặt tâm lý, trước hết ta đề cập đến sự phát triển trí tuệ ở lứa tuổi chuyển tiếp.

Trong thời kỳ này sự phát triển trí tuệ được đặc trưng bởi sự nâng cao năng lực trí tuệ, biểu
hiện rõ nhất trong việc tư duy sâu sắc và rộng mở, có năng lực giải quyết những nhiệm vụ trí
tuệ ngày một khó khăn hơn, cũng như có tiến bộ rõ rệt trong lập luận logic, trong việc lĩnh
hội tri thức, trí tưởng tượng, sự chú ý và ghi nhớ. Ở lứa tuổi này đã phát triển khả năng hình
thành ý tưởng trừu tượng, khả năng phán đoán, nhu cầu hiểu biết và học tập. Một trong
những đặc trưng cơ bản của sự phát triển trí tuệ thời kỳ chuyển tiếp là “tính nhạy bén cao

độ”. Sự phát triển nói trên cùng với óc quan sát tích cực và nghiêm túc sẽ tạo khả năng cho
lứa tuổi này biết cách lĩnh hội một cách tối ưu, mà đó chính là cơ sở của toàn bộ quá trình
học tập.
Lứa tuổi này cũng thường dễ bị lúng túng với những ứng xử tình cảm và nhạy cảm trước sự
phê bình hoặc khen ngợi… Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng của lứa tuổi thanh
niên- sinh viên là sự phát triển tự ý thức.Tự ý thức là một dạng đặc biệt của ý thức trong đời
sống cá nhân, có chức năng điều chỉnh nhận thức và thái độ đối với bản thân. Đó là quá trình
tự quan sát, tự phân tích, tự kiểm tra, tự đánh giá… về hành động và kết quả tác động của
bản thân về tư tưởng, tình cảm, phong cách đạo đức, hứng thú… là sự đánh giá toàn diện về
chính bản thân và vị trí của mình trong cuộc sống. Tự ý thức chính là điều kiện để hoàn thiện
và phát triển nhân cách, hướng nhân cách theo các yêu cầu của xã hội.
 Sinh viên có những đặc điểm sau:
- Là những người tốt nghiệp phổ thông trung học…. đã qua kỳ thi tuyển sinh cấp quốc gia
hoặc xét tuyển vào đại học, cao đẳng. Họ là thanh niên ưu tú có học lực từ khá, khá giỏi trở


lên, ở các trường phổ thông trước đó là những người có ý thức học tập, thông minh, tiếp thu
nhanh cái mới, cần cù, chịu khó, ham tìm tòi học hỏi, giàu ước mơ, có ý thức vươn lên đạt
đỉnh cao của khoa học kỹ thuật.
- Đa số sinh viên thuộc độ tuổi từ 18 đến 25 từ trước đến nay chủ yếu đi học, chưa có nghề
nghiệp, chưa có việc làm ổn định còn phụ thuộc vào gia đình.
- Xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau trong xã hội.
- Đang học tập ở nhiều trường đại học khác nhau, học nhiều ngành khác nhau, nhiều hệ đào
tạo khác nhau.
- Là một lực lượng đông đảo có tổ chức chặt chẽ.
- Là đội ngũ có trình độ, tri thức khá cao trong xã hội.
Là một bộ phận thanh niên nhưng sinh viên lại là nguồn bổ sung cho đội ngũ tri thức.
Trong thực tế, dù có nhiều người trở thành tri thức qua con đường tự học, nhưng đại thể tri
thức được sản sinh và phát triển từ các trường đại học. Học vấn đại học là điều kiện cần để
con người được xếp vào đội ngũ tri thức nên sinh viên cũng có một số đặc tính gần với đặc

tính của trí thức thể hiện ở khả năng tiếp thu tri thức, tiếp thu cái mới, nhạy cảm với vấn đề
chính trị, xã hội…
Do có sự thay đổi lớn về môi trường học tập, từ sự quản lý chặt chẽ của gia đình và
thầy cô giáo ở phổ thông trung học đến khi vào đại học môi trường mới với nhiều quyền chủ
động, cùng với sự trưởng thành về mặt xã hội và sinh học, nhu cầu của sinh viên được khơi
dậy, phát triển phong phú, đa dạng. Đó là nhu cầu mở rộng kiến thức, nhu cầu đời sống, nhu
cầu tự khẳng định và tự hoàn thiện, nhu cầu học tập định hướng cho nghề nghiệp tương lai,
nhu cầu tình bạn, tình yêu…
Đại bộ phận sinh viên còn thiếu kinh nghiệm cuộc sống xã hội, dễ đánh giá nông cạn
các hiện tượng đời sống xã hội nên dễ có thái độ cực đoan với các hiện tượng của xã hội.
Mặt khác, họ có thể có một nhược điểm khác là nhận thức chưa đầy đủ, coi thường tất cả
những gì vượt ra ngoài phạm vi của khái niệm khoa học hạn hẹp đã học, dễ bị kích động và
lôi kéo.
Đây là lực lượng ưu tú, tinh túy nhất trong thanh niên Việt nam, nguồn nhân lực quan
trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội, khoa học kỹ
thuật, công nghệ… là lực lượng nồng cốt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất
nước ta trong giai đoạn hiện nay và mai sau.


