Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.19 KB, 108 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM


Nguyễn Thị Thanh Nga

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIẢNG DẠY VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 5.07.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU

Tp. Hồ Chí Minh, Năm 2007


LỜI CẢM TẠ

Tác giả trân trọng bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến:
- Ban giám hiệu, quý thầy cô, cán bộ viên chức trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí
Minh đã trực tiếp giảng dạy và tổ chức học tập cho lớp Cao học quản lý giáo dục khóa 15.
- Các thầy cô, đồng nghiệp, cán bộ quản lý và sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ


thuật Tp. HCM đã tạo điều kiện,
giúp đỡ, góp ý, cung cấp số liệu và cho ý kiến điều tra góp
phần cho luận văn được hoàn thành.
- Các anh chị học viên cao học khóa 15.
- Tất cả các thành viên trong gia đình đã động viên, tạo điều kiện cho tôi học tập.
- Đặc biệt, PGS. TS. Đoàn Văn Điều đã nhiệt tình hướng dẫn chúng tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Thaùng 4 naêm 2007
Nguyễn Thị Thanh Nga


BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

CBQL Cán bộ quản lý
CĐ Cao đẳng
ĐH Đại học
ĐT Đào tạo
GD Giáo dục
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
GV Giảng viên
KH&CN Khoa học và công nghệ
NCKH Nghiên cứu khoa học
SPKT TP. HCM Sư phạm Kỹ thuật TP.Hồ Chí Minh



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay đang trong quá trình đổi mới và phát triển. Để
phát triển giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), phải thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa giảng dạy và

nghiên cứu khoa học (NCKH), nhất là ở bậc Đại học (ĐH) [1, tr.5], cần xây dựng các
trường ĐH, Cao
Đẳng (CĐ) thành trung tâm vừa đào tạo (ĐT) vừa NCKH, ứng dụng và
chuyển giao công nghệ [40, tr.37]. Giải pháp trên hoà
n toàn phù hợp với qui định của Luật
Giáo dục năm 2005: Nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường là tổ chức giảng dạy và học
tập, NCKH, ứng dụng và phát triển công nghệ, tham gia giải quyết những vấn đề kinh tế -
xã hội của địa phương hoặc của đất nước [36, điều 58-59]
.
Thực hiện 2 nhiệm vụ chính trên trong các trường ĐH, các giảng viên (GV) - người
đóng vai trò quyết định - đã có nhiều cố gắng, nhưng chính ngành giáo dục (GD) cũng đã
nhận thấy: Công tác quản lý giáo dục (QLGD) còn hạn chế, nhiều GV, nhà trường chưa tích
cực đổi mới phương pháp dạy và học [6, tr.1]; [42]. Nghị quyết của Chí
nh phủ số
14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục Việt Nam giai
đoạn 2006-2020 cũng nhận định tương tự và đã chỉ ra một số yếu kém, bất cập về cơ chế
quản lý, qui trình ĐT, phương pháp dạy và học, chất lượng đội ngũ GV và cán bộ QLGD,
v.v...
Nghị quyết đề ra các nhiệm vụ và giải pháp đổi mới có liên quan đến công tác QLGD
là: "Đổi mới nội dung ĐT, gắn kết chặt chẽ với thực tiễn NC
KH, phát triển công nghệ và
nghề nghiệp trong xã hội,... đổi mới phương pháp ĐT,... xây dựng và thực hiện lộ trình
chuyển sang chế độ ĐT theo học chế tín chỉ" [041, tr.4].
The
o những định hướng đó, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.Hồ Chí Minh
(ĐH SPKT TP. HCM) - trường đứng đầu trong hệ thống các trường sư phạm kỹ thuật của cả
nước - những năm qua đã chú trọng đến việc quản lý hoạt động chuyên môn của GV, đặc
biệt là hoạt động giảng dạy và NCKH. Nhiều giải pháp lớn trong quản lý đã được áp dụng:
Xây dựng các qui trình quản lý theo tiêu chuẩn ISO; á
p dụng phương thức ĐT theo học chế

tín chỉ; thực hiện kiểm định nhà trường; Tuy nhiên, vẫn còn một số nhược điểm cần tiếp tục
nghiên cứu, xem xét và cải tiến trong công tác giảng dạy như: Công tác quản lý ĐT ở cấp
trường, khoa, bộ môn; quản lý chất lượng và hiệu quả giảng dạy; đánh giá giảng dạy của
GV qua dự giờ và qua
đánh giá của SV về hoạt động giảng dạy của GV; kiểm tra quá trình


học tập của SV [7, tr.3]. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy chưa đều khắp; chưa thành
quy định trong tổ chức giảng dạy.
Về NCKH , Trường rất coi trọng và nhận thức rõ "NCKH như là một phương pháp
ĐT" [31, tr.139] nhưng "Trường chưa có đề tài nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao c
ông
nghệ có ảnh hưởng lớn, chưa có đề tài cấp nhà nước; kết quả nghiên cứu chưa tương xứng
với tiềm lực và qui mô ĐT của Trường" và một số GV chưa tham gia NCKH [6, tr.4], số đề
tài chưa nhiều.
Nguyên nhân của những tồn tại trên có thể từ hướng GV -
đối tượng quản lý – là
người thực hiện chính những công tác giảng dạy, NCKH; cũng có thể từ hướng những cán
bộ quản lý (CBQL) – là chủ thể quản lý trong trường ĐH và đồng thời có thể từ cả đối
tượng và chủ thể quản lý. Việc tìm hiểu nguyên nhân, khắc phục những tồn tại và định
hướng phát
triển là rất cần thiết.
Thực tế cho thấy, việc GV thực hiện hoạt động giảng dạy và NCKH trong các trường
ĐH nói chung và trường ĐH SPKT TP.HCM nói riêng mang tính độc lập cao, song việc
quản lý các hoạt động này qua việc ra quyết định, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá và
điều chỉnh kịp thời từ hướng nhà quản lý để đạt được kế hoạch, mục tiêu đề ra vẫn rất cần
đư
ợc chú ý; đặc biệt đối với trường ĐH SPKT TP.HCM càng cần được quan tâm hơn để
nhanh chóng khắc phục những nhược điểm nêu trên.
Vì thế, chúng tôi chọn đề tài "Quản lý hoạt động giảng dạy và NCKH của GV

Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh" để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát công tác quản lý của CBQL đối với hoạt động giảng dạy và NCKH của GV
trường ĐH
SPKT TP.Hồ Chí Minh và từ đó tìm giải pháp quản lý hoạt động chuyên môn
của GV, đáp ứng yêu cầu phát triển của Trường.
3. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu đánh giá đúng thực trạng quản lý của CBQL đối với hoạt động giảng dạy và
NCKH của GV Trường ĐHSPKT TP. Hồ Chí Minh, thì sẽ tìm được các giải pháp quản lý
hoạt động chuyên môn phù hợp, đáp
ứng được yêu cầu mà thực tiễn nhà trường đặt ra.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý của CBQL đối với hoạt động giảng dạy và
NCKH của GV Trường ĐHSPKT TP. Hồ Chí Minh
- Khách thể nghiên cứu: Ý kiến của SV, GV và CBQL Trường ĐHSPKT TP. Hồ Chí
Minh về thực trạng công tác quản lý của CBQL đối với hoạt động giảng dạy và NCKH của
đội ngũ GV Nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu để hình thành cơ sở lý luận về vấn đề quản lý hoạt động giảng
dạy và NCKH của GV trong các trường ĐH.
- Khảo sát thực trạng công tác quản lý của CBQL đối vối hoạt động giảng dạy và

NCKH của GV Trường ĐHSPKT TP. Hồ Chí Minh hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp để đẩy mạnh công tác quản lý đối với hoạt động giảng
dạy và NCKH của GV Trường ĐHSPKT TP. Hồ C
hí Minh.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, trong quá trình nghiên cứu, các

phương pháp nghiên cứu sau được sử dụng:
6.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa lý luận, các
văn kiện của Đảng và nhà nước, các tài liệu khoa học có liên quan đến hoạt động giảng dạy
và NCKH của GV trong trường ĐH.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra bằng phiếu:
2 bộ phiếu được phát ra
+
Bộ phiếu 1: trưng cầu ý kiến CBQL và GV Trường ĐHSPKT TP.Hồ Chí
Minh để lấy ý kiến đánh giá về công tác quản lý của CBQL đối với hoạt động
giảng dạy và NCKH của GV. Số phiếu phát ra cho GV là 258, CBQL là 129
phiếu (phiếu thu về 81%).
+
Bộ phiếu 2: Trưng cầu ý kiến của GV, SV đánh giá về hoạt động giảng dạy
và NCKH của GV. Số phiếu phát ra cho GV là 258 phiếu, SV là 1000 phiếu
(phiếu thu về được 95%).
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:


+
Nghiên cứu những đặc điểm của trường, đội ngũ CBQL, GV, SV liên quan
đến quản lý giảng dạy và NCKH qua các giai đoạn.
+
Phân tích các kế hoạch, báo cáo tổng kết năm học, báo cáo hội nghị, biên bản
hội nghị của Trường và các đơn vị trong trường về quản lý hoạt động giảng
dạy và NCKH của GV.
6.3. Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu (Sử dụng phần mềm
SPSS for Win).
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

- Khảo sát công tác quản lý của CBQL đối với hoạt động giảng dạy và NCKH,
ở giới
hạn hoạt động liên quan đến GV, và từ đó tìm các giải pháp đẩy mạnh công tác quản lý hoạt
động chuyên môn của GV Trường ĐHSPKT TP. Hồ Chí Minh.



CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, các đề tài NCKH nhằm đẩy mạnh công tác quản lý giảng dạy và
NCKH đã và đang được tiến hành nghiên cứu theo hai hướng:
Hướng 1: Nghiên cứu quá trình quản lý công tác giảng dạy và công tác nghiên cứu
khoa học của GV để tìm ra giải pháp cải tiến hoạt động quản lý đó.
Một số đề tài của hướng nghiên cứu này là:
- Năm 2002, luận văn thạc sỹ của tác giả Phạm T
hị Đoan Trang "Thực trạng quản lý
việc giảng dạy ở Trường Cao đẳng Sư phạm TP. HCM và một số biện pháp nâng cao hiệu
quả giảng dạy" thuộc chuyên ngành "Quản lý và tổ chức công tác văn hóa, GD".
- Năm 2002, luận văn thạc sỹ của tác giả Huỳnh Thị Kim Trang "Thực trạng về công
tác quản lý việc dạy và học ở trường tiểu học của một số phòng GD ĐT quận (huyện)
tại
TP.HCM" thuộc chuyên ngành "Quản lý và tổ chức công tác văn hóa, GD".
- Năm 2003, luận văn thạc sỹ của tác giả Đoàn Thị Bảy "Quản lý hoạt động dạy học
của Hiệu trưởng trường trung học phổ thông thành phố Cà Mau - Thực trạng và giải pháp"
thuộc chuyên ngành "Quản lý và tổ chức công tác văn hóa, GD".
- Năm 2003, luận văn thạc sỹ của tác g
iả Đoàn Thị Ngọc Mai "Thực trạng và giải
pháp tổ chức kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của Hiệu trưởng trường trung học cơ sở tại
thành phố Hồ Chí Minh" thuộc chuyên ngành "Quản lý và tổ chức công tác văn hóa GD".
- Năm 2004, luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Lê Tuân "Nâng cao hiệu quả công

tác quản lý GD& ĐT của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP.HCM" thuộc ch
uyên
ngành "Quản lý và tổ chức công tác văn hóa GD".
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Mạnh Khương “ Một số biện pháp của hiệu
trưởng trường CĐ Sư phạm TP. HCM quản lý hoạt động NCKH của GV và SV từ năm
1995 đến 2000” thuộc chuyên ngành "Quản lý và tổ chức công tác văn hóa GD".
- Tác giả Bùi Đình Hưng [19, tr.30] phân tích thực tiễn hoạt động
NCKH của trường
CĐ Sư phạm Hải Phòng và đã khẳng định vai trò của NCKH đối với chất lượng giảng dạy.