 Sinh viên ĐHQG-HCM
Đại học Quốc gia Tp HCM là một trung tâm đào tạo đại học, sau đại học và nghiên
cứu khoa học chất lượng cao, đạt trình độ tiên tiến, làm nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại
học, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội (Điều 6 Chương 2- Quy chế ĐHQG-HCM
theo QĐ 16/2001/QĐ-TTg ngày 12/2/2001). Để đạt mục được nhiệm vụ đó, ĐHQG-HCM
tuyển chọn sinh viên chất lượng cao ngay từ đầu vào và đào tạo sinh viên trở thành những
lao động trí óc có trình độ “Trí thức bậc cao”, có lý tưởng cách mạng, đạo đức trong sáng,
nhận thức chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có hiểu biết kiến thức khoa
học-kỹ thuật công nghệ rộng và chuyên môn sâu, có tay nghề cao cả về lý thuyết lẫn thực
hành đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và xã hội, trở thành các kỹ sư, cử nhân tài
năng của đất nước, có kỷ luật, trung thực, say mê nghiên cứu khoa học và có khát vọng vươn

lên trong học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức khoa học, trung thành với Đảng, cách mạng
tận tụy suốt đời công hiến sức trẻ, trí tuệ cho dân, cho nước.

1.3. Những khái niệm công cụ
1.3.1. Quản lý
Để tồn tại và phát triển, con người không thể hành động riêng lẻ mà cần phối hợp những
nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh
thần … ngày càng được thực hiện trên quy mô lớn với tính chất và độ phức tạp ngày càng
cao, càng đòi hỏi sự phân công, chuyên môn hoá lao động đã xuất hiện một dạng lao động
đặc biệt- lao động quản lý. Hoạt động quản lý cần thiết với mọi lĩnh vực hoạt động trong xã
hội, trong mỗi quốc gia và trên toàn cầu.
Có nhiều định nghĩa khác nhau của quản lý, nhưng trong luận văn chỉ nêu một số định nghĩa
tiêu biểu, đó là:
- Quản lý là việc đạt tới mục tiêu bằng và thông qua người khác. Con người là nguồn lực chủ
yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của tổ chức. Điều này đã được khẳng định trong thời
gian qua và ngày nay nó càng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý.
- Quản lý là một quá trình tác động có mục đích của con người vào một hệ thống nào đó
nhằm thay đổi hiện trạng của hệ thống đó hoặc đưa vào hệ thống đó những thuộc tính mới.
- Quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có chủ đích) có tổ chức, có lựa chọn
trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi


trường, nhằm giữ cho sự vận động của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển
tới mục tiêu đã định.
- Quản lý vốn là một khoa học và cũng là một nghệ thuật để điều khiển một hệ thống xã
hội từ vi mô đến vĩ mô hết sức năng động, phức tạp, vừa khép kín, vừa có độ mở tương
đối để đối nhân xử thế trong tổng hoà các mối quan hệ liên nhân cách giữa người quản lý
với người dưới quyền, với cấp trên và với cộng đồng xã hội.
- “Quản lý là quá trình hoàn thành công việc thông qua con người và với con người”
[20,tr.14]

- Theo thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol thì “Quản lý hành chính là dự báo và
lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.
- Theo Frederick W.Taylor đưa ra Học thuyết quản lý theo khoa học thì: “Quản lý là
biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã
hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.
- “Quản lý là hành động-một loại hoạt động xã hội nhằm đạt mục đích đề ra bằng việc
thực hiện các nhiệm vụ, chức năng theo một phương pháp quản lý phù hợp. Quản lý là
tác động định hướng” [27,tr.15]
- Trong Bộ Tư bản, C.Marx đã nói: “Bất kỳ lao động nào có tính xã hội chung và trực
tiếp, được thực hiện với quy mô tương đối lớn đều ít nhất cần đến sự quản lý ”.
Với tính chất là lao động dạng đặc thù xã hội của con người, quản lý và công tác quản
lý là một vấn đề có tính lý luận và luôn gặp trong thực tiễn đời sống của mọi lĩnh vực riêng
biệt trong hoạt động xã hội. Quản lý là một khoa học, là nghệ thuật mang đặc điểm tâm lý
với tính nhạy cảm tế nhị có kỹ thuật (lao động đặc thù: trí óc và tay chân kết hợp hỗ trợ của
các phương tiện kỹ thuật và công nghệ…), mà thực chất là quản lý “Một tiểu hệ thống xã
hội” nảy sinh từ chức năng của chính bản thân nó trong quá trình điều khiển mọi quá trình xã
hội khác: thông qua mối quan hệ hữu cơ tương tác, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa chủ thể
và khách thể quản lý, vận hành theo một hệ thống để hướng đến đạt được mục tiêu nhất định
của tổ chức xã hội. Đó chính là công tác quản lý và tập hợp các tác động tương hỗ quản lý,
làm xuất hiện các mối quan hệ quản lý để điều khiển một hệ thống tổ chức chuyển động từ
trạng thái này sang trạng thái khác theo ý đồ của nhà quản lý.
1.3.2. Quản lý giáo dục


Cho đến nay cũng đã có rất nhiều định nghĩa về “quản lý giáo dục”, nhưng trên bình diện
chung, những định nghĩa này đều thống nhất về mặt bản chất.
Theo F.G. Panatrin thì “Quản lý giáo dục là tác động một cách có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các
khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự phát triển toàn diện, hài hoà ở thế hệ trẻ.”
Theo P.V Khudominxki thì “Quản lý giáo dục là việc xác định những đường lối cơ bản,

những nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan trong hệ thống giáo dục”.
Theo M.Zade thì “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp nhằm đảm bảo sự vận
hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển
và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng”.
Theo Phạm Minh Hạc :“Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là hoạt động dạy học….
có tổ chức được hoạt động dạy học thì mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hoá đường
lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân,
của đất nước”.
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật với chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường
lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học- giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo
dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.
Nguyễn Gia Quý khái quát “ Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở
nhận thức và vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân”
(Bản chất của hoạt động quản lý- Hà Nội, 1996).
Vì thế quản lý giáo dục có một khái niệm sau đây tương đối chuẩn mà mọi người có
thể chấp nhận: “Quản lý giáo dục (nói chung) và quản lý trường học (nói riêng) là hệ thống
tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện mục tiêu: nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có
tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và
có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm cho nền kinh tế hàng hoá


nhiều thành phần” (Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII, Sự thật, Hà Nội,
1999, trang 81). [21,tr.13]
Như vậy, khái niệm quản lý và quản lý giáo dục là một thuật ngữ vừa có nghĩa hẹp lẫn

nghĩa rộng. Do đó, hiểu đúng nghĩa của các cụm từ này để vận dụng có hiệu quả vào thực
tiễn công tác quản lý giáo dục ở trường học nói chung và đại học nói riêng là vấn đề khá nan
giải. Cho nên, đòi hỏi nhà quản lý giáo dục ở tất cả các cấp, bậc học phải nghiên cứu và hiểu
thấu đáo, mang tính khoa học, có chiều sâu để ứng dụng phù hợp một cách tương thích, hài
hoà với trách nhiệm quản lý đương nhiệm ở từng trường hợp cụ thể.
Chúng ta có thể khái quát việc quản lý giáo dục qua sơ đồ sau:
CHỦ THỂ QUẢN LÝ

HỆ
QUẢN


NỘI DUNG
PHƯƠNG PHÁP

MỤC TIÊU
THÔNG TIN NGƯỢC

GIÁO DỤC

KHÁCH THỂ QUẢN LÝ

1.4. Lý luận về hoạt động
1.4.1 Khái niệm hoạt động
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người bằng cách tác động vào đối tượng để
tạo ra sản phẩm tương ứng nhằm thỏa mãn (trực tiếp hay gián tiếp) nhu cầu của bản thân, của
một nhóm người hay toàn thể xã hội. Theo Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị “ Hoạt động
của con người nhằm đáp ứng những nhu cầu của nó”. [26,tr.23]
Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà nẵng,1995 đưa ra
định nghĩa sau: “Hoạt động là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm

một mục đích nhất định trong đời sống xã hội”.
Như vậy:
- Hoạt động là sự tương tác tích cực của chủ thể và đối tượng nhằm biến đổi đối tượng
theo mục đích mà chủ thể tự giác đặt ra để thỏa mãn nhu cầu của bản thân.
- Hoạt động sinh ra là từ nhu cầu, nhưng lại được điều chỉnh bởi mục tiêu mà chủ thể
nhận thức được. Nhu cầu với tư cách là động cơ, là nhân tố khởi phát của hoạt động.