Các đề tài trên chủ yếu đánh giá thực trạng, tìm giải pháp trong quản lý từng mặt
hoạt động chuyên môn là giảng dạy hoặc NCKH, chưa nghiên cứu việc quản lý đồng thời cả
hai mặt hoạt động trên trong trường ĐH. Thực tế cho thấy, khi thực hiện hoạt động NCKH
tốt, GV sẽ giảng dạy tốt và ngược lại, khi thực hiện công tác giảng dạy tốt, GV có tri thức
tốt để NCKH. Vì vậy, việc nghiên cứu quản lý đồng thời hai mặt hoạt động trên là rất cần
thiết.
Hướng
2: Nghiên cứu các tiêu chí đánh giá GV nhưng chưa gắn với việc sử dụng hệ
thống tiêu chí đó để xây dựng các giải pháp quản lý hoạt động chuyên môn của GV một
cách hiệu quả.
Một số đề tài theo hướng nghiên cứu này là:
- Năm 2002, đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước của Nguyễn Đức Chính "Kiểm định
chất lượng trong Giáo dục ĐH".
Kết quả nghiên cứu của đề tài này được in thành sách cung
cấp lý luận khoa học về đánh giá kèm bộ tiêu chí đánh giá chất lượng các trường ĐH Việt
Nam, trong đó có tiêu chuẩn đánh giá đội ngũ GV.
- Một loạt các các công trình khoa học của Trung tâm CEQARD được in trong cuốn
"Giáo dục ĐH chất lượng và đánh giá", NXB ĐH Quốc gia Hà Nội. Trong đó tác giả
Nguyễn Phương N

ga đã đề xuất tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động của GV trong các
trường ĐH, CĐ Việt Nam.
- Tác giả Nguyễn Ngọc Hợi, Phạm Minh Hùng, Thái Văn Thành trong bài nghiên cứu
“Một số biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên” đã đề xuất giải
pháp đánh giá xếp loại chuyên môn của giảng viên dựa trên căn cứ đánh giá giảng viên tham
gia sinh hoạt chuyên m
ôn, NCKH, giảng dạy, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng và đánh giá nội
dung chương trình, phương pháp giảng dạy trên lớp của giảng viên.
Các đề tài nghiên cứu khoa học theo hướng 2 chủ yếu đề cập đến nội dung đánh giá,
kinh nghiệm công tác đánh giá chất lượng GV của một số nước tiên tiến; và việc triển khai
hoạt động đánh giá chất lượng GV ĐH của các trường ĐH ở Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu thực trạng quản lý của CBQL trong Trường
ĐH SPKT
TP.HCM đối với hai hoạt động giảng dạy và NCKH của GV và dùng các tiêu chí
đánh giá GV để kiểm nghiệm kết quả quản lý, từ đó tìm ra những giải pháp quản lý hoạt
động chuyên môn phù hợp với các nhiệm vụ và mục tiêu ĐT của trường.


1.2 Cơ sở thực tiễn (xem phần phụ lục 1)
1.3 Cơ sở lý luận của đề tài:
1.3.1 Khái niệm về quản lý
Quản lý là hoạt động mang tính xã hội, khoa học, nghệ thuật của chủ thể quản lý tác
động lên đối tượng quản lý, khách thể quản lý một cách hợp qui luật, qua các chức năng
quản lý (lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, kiểm tra) trong một hệ thống xác định, nhằm làm
cho hệ thống vận hà
nh đến mục tiêu đã định.
Có nhiều định nghĩa về quản lý. Theo từ điển tiếng Việt (nghĩa 2),"Quản lý là tổ chức
và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất định" [53, tr.789]. Các tác giả khác nhau [20,
tr.28]
; [33, tr.24]; [38, tr.15] diễn đạt khái niệm q

uản lý theo nhiều cách khác nhau, nhưng
đều có chung những dấu hiệu chủ yếu sau đây:
- Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
- Hoạt động quản lý là hoạt động có tính hướng đích.
- Hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm thực
hiện mục tiêu của tổ chức.
Quản lý có các chức năng cơ bản s
au: kế hoạch hóa, tổ chức, điều khiển (chỉ đạo thực
hiện), kiểm tra." [33, tr.32]; [17, tr.56-66]; [24, tr.49].
Việc quản l
ý nhà trường ĐH chủ yếu là quản lý hoạt động dạy - học và NCKH. trong
đó, chức năng NCKH hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động giảng dạy [31, tr.137]. Chính giảng
viên t
hực hiện hai hoạt động cơ bản này. Người quản lý nhà trường ĐH là hiệu trưởng và
các trưởng phó phòng, khoa, ban, bộ môn (sau đây gọi là CBQL)[3, điều 31]
. Để thực hiện
tốt công tác quản lý, hiệu trưởng các trường ĐH ngoài việc phải có học vị tiến sỹ [3, điều
31]
; còn “phải được ĐT, bồi dưỡng nghiệp vụ QLGD" [3, điều 49]
; [47, tr.11]; các CBQL
trong trường ĐH cũng phải được đào tạo về Khoa học quản lý để biết phối hợp tốt các
phương pháp quản lý (hành chính - tổ chức, kinh tế, tâm lý – giáo dục và phương pháp ma
trận MYTK), để sử dụng khéo léo các nguyên tắc quản lý (12 nguyên tắc); [11, tr.35]; [24,
tr.45]
; và để tận dụng tốt các công cụ quản lý (Nghị quyết của Đảng về giáo dục, Luật giáo
dục, Luật KH&CN, Điều lệ trường ĐH, Chỉ thị của Chính phủ; Chỉ thị của Bộ trưởng về


nhiệm vụ năm học mới; hướng dẫn thống kê giáo dục; quy định của hiệu trưởng nhà trường;
kế hoạch năm học).