Nhưng bản thân sự hoạt động (nội dung, hình thái) lại chịu sự chi phối của mục tiêu
mà chủ thể nhận thức được.
Theo tâm lý học Macxít “Cuộc sống con người là một dòng hoạt động. Con người là
chủ thể của các hoạt động thay thế nhau. Hoạt động là quá trình con người thực hiện các
quan hệ của con người với thế giới tự nhiên, xã hội, người khác và bản thân. Đó là quá trình
chuyển hoá năng lực, lao động và các phẩm chất tâm lý khác của bản thân thành sự vật,
thành thực tế và quá trình ngược lại là quá trình tách những thuộc tính của sự vật, của thực
tế quay trở về với chủ thể, biến thành vốn liếng tinh thần của chủ thể ”.
A.N.Lêônchiep đã nhấn mạnh rằng: “Hoạt động là phương thức tồn tại của con người
trong thế giới. Ông cho rằng muốn sống được trong thế giới xung quanh, con người phải
tiến hành các hoạt động đối với thế giới đó, sản xuất ra các đối tượng, lĩnh hội các phương
thức sử dụng các đối tượng đó (các phương thức này chứa sẵn trong các đối tượng đó) nhằm
thỏa mãn nhu cầu này hay nhu cầu khác”.
Như vậy có thể định nghĩa “Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con
người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con người
(chủ thể)”.
1.4.2 Đặc điểm của hoạt động
- Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng
Đối tượng của hoạt động là cái con người làm ra, cần chiếm lĩnh. Trong hoạt động học
tập và nghiên cứu khoa học của mình, sinh viên cần chiếm lĩnh các tri thức khoa học, biến
thành vốn sống, vốn hiểu biết và phát triển nhân cách của bản thân. Vì vậy, tri thức là đối
tượng của hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học.

- Hoạt động bao giờ cũng mang tính mục đích
Hoạt động của con người khác xa với hành vi của động vật ở chỗ nó có mục đích.
Hoạt động của động vật mang tính bản năng và không ý thức. Hoạt động của con người là
hoạt động luôn có ý thức và có mục đích. Mục đích của hoạt động thường tạo ra sản phẩm có
liên quan trực tiếp hay gián tiếp với việc thỏa mãn nhu cầu của chủ thể.
- Hoạt động bao giờ cũng có tính chủ thể
Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể. Chủ thể của hoạt động chính là người thực hiện
hoạt động. Tính chất có chủ thể hoạt động trước hết biểu hiện trong tính tích cực của chủ thể.
Trong quá trình vươn tới đối tượng hoạt động, con người buộc phải huy động toàn bộ sức


mạnh cơ bắp hoặc sức mạnh tinh thần, trí tuệ của mình, buộc phải nỗ lực cao độ để chiếm
lĩnh nó. Tính chủ thể trước hết bao hàm tính tích cực, tính tích cực phát triển tới đỉnh cao
thành tính chủ động, say mê.
Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp trong hoạt động lao động, con người
dùng công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động….
Nói một cách tổng thể định nghĩa khái niệm hoạt động được bao hàm cụ thể: Hoạt động
là một phương thức, một hình thức vận động tích cực không ngừng tích tụ động cơ và mục
đích hành động thực tiễn trong mối quan hệ hữu cơ biện chứng giữa chủ thể (con người) và
khách thể (thế giới xung quanh….), thông qua các điều kiện, thao tác hai chiều tác động
tương hỗ và lây lan để hình thành những hoạt động phong phú của con người; mà khách thể
đó chính là các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, thế giới công cụ, đồ vật… do con người
sáng tạo và làm ra. Do đó, hoạt động có thể nói là một quy luật chung nhất của tâm lý người
và của con người.
Xuất phát từ các khái niệm hoạt động đưa đến khái niệm và mối liên quan giữa hoạt
động học tập và nghiên cứu khoa học.
Trước đây, người ta phân biệt rõ học và nghiên cứu khoa học theo mục đích cần đạt đến: học
tập là kế thừa những gì mà thế hệ trước đã biết, còn nghiên cứu khoa học là tìm ra cái mới
mà thế hệ đi trước chưa biết. Nhưng ngày nay, học không chỉ là mục đích kế thừa những
kiến thức mà loài người đã biết mà còn có mục đích rèn luyện óc thông minh sáng tạo và