1.3.2 Quản lý hoạt động giảng dạy
Trong trường ĐH, quản lý GD là quản lý các hoạt động của GV trong thực hiện mục
tiêu GD của trường, bao gồm:
- Quản lý việc lập kế hoạch và phân công giảng dạy.
- Quản lý công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyê
n môn của GV.
- Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của GV.
- Quản lý giờ lên lớp của GV.
- Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá.
* Lập kế hoạch:
Lập kế hoạch là thiết kế các bước đi cho hoạt động tương lai để đạt được những mục
tiêu đã xác định thông qua việc sử dụng tối ưu những nguồn lực đã có và sẽ đư
ợc khai
thác... Việc lập kế hoạch trong một trường ĐH được tiến hành ở nhiều cấp [22, tr.113, 141].
CBQL cần tổ chức cho GV tham gia xây dựng 2 bản kế hoạch:
- Kế hoạch thực hiện mục tiêu chất lượng năm học, học kỳ.
- Kế hoạch giảng dạy.
Mỗi đầu học kỳ, GV tham gia đóng góp ý kiến xâ
y dựng kế hoạch thực hiện mục tiêu
chất lượng (kế hoạch của trường, khoa, bộ môn) và phối hợp với phòng ĐT, GV trực tiếp
tham
gia xây dựng kế hoạch của bộ môn, trong đó có kế hoạch giảng dạy của chính mình..
Để GV tham gia thực hiện tốt việc lập kế hoạch giảng dạy, CBQL phải:
- Một là, tạo điều kiện cho GV nắm rõ mục tiêu, kế hoạch, chương trình ĐT
- Hai là, quản lý tốt việc thực hiện chương trình ĐT. Theo điều 15 Điều lệ trường
ĐH, trường ĐH tổ chức xây dựng chương trình ĐT, kế hoạch
giảng dạy và học tập cho các
ngành của trường trên cơ sở chương trình khung của Bộ GD&ĐT [3, tr.3]. Tuy nhiệm vụ
của trường là phải thường xuyên phát triển chương trình ĐT the
o hướng đa dạng hóa, chuẩn

hóa, hiện đại hóa, nhưng đối với GV, chương trình ĐT là pháp lệnh. CBQL phải tổ chức


quản lý để GV thực hiện đúng, đủ chương trình ĐT và thực hiện đúng tiến độ. Có nghĩa là
về nội dung và phạm vi kiến thức qui định trong chương trình về cơ bản phải đủ, phân phối
số tiết về thời gian và trình tự phải hợp lý, khoa học. Về phương pháp, phải đúng đặc điểm
của từng bộ môn, từng loại bài. Muốn vậy, CBQL phải:
+
Tổ chức để GV có cơ hội tham gia xây dựng chương trình hoặc nghiên cứu kỹ
chương trình ĐT.
+
Yêu cầu GV khi soạn bài phải xây dựng lịch trình giảng dạy và giáo án.
+
Xây dựng kế hoạch giảng dạy cấp trường (do Phòng ĐT thực hiện) phải có
tuần dự trữ, có thời gian sinh hoạt chung để đảm bảo thời gian cho GV thực
hiện được chương trình ĐT.
+
Các cấp quản lý phải thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chương trình ĐT
của GV và có biện pháp xử lý kịp thời.
- Ba là, CBQL phải thực hiện việc phân công giảng dạy cho GV. Công việc này phải
dựa trên nguyên tắc kết hợp khéo léo giữa trình độ, năng lực chuyên môn; điều kiện cụ thể
của trường; quyền lợi cụ thể của SV, nguyện vọng, điều kiện cá nhân của GV. Việc kết hợp
hài hòa được các điều kiện trên sẽ là động lực giúp cho GV hoàn thành được các nhiệm vụ
đư
ợc giao. Tuy nhiên, do hiện tại tỷ lệ SV trên GV còn rất cao (trung bình 25 SV/GV), năng
lực chuyên môn của đội ngũ GV chưa đều, thì việc phân công phải ưu tiên đảm bảo quyền
lợi của SV và việc hoàn thành mục tiêu GD của nhà trường.
CBQL khi phân công giảng dạy, cần lắng nghe nguyện vọng của GV, phân công
giảng dạy đảm bảo tính vô tư, công bằng, để vừa phá
t huy tốt năng lực và sở trường của

GV, vừa đảm bảo công việc làm cho họ và hoàn thành mục tiêu quản lý. Nếu khối lượng
phân công giảng dạy quá lớn, GV sẽ không có thời gian học tập nâng cao trình độ, chuẩn bị
bài giảng, cập nhật thpong tin và tham gia NCKH cùng các hoạt động xã hội khác của
trường. Nhưng nếu khối lượng giảng dạy quá ít, sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của GV vì hiện
nay các trường ĐH trả lương theo định mức giờ giảng.
Kế hoạch giảng dạy của bộ m
ôn và của từng GV so với kế hoạch chung của toàn
trường là rất nhỏ, nhưng nó là những viên gạch tạo nên tòa nhà lớn - là kế hoạch chung của
trường, vì thế CBQL phải có nhiều biện pháp để tổ chức chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch
của từng GV, kiểm tra thường xuyên và xử lý kịp thời.