nhiều đức tính cần thiết khác để không chỉ có kế thừa mà còn phát triển vốn tri thức mà nhân
loại đã có. Sinh viên đại học được coi là người sản sinh ra tri thức hơn là người tiêu thụ tri
thức. Vì vậy, tính chất nghiên cứu của quá trình nhận thức là nét đặc thù của quá trình học
tập ở trường đại học.
Trong hoạt động học tập ở đại học, sinh viên không thể chỉ có năng lực nhận thức thông
thường mà cần tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng
tư duy độc lập, sáng tạo phát triển mức độ cao. Dưới vai trò chủ đạo của giảng viên, sinh
viên không nắm máy móc những chân lý có sẵn mà họ có khả năng tiếp nhận những chân lý
đó với óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi khoa học, lật ngược vấn đề, đào
sâu, mở rộng … hơn nữa quá trình học tập ở đại học, sinh viên đã bắt đầu thực sự tham gia
tìm kiếm chân lý mới. Đó là hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học được tiến hành ở các
mức độ thấp đến cao tùy theo chương trình các bộ môn.


Hoạt động nghiên cứu khoa học giúp sinh viên từng bước tập vận dụng tri thức khoa
học, phương pháp luận khoa học, những phương pháp nghiên cứu, tự rèn luyện những phẩm
chất, tác phong của nhà nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết một cách khoa học những vấn
đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn cuộc sống, thực tiễn nghề nghiệp đặt ra. Hình thức “hoạt
động học tập” tuy có tầm vóc thua kém hình thức “hoạt động NCKH” nhưng về bản chất thì
giống nhau. “Cùng với học tập, nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ quan trọng của sinh
viên đại học, hai hành động này không tách rời nhau mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo”. [6,tr.23].

1.5 Hoạt động quản lý sinh viên
1.5.1. Quản lý sinh viên
Hoạt động quản lý sinh viên là công tác quản lý của các nhà quản lý giáo dục, các lực
lượng giáo dục và tổ chức sư phạm trong trường học tham gia, lập và thực hiện kế hoạch, tổ
chức lãnh đạo, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch
giáo dục và đào tạo của nhà trường nhằm đạt được mục tiêu giáo dục và đào tạo đã quy định
với chất lượng cao.

Quản lý sinh viên là một trong những công tác của giáo dục và đào tạo vậy quản lý sinh
viên là gì ?
Quản lý sinh viên là quá trình tổ chức, hướng dẫn, điều chỉnh các hoạt động của những
người đang học tập tại các trường hay cơ sở đào tạo cao đẳng, đại học theo qui định của Nhà
nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của cơ quan chủ quản và của trường đang đào tạo sinh
viên, nhằm hướng cho sinh viên đạt đến mục tiêu của giáo dục và đào tạo.
1.5.2. Nhiệm vụ quản lý sinh viên
Công tác quản lý sinh viên là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp trong trường đại học.
Nó đòi hỏi những người làm công tác này phải có tinh thần trách nhiệm cao, dám hy sinh và
tận tụy với công việc. Mục đích của công tác quản lý sinh viên là cung cấp cho xã hội những
con người có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ để xây dựng đất nước. Đối tượng của công tác
này là con người với những tiêu chí khó có thể xác định bằng định lượng. Vì vậy, công tác
quản lý sinh viên là công tác của tất cả mọi người trong trường đại học, từ người quản lý,
thầy cô giáo đến tổ chức đoàn thể trong nhà trường….
1.5.3. Nguyên tắc quản lý sinh viên


Nội dung phương pháp và việc tổ chức quản lý sinh viên (QLSV) phải đảm bảo nguyên
lý giáo dục và đường lối chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước.
* Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc này thể hiện mối quan hệ giữa sự lãnh đạo tập trung của Nhà nước về giáo
dục và việc phát huy tối đa sáng kiến đóng góp của đông đảo quần chúng nhân dân vào công
tác tổ chức và quản lý giáo dục.
Ở phạm vi trường học, nguyên tắc thể hiện sự thống nhất hai mặt: Một mặt phải tăng
cường quản lý tập trung quyết định những vấn đề trọng yếu thống nhất (phục tùng ý chí) của
người lãnh đạo, quản lý mặt khác phải phát huy mở rộng tối đa quyền chủ động của các đơn
vị, cá nhân (SV). Đồng thời, chế độ tập trung trong quản lý giáo dục đảm bảo sự thống nhất
ý chí, ngăn chặn khuynh hướng vô chính phủ, địa phương chủ nghĩa. Đó là đòi hỏi của một
nền giáo dục phát triển vì dân chủ là hình thức quản lý hiệu quả, giúp giải phóng được năng
lực to lớn của quần chúng (SV) làm tăng hiệu quả của các nguồn lực giáo dục.