“Kế hoạch ĐT phải được ổn định, tiến độ ĐT phải thực hiện theo kế hoạch ĐT,
những hoạt động dạy và học phải được tiến hành nhịp nhàng theo đúng tiến độ để đảm bảo
hiệu quả cao” [23, tr.121].
Tóm
lại, việc lập kế hoạch phân công giảng dạy là việc làm thường xuyên của CBQL
và GV ở đầu mỗi học kỳ, mỗi năm học. Đối với GV, có 2 kế hoạch phải thực hiện: (1) - kế
hoạch thực hiện mục tiêu của trường được triển khai cụ thể trong kế hoạch của khoa và bộ
môn. (2) - kế hoạch giảng dạy. Thực chất kế hoạch giảng dạy là một phần của kế hoạch thực
hiện mục tiêu.
* Quản lý công tác bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn của GV:
Do đòi hỏi của thực tế nghề nghiệp, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của SV, người
GV luôn phải học tập nâng cao trình độ. Việc học tập nâng cao trình độ của GV được thực
hiện theo 2 hướng: Tự bồi dưỡng và tham gia các hoạt động ĐT lại, dự các lớp và khoá học
bồi dưỡng ở trong và ngoài trường.
Theo Điều lệ trường ĐH, ngoài nhiệm vụ lập kế hoạch bồi dưỡng phát triển đội ngũ
GV, trường ĐH còn có nhiệm vụ tổ chức ĐT lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ c
huyên môn,

nghiệp vụ cho GV và cán bộ nhân viên thuộc trường [3, điều 32, 41]
; Khoa, bộ môn có nhiệm
vụ xây dựng và ĐT đội ngũ cán bộ khoa học của bộ môn; tham gia ĐT, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ thuộc chuyên ngành [3, điều 42]. Thực hiện nhiệm vụ này, CBQL trong trường ĐH
phải tiến hành những công việc sau:
- Thường xuyên tổ chức
sinh hoạt học thuật.
- Tổ chức ĐT hoặc cử GV dự các lớp bồi dưỡng chuyên môn, sư phạm, ngoại ngữ,
tin học.
- Tổ chức hội thi và phổ biến kinh nghiệm.
Việc bồi dưỡng phương pháp giảng dạy mới trong đó có: kỹ năng xây dựng giáo
trình điện tử, kỹ năng sử dụng các phương tiện thiết bị hiện đại hỗ trợ cho giảng dạy đan
g
được các nhà quản lý quan tâm.
Riêng đối với kiến thức ngoại ngữ, việc tổ chức bồi dưỡng để GV thực sự có khả
năng sử dụng ngoại ngữ trong truy cập thông tin, cập nhật tri thức, đổi mới nội dung giảng
dạy là rất cần thiết.


* Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của GV:
Soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp quyết định chất lượng giờ giảng. Công việc chuẩn bị
này gồm 2 phần chính là chuẩn bị kế hoạch giảng dạy cho cả học kỳ hoặc năm học, và
chuẩn bị cho một giờ lên lớp cụ thể. Đây là hoạt động trí óc, độc lập, mang tính tự giác cao
của GV, vì thế, để quản lý tốt công việc này, C
BQL cần xác định rõ cho GV những công
việc cần làm và tổ chức cho họ thực hiện:
- Xác định rõ mục tiêu dạy học nói chung (thái độ, nghề nghiệp, phương pháp, giá trị)
và mục tiêu riêng của môn học, từng chương, từng bài.
- Biên soạn hoặc tham gia biên soạn, hoặc nghiên cứu để nắm rõ nội dung môn học
qua đề cương chi tiết và giáo trình chính.

- Xây dựng lịch trình, gi
áo án sau khi tìm hiểu kỹ đối tượng SV trong lớp được phân
công giảng dạy.
Việc tham gia viết giáo trình sẽ giúp GV đào sâu, làm phong phú thêm và cập nhật nội
dung giảng dạy [27, tr.43], nên CBQL cần khuyến khích những GV có chuyên môn giỏi
tham gia viết giáo trình. Khi soạn giáo trình, CB
QL cần hướng dẫn thảo luận để đảm bảo
nội dung giảng dạy phù hợp với đầu ra của trường, mang tính cơ bản, hiện đại, sát với thực
tế của đất nước.
CBQL cần thực hiện lần lượt các công việc cụ thể sau:
- Xây dựng qui định về yêu cầu soạn bài và phổ biến cho GV thực hiện.
- Thông báo kịp thời cho GV về gi
áo trình chính, mà nhà trường đã cung cấp cho SV.
- Khuyến khích GV sử dụng tài liệu bằng tiếng nước ngoài chuẩn bị bài giảng.
- Tổ chức cho bộ môn thảo luận thống nhất nội dung cơ bản của giáo án, những cách
giải bài toán khó, cách dạy bài khó...
- Cung cấp danh sách SV kèm thông tin về SV để GV soạn bài cho phù hợp.
Những việc trên rất quan trọng vì trong trường ĐH, SV là người trưởng thành, có

định hướng nghề nghiệp, có khả năng tự học, tiếp thu kiến thức có phê phán và có yêu cầu
cao đối với GV [12, tr.257]; hơn nữa, trong trường ĐH thường ĐT nhiều ngà
nh, bậc, hệ
khác nhau, nên nếu người quản lý giúp GV nắm được thông tin về SV, sẽ tạo điều kiện tốt


cho GV xác định nội dung, mục tiêu, phương pháp dạy học phù hợp, đảm bảo tốt các
nguyên tắc dạy học.
- Yêu cầu GV lập lịch trình giảng dạy và ký duyệt. Lịch trình giảng dạy là bảng liệt
kê những bài dạy (lý thuyết, thực hành, bài kiểm tra) xếp theo thứ tự thời gian hợp lý và thời
lượng tương ứng đúng nguyên tắc sư phạm. Lịch trình giảng dạy giúp nhà quản lý kiểm tra

được hoạt động của G
V, và giúp GV thực hiện đúng kế hoạch ĐT của trường.
- Yêu cầu GV soạn giáo án và ký duyệt. Công việc này quan trọng, vì giáo án là kế
hoạch chi tiết lên lớp của GV cho một bài hay một chương do chính GV soạn. Trong giáo
án có ghi rõ các đề mục bài giảng, phương pháp giảng dạy, thời gian tương ứng, cách tổ
chức lớp, tài liệu tham khảo và cả những điều cần nói, cần làm của GV và SV trong khi thực
hiện 5 bước lên lớp c
hung và 4 bước giảng bài mới. Trong thực tế, có những GV dạy lâu
năm kinh nghiệm, có thể dùng giáo án giản lược (trong luận văn này gọi là bài soạn giảng).
- Tạo điều kiện cho GV sử dụng trang thiết bị giảng dạy và yêu cầu GV vận hành thử
trước khi lên lớp.
- Tổ chức kiểm tra việc soạn bài của GV và kiểm tra khối lượng thời gian dành để
soạn bài của GV qua phương phá
p chụp ảnh thời gian.
* Quản lý giờ lên lớp của GV:
Quản lý hoạt động dạy học được thực hiện chủ yếu qua quản lý giờ lên lớp của GV, vì
"Giờ lên lớp là khâu trong quá trình dạy học được kết thúc trọn vẹn trong khuôn khổ nhất
định về thời gian theo qui định của kế hoạch dạy học" [18, tr.42].
CB
QL có nhiệm vụ quản lý giờ dạy trên lớp, nhưng lại không được trực tiếp tham
gia hoặc can thiệp vào quá trình giảng dạy trên lớp của GV trong bất kỳ tình huống nào, đặc
biệt ở trường ĐH, người GV có quyền tự do học thuật rất cao. Vì thế, CBQL xây dựng các
qui định, phổ biến cho GV, hướng dẫn GV thực hiện và kiểm tra xử lý, thể hiện qua các
công việc cụ thể sau:
- Xây dựng qui trình lên lớp (nếu có điều kiện, theo tiêu chuẩn ISO
) và phổ biến cho
GV thực hiện [52].
- Tạo điều kiện để GV thực h
iện đúng đủ nội dung chương trình môn học, thực hiện
đúng qui chế, qui định về giảng dạy, khai thác hiệu quả cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy

học.


- Xây dựng thời khóa biểu khoa học và hợp lý để duy trì nề nếp dạy học, nhịp điệu
dạy học trong ngày và trong tuần. Sử dụng thời khóa biểu là biện pháp quản lý trực tiếp giờ
lên lớp của GV [23, tr.121].
- Theo dõi nhắc nhở khi GV bị nê
u tên trong các thông báo của các cấp lãnh đạo liên
quan đến báo nghỉ, báo dạy bù và trong các phản ánh của thanh tra ĐT, của SV.
- Xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm qui chế.
Những vấn đề quan trọng nhất trong quản lý giờ lên lớp là:
- Theo dõi, kiểm tra việc đảm bảo chất lượng giảng dạy của GV trong việc thực hiện
từng bài giảng, môn học và cả chương trình,
cả khoá học. Đây là vấn đề quyết định sự sống
còn của nhà trường.
- Duy trì việc đổi mới phương pháp dạy học. Đây là vấn đề bức thiết để nâng cao chất
lượng giờ giảng, sử dụng các phương pháp sư phạm tích cực hướng vào việc đặt và giải
quyết vấn đề; áp dụng công nghệ dạy học [29, tr.29]; thực hiện dạy học lấy người học làm
trung tâm
để đảm bảo giữ đúng mục tiêu quan trọng nhất của giảng dạy ở trường ĐH là dạy
cách học cho SV, trang bị phương pháp, kỹ năng cơ bản để tăng cường khả năng tự học,
thói quen học suốt đời.
Để thúc đẩy GV nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới phương pháp giảng dạy
trên, CBQ
L nên chú trọng hơn những việc sau:
- Tăng cường hoạt động dự giờ và sau khi dự giờ, ngoài đánh giá việc chuẩn bị bài
giảng, dạy đúng lịch trình giáo án, kỹ năng sử dụng phương tiện dạy học; CBQL cần chú
trọng tổ chức phân tích sư phạm theo hướng đổi mới phương pháp, ví dụ như dạy học đảm
bảo cho các nhóm SV có trình độ khác nhau đều hiểu bài, dạy cách học cho SV, v.v...
- Về cách thức tổ chức dự giờ, CBQL nên học tập ki

nh nghiệm của tác giả Walter
Liewald: "Việc dự giờ nên tiến hành bởi GV có kinh nghiệm, GV giỏi; phải tổ chức thường
xuyên và dự giờ tất cả các GV để tạo tâm lý tốt cho người được dự giờ, như thế kết quả
đánh giá mới thực chất. Khi chuẩn bị, cần hội ý với GV
được dự giờ trước để tạo tâm thế tốt
về trọng tâm của buổi dự giờ; nguyên tắc là không ảnh hưởng đến việc giảng dạy của GV;
nên ưu tiên các lĩnh vực mà GV đứng lớp muốn được quan sát. Khi dự giờ, nguời dự giờ chỉ
ghi chép dữ liệu, không can thiệp vào giờ dạy với bất kỳ lý do nào". Cũng theo tác giả này
“Góp ý sau giờ dạy với thái độ thiện chí, nên dùng phương phá
p gián tiếp như một người