* Nguyên tắc kết hợp Nhà nước và xã hội
Có vai trò quan trọng trong quản lý giáo dục, nguyên tắc này đòi hỏi phải kết hợp
QLSV mang tính nhà nước với việc quản lý giáo dục mang tính xã hội. Các đơn vị, tổ chức
đoàn thể trong nhà trường cần phải lôi cuốn để tham gia tích cực vào QLSV trên cơ sở có cơ
chế phối kết hợp liên hoàn phù hợp.
* Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính kế hoạch
QLSV phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, đặc biệt là lý luận khoa học quản lý
và áp dụng các thành tựu khoa học khác như: tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, tổ chức
lao động khoa học, điều khiển học…
Nguyên tắc này đòi hỏi phải đảm bảo tính hệ thống và tính tổng hợp-kế hoạch. Vì mọi
hoạt động QLSV đều cần đến kế hoạch và nó là cơ sở để QLSV có hiệu quả (chính xác, kịp
thời, phù hợp với trình độ quản lý và thực tế đòi hỏi của trường đào tạo) để kiểm tra, giám
sát tốt các kế hoạch đã vạch ra.
* Nguyên tắc về tính cụ thể, thiết thực và hiệu quả
Dựa trên nguyên tắc này trong QLSV, nhà quản lý phải nắm được thông tin chính xác,
cụ thể, nhanh chóng để đề ra các biện pháp xử lý giải quyết đúng đắn, phù hợp, cụ thể, thiết
thực, kịp thời các vấn đề xảy ra trong thực tiễn.
* Nguyên tắc trách nhiệm và phân công trách nhiệm


Trách nhiệm thể hiện sự thống nhất giữa hai mặt: mặt tích cực, ý thức trách nhiệm của
chủ thể quản lý và về mặt tiêu cực là khi buộc phải áp dụng các biện pháp chế tài đối với
những người vi phạm pháp luật nhà nước. Trách nhiệm hình thành trên cơ sở của sự tác động
qua lại giữa các thành tố sau:
Ý thức về nghĩa vụ được quy định trong các quy phạm đạo đức và pháp luật; Sự đánh giá
hành vi bao gồm: sự đánh giá của chủ thể và sự đánh giá của các cấp có thẩm quyền theo tiêu
chuẩn pháp lý, đạo đức; Sự áp dụng các biện pháp chế tài đối với hành vi lệch lạc và nguyên
tắc này đòi hỏi mọi người phải trả lời được các câu hỏi:
- Công việc mình phải làm là gì?
- Giới hạn hành động và quyền hành của mình là gì ?

- Phải thuộc quyền ai ?
Phân công trách nhiệm là tổ chức ủy quyền, cho phép tự chủ trong hành động và quyết
định.
Tuy nhiên phân công trách nhiệm không làm bớt trách nhiệm thủ trưởng. Việc duy trì
quyền lực và tính thống nhất của lãnh đạo, QLSV đòi hỏi phải tổ chức phối hợp và kết hợp
chặt chẽ trong phân cấp quản lý đối với các đơn vị chức năng cấp dưới.
1.5.4. Phương pháp và nội dung công tác quản lý sinh viên
* Phương pháp quản lý sinh viên
Bao gồm:
- Hệ phương pháp tổ chức-hành chính: là dựa trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành
chính nên phương pháp có tính pháp lệnh, bắt buộc và có kế hoạch rõ ràng, là sự tác động
trực tiếp của hệ quản lý đến hệ bị quản lý bằng mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định… để phục vụ
cho công tác quản lý có hiệu quả cao.
- Hệ phương pháp tâm lý- xã hội: là phương pháp, cách thức tạo ra những tác động vào đối
tượng quản lý (thông qua tư tưởng, tâm lý, tình cảm của con người) bằng các biện pháp logic
và tâm lý xã hội để biến những yêu cầu do người lãnh đạo, quản lý đề ra thành nghĩa vụ tự
giác bên trong, thành nhu cầu của người thực hiện.
- Hệ phương pháp giáo dục thuyết phục, cảm hóa: là phương pháp tác động vào nhận thức
của con người vì nhận thức đúng thì sẽ hành động đúng và ngược lại, bằng lý lẽ và sự cảm
hoá tình cảm nhân ái. Đây là phương pháp được nhà quản lý sử dụng đầu tiên rồi đến các
phương pháp khác, nếu phương pháp không hiệu quả đối với đối tượng bị quản lý.