hướng dẫn để nêu bật những điểm mạnh và hạn chế cần hoàn thiện của GV đứng lớp. Giá trị
của việc dự giờ thể hiện ở sự hỗ trợ lẫn nhau, nhằm cung cấp những nhận thức mới cho cả
người lên lớp và người dự giờ. Dự giờ được tiến hành nhằm mục đích cải tiến công tác
giảng dạy và giáo dưỡng” [46, tr.47], chứ không phải mục đích là tìm kiếm những sai sót,
hạn c
hế của người được dự giờ.
- Tổ chức thu thập ý kiến phản hồi từ SV qua dư luận và đặc biệt là đánh giá giờ
giảng của GV sau khi kết thúc môn học. Công việc này rất tế nhị và khó khăn đối với truyền
thống tôn sư trọng đạo của người Việt Nam, nhưng theo tác giả Vũ Thị Phương Anh: "Việc
đánh giá các hoạt động giảng dạy nhất thiết p
hải sử dụng ý kiến của SV, vì nếu không sẽ là
một thiếu sót lớn" [13, tr.49]. Trên thực tế, chính SV mới là người hiểu r
õ nhất chất lượng
và hiệu quả các giờ lên lớp của GV. Hơn nữa, theo kết quả nghiên cứu "những ý kiến đóng
góp của SV thực sự có giá trị trong việc giúp GV cũng như nhà trường tìm được những giải
pháp cụ thể và khả thi trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy" [13, tr.50].
* Quản lý hoạt động
kiểm tra đánh giá:

Kiểm tra là công cụ hay phương tiện đo lường trình độ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của
SV. Đánh giá là một khái niệm nhằm xác định mức độ về trình độ của SV.
Mục đích kiểm tra đánh giá trong dạy học là xác định số lượng và chất lượng của GD
và học tập nhằm khuyến khích SV học tốt và thầy dạy tốt; Nâng cao tinh thần trách nhiệm
của SV với v
iệc học tập, giúp SV hệ thống hóa, khái quát hóa những kiến thức đã học, bổ
sung kịp thời những lỗ hổng trong tri thức, tăng cường trí nhớ, phát triển kỹ năng đọc tài liệu,
tổng hợp, phân tích, tổng kết, giải quyết vấn đề.
Nhờ đánh giá, GV hiểu được trình độ của SV, phân loại, giúp đỡ SV, biết được kết
quả công tác giảng dạy của chính m
ình để điều chỉnh phương pháp, hình thức tổ chức giảng
dạy đạt hiệu quả tốt hơn.
Như vậy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của SV là một phần không thể thiếu trong
quá trình giảng dạy. Đó là kết quả kiểm tra cả việc học tập của SV và việc dạy của người thầy.

Kiểm tra được coi là thực hiện nguyên tắc của mối liên hệ ngược, nhờ đó điều chỉnh quá trình
dạy học.


Để đảm bảo quản lý tốt khâu cuối cùng của quá trình dạy học, chủ thể quản lý cần
thực hiện các công việc sau:
- Xây dựng qui trình thi, kiểm tra và hướng dẫn thực hiện theo đúng qui trình. Ban
hành qui chế thi kiểm tra, trong đó quy định rõ hình thức tổ chức (tập trung hoặc riêng lẻ),
cách chấm bài có rọc phách hoặc không, thời gian nộp điểm, v.v...
- Tổ chức để GV tham gia xây dựng và sử dụng bộ đề thi.
- Công bố nội dung, kế hoạch kiểm t
ra đầu năm học để SV có kế hoạch tự học.
- Yêu cầu GV áp dụng đa dạng các hình thức trong thi và kiểm tra.
- Kiểm tra để đảm bảo bài kiểm tra phải có giá trị đáng tin cậy và dễ sử dụng.
- Tổ chức tốt kỳ thi, kiểm tra đảm bảo kết quả kiểm tra học lực của SV phải phản ánh

khác
h quan trình độ học tập của SV, không chạy theo điểm số. Điểm số phải là đơn vị đo
lường chính xác kiến thức, kỹ năng, khả năng vận dụng kiến thức của SV.
- Tổ chức các phong trào thi đua thực hiện kỳ thi nghiêm túc để việc kiểm tra đánh
giá đi vào thực chất, đảm bảo công bằng.
- Yêu cầu G
V chấm bài đúng hạn, công bố đáp án ngay sau thi, sửa bài và ghi nhận
xét vào "Bài kiểm tra quá trình" của SV.
- Tổ chức tổng hợp, phân tích kết quả thi và yêu cầu GV rút kinh nghiệm, cải tiến nội
dung, phương pháp giảng dạy.
1.3.3 Quản lý hoạt động NCKH:
* Khái niệm:
Trường ĐH vừa là cơ sở ĐT vừa là cơ sở NCKH, phát triển công nghệ, ứng dụng và
chuyển giao vào sản xuất và đời sống. Hoạt động công nghệ là một trong những nhiệm vụ
chính của trường ĐH [4; Điều 2]

Theo luật KH&CN [36, tr.1] giải thích khái niệm:
- Hoạt động KH&CN bao gồm NCKH, n
ghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ
KH&CN, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt
động khác nhằm phát triển KH&CN;