-Hệ phương pháp nêu gương người tốt, việc tốt, phương pháp thi đua-khen thưởng, kỷ luật
và nhân điển hình tiên tiến…
* Nội dung quản lý sinh viên
- Cơ sở pháp lý
Trong công tác quản lý Giáo dục và Đào tạo nói chung và quản lý sinh viên nói riêng,
để vận hành được phải dựa trên một hành lang pháp lý hoàn thiện. Đó là hàng loạt các văn
bản pháp quy do Nhà nước và ngành Giáo dục và Đào tạo ban hành như : Luật, thông tư, chỉ

thị, quyết định, nghị định, quy chế, quy định… về quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ của các
trường đào tạo (trong đó có trường đại học), các cơ sở Giáo dục và Đào tạo có liên quan để
hướng dẫn tổ chức, điều hành, điều chỉnh, chỉ đạo mọi hoạt động quản lý của nhà trường đi
đúng vào quỹ đạo quản lý giáo dục theo các cấp bậc học đào tạo. Nó bao gồm hệ thống tổ
chức bộ máy, phân cấp, phân quyền, quy trình thực hiện công tác quản lý giáo dục và đào
tạo… được quán triệt qua các Nghị quyết của Đảng, các cơ sở quản lý nhà nước để ban hành
các văn bản pháp lý phục vụ công tác quản lý đào tạo và quản lý HSSV một cách đắc lực và
có hiệu quả tùy từng trường hợp trong công tác quản lý vĩ mô, trung mô và quản lý vi mô tại
chỗ.
Vì thế, công tác sinh viên cần hướng vào mục tiêu đào tạo của trường đại học nói chung
và đặc thù của từng trường để hình thành và phát triển nhân cách sinh viên theo mô hình
Giáo dục và Đào tạo, các mô hình này có mối quan hệ như sau:
Mô hình họat động
(khái quát hóa các
hoạt động)

Mô hình nhân cách
(khái quát mục tiêu
GD-ĐT)

Mô hình đào tạo
(khái quát hoá
nội dung GD-ĐT)

Và, quản lý sinh viên bao gồm:
* Đầu vào: Tổ chức tiếp nhận sinh viên trúng tuyển vào trường, gồm các bước sau:
- Làm thủ tục hồ sơ SV nhập học, thu học phí và lệ phí ở ký túc xá
(nếu có)…
- Bố trí sắp xếp vào tổ chức lớp học theo ngành nghề tuyển chọn.
- Chỉ định Ban đại diện SV của lớp (còn gọi là Ban cán sự ) gồm 1 lớp trưởng, 1-2 lớp

phó, để đưa lớp vào hoạt động.
- Giải quyết các Trường hợp sinh viên không đủ điều kiện và thủ tục, hồ sơ vào học tại
trường.


- Làm thẻ SV, thẻ thư viện, thẻ nội trú ký túc xá…
- Tổ chức khám sức khỏe cho sinh viên mới nhập học và khám định kỳ cho sinh viên
trong thời gian học tập tại chỗ quy định của thông tư liên Bộ Y Tế - Đại học, Trung học
chuyên nghiệp và Dạy nghề (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) và xử lý các trường hợp SV
không hội đủ sức khoẻ theo học.
- Triển khai bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn và thân thể; xe gắn máy của sinh viên.
- Các phòng ban, tổ chức đoàn thể chức năng của trường tổ chức tốt

“Tuần lễ sinh

hoạt công dân-sinh viên”.
- Tổ chức thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với sinh viên…
* Tổ chức quản lý quá trình Giáo dục và Đào tạo (hộp đen). Gồm:
- Tổ chức và quản lý hoạt động học tập của sinh viên gồm:
Quản lý sinh viên về công tác giáo vụ và học vụ: do Trường chỉ đạo, Phòng đào tạo phụ
trách cùng với phòng Công tác chính trị-Sinh viên, Phòng Tổ chức Cán bộ (hoặc Phòng Tổ
chức Hành chính) kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kế hoạch, chương trình đào tạo, học tập,
thực tập, thi và kiểm tra hết học phần, môn học, học kỳ và xét lên lớp, thi và làm luận văn,
đồ án tốt nghiệp cho các lớp, khóa, hệ đào tạo. Cũng như phối hợp với phòng ban, đoàn thể,
các khoa có liên quan để tổ chức cho sinh viên tham dự thi sinh viên giỏi, sinh viên nghiên
cứu khoa học.
Quản lý việc thực hiện cải cách phương pháp dạy-học theo hướng tập trung vào người
học, tăng cường hình thức giúp đỡ sinh viên yếu kém, cụ thể hoá phương pháp tự học của
sinh viên bằng một quy trình hợp lý tạo ra tính tích cực học tập cho người học theo quan
điểm học tập suốt đời, coi trọng sự phát triển năng lực sáng tạo của sinh viên.

Quản lý thời khoá biểu học tập trên lớp kết hợp với phát huy vai trò tự quản lý, tự chủ
của sinh viên; rèn luyện kỹ năng và thói quen tự học, tự giáo dục cho sinh viên để chuyển
quá trình đào tạo thành tự đào tạo.
- Quản lý hành chính sinh viên: Chuyển ngành, chuyển trường, cấp bằng tốt nghiệp….
- Tiếp nhận và quản lý lưu sinh viên nước ngoài đến học tập tại trường theo qui định
quản lý của Nhà nước.
- Kết hợp với các tổ chức sư phạm, đoàn thể, quản lý hoạt động sinh viên lên lớp, ngoài
giờ lên lớp, ngoài trường (kể cả tổ chức và quản lý tốt đời sống vật chất và văn hoá
tinh thần cho sinh viên nội trú ở KTX). Cụ thể là tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh,


Hội Sinh viên và các phòng ban chức năng liên quan trong trường đối với các hoạt
động phong trào sinh viên về chính trị-xã hội, văn thể mỹ, các loại hình đội nhóm câu
lạc bộ sở thích và giải trí lành mạnh.
- Tổ chức các hoạt động phòng chống tệ nạn xã hội thâm nhập học đường (nhất là ma
túy, HIV/ AIDS…).
- Tổ chức quản lý sinh viên thực hiện dân chủ hóa trường học (đối thoại giữa nhà
trường với SV).
- Chủ động và tích cực phối hợp với địa phương nhà trường, KTX đóng trên địa bàn
trong công tác QLSV.
- QLSV qua công tác thi đua: khen thưởng và kỷ luật.
- Luôn không ngừng cải tiến và tham mưu cho lãnh đạo nhà trường trong công tác
QLSV.
* Đầu ra: QLSV tốt nghiệp ra trường.
- Tiến hành giới thiệu và tìm việc làm cho sinh viên.
- Nắm số lượng sinh viên tốt nghiệp có việc làm, thất nghiệp…
- Thu thập thông tin phản hồi của đơn vị, người sử dụng lao động SV do nhà trường đào
tạo (hiệu quả, tay nghề…) và thị trường lao động- xã hội…

1.6. Công tác quản lý hoạt động học tập

Hoạt động chủ đạo chủ yếu của sinh viên là hoạt động học tập. Nhưng so với hoạt
động học tập của học sinh phổ thông, việc học tập của sinh viên có nhiều điểm khác.Trước
hết hoạt động học tập của học sinh, sinh viên cũng là quá trình nhận thức nhằm chiếm lĩnh
những tri thức trong kho tàng trí tuệ của nhân loại. Nét độc đáo trong hoạt động của sinh
viên là vừa lĩnh hội những tri thức, khái niệm-những cái mới chủ quan, vừa tìm tòi, phát hiện
những cái mới khách quan. Khi tiến hành hoạt động học tập ở đại học, người sinh viên không
thể chỉ nhận thức thông thường mà tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu
trên cơ sở khả năng, tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở mức độ cao để chuẩn bị cho một
ngành nghề chuyên môn nhất định. Việc học tập và rèn luyện của họ để trở thành những kỹ
sư, cử nhân, những người thợ lành nghề, có chuyên môn năng lực cao. Vì vậy, hoạt động học
tập của sinh viên còn gọi là hoạt động học tập nghề nghiệp. Vốn học vấn tiếp thu được trong
thời kỳ này hết sức quan trọng vì nó là công cụ để họ tiến hành tham gia vào lĩnh vực nghề


×