- NCKH là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. NCKH bao
gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng;
- Phát triển công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ mới, sản
phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm;
- Triển khai thực nghiệm là h
oạt động ứng dụng kết quả NCKH để làm thực nghiệm

nhằm tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới;
- Sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản
xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi
đưa vào
sản xuất và đời sống;
- Dịch vụ KH&CN là các hoạt động phục vụ việc NCKH và phát triển công nghệ; các
hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư
vấn, ĐT, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức KH&CN và kinh nghiệm thực tiễn.
Như vậy, nhiệm vụ của GV trong trường ĐH là tham gia các hoạt động
KH&CN,
nhưng theo thói quen vẫn dùng gọi là hoạt động NCKH và thực tế NCKH là phần cơ bản
trong các hoạt động KH&CN. Kết quả của hoạt động NCKH quyết định kết quả của hoạt
động KH&NC, vì thế, trong luận văn này, cụm từ "hoạt động NCKH" được dùng để chỉ
khái niệm "hoạt động KH&CN".
Theo chương IV của Quy định về hoạt động KH&CN trong các trường ĐH, CĐ
thuộc Bộ GD&ĐT ban hành kèm
quyết định số 19/2005/QĐ - Bộ GD&ĐT ngày 15/6/2005
của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT [4], việc quản lý hoạt động NCKH trong trường ĐH, CĐ bao
gồm những nhiệm vụ sau:
- Xây dựng các quy định và quy chế quản lý NCKH.
- Tổ chức xây dựng và thực hiện định hướng, kế hoạch NCKH; kiểm tra, đánh giá,
nghiệm thu và công nhận kết quả NCKH theo quy định hiện hành.
- Xây dựng đội ngũ CB KH&CN của trường.
- Tổ chức giới thiệu, ứng dụng, chuyển gia
o công nghệ, dịch vụ khoa học công nghệ
của trường theo quy định hiện hành.


- Quản lý các hoạt động nghiên cứu của các tổ chức thuộc trường và phối hợp với các
phòng chức năng thẩm định về tổ chức, giải quyết những vấn đề về cán bộ…, thực hiện mọi

chế độ chính sách, các nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động NCKH của trường theo quy
định hiện hành.
Hoạt động NCKH của trường ĐH chịu sự quản lý của Bộ GD&ĐT. Hiệu trưởng
quản lý và điều hành các hoạt động
NCKH, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ NCKH được
cấp trên ủy quyền hoặc phân cấp theo quy định [4, điều 25]
. Các phòng chức năng, Khoa,
bộ môn quản lý, tổ chức, phối hợp và tạo điều kiện để tập thể, cá nhân thực hiện nhiệm vụ
NCKH được giao. Bộ môn trực tiếp đôn đốc, giám sát và tạo điều kiện, chịu trách nhiệm về
mặt chuyên môn các vấn đề NCKH của bộ môn và các cá nhân thuộc diện quản lý của bộ
môn [4, điều 27]
. GV có trách nhiệm dành ít nhất 30% định mức thời gian làm việc cho hoạt
động NCKH. NCKH là nhiệm vụ bắt buộc của GV…[4, điều 28]
.
Trong trường ĐH, hoạt động quản lý của CBQL các cấp (trường, phòng, khoa, bộ
môn) đối với hoạt động NCKH của GV tập trung vào những mảng công việc sau:
- Quán triệt mục tiêu NCKH đối với GV.
- Xây dựng kế hoạch, nội dung chương trình NCKH.
- Quản lý công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ và kỹ năng NCKH.
- Quản lý việc thực hiện kế hoạch NCKH.
- Kiểm tra đánh giá hoạt động NCKH.
* Qu
án triệt công tác NCKH đối với GV:
CBQL cần làm cho GV thấm nhuần về "nhiệm vụ của GV [3, Điều 46,47]
; đặc biệt
nhiệm vụ NCKH. Những nội dung chính cần quán triệt cho GV là:
"NCKH là phương pháp ĐT trong trường ĐH" [12, tr.139] vì thế GV không thể
giảng dạy không có phương pháp.

Chất lượng hoạt động NCKH là một phần tất yếu của chất lượng giảng dạy của GV

ĐH.[13, tr.194].


Kết quả nghiên cứu thường tạo ra những hiểu biết mới, hướng giải quyết vấn đề theo
lối mới và những kiến thức mới thu được từ trong quá trình nghiên cứu, xử lý thông tin
được GV đưa vào nội dung bài giảng, làm cho bài giảng sinh động, cập nhật và thực tiễn.
Tiếp cận được những phương pháp nghiên cứu mới, khoa học qua quá trình thực hiện
các khâu cơ bản của việc nghiên cứu sẽ phát triển năng lực và phẩm c
hất hoạt động trí tuệ của
GV.
Tư duy khoa học chỉ xuất hiện trước tình huống có vấn đề. Quen thuộc với các bước
trong NCKH, người GV sẽ dễ dàng kiến tạo ra những hệ thống các tình huống có vấn đề
trong nội dung giảng dạy, xây dựng các bài tập sáng tạo, cách giải bài toán theo lối mới, như
vậy, SV cũng dần có được tư duy khoa học. Sinh viên tham gia NCKH – là động lực chính
để biến quá trình đào
tạo thành quá trình tự đào tạo [32, tr.1].
Đối với SV, "Vai trò của thầy, cô coi như mẫu mực tro
ng cách suy nghĩ và phương
pháp nghiên cứu thông qua hoạt động học thuật", như vậy “GV ĐH là người gắn bó với
NCKH tức là biết nghiên cứu để có thể hướng dẫn SV tự nghiên cứu” [12, tr.226, 224].
Tóm
lại: Ý thức được vai trò của NCKH trong công tác giảng dạy, GV sẽ là người
truyền niềm say mê, tinh thần sáng tạo, cách NCKH, cách học theo phương pháp NCKH
cho SV, vì thế CBQL phải làm cho GV quán triệt được nhiệm vụ NCKH của mình.
* Xây dựng kế hoạch, nội dung chương trình NCKH:
Xây dựng kế hoạch NCKH: CBQL khi xây dựng kế hoạch NCKH của đơn vị phải
căn cứ kế hoạch phát triển của đơn vị; định hướng đề tài, nhiệm vụ NCKH của cấp trên,

định hướng KH&CN của nhà nước, bộ, ngành, tỉnh, thành phố; kết hợp hài hòa với sự tự
nguyện đăng ký tham gia NCKH của GV để có một bản kế hoạch khả thi. “Kế hoạch NCKH

của trường ĐH được xây dựng theo kế hoạch 5 năm” [4, điều 7]
; vì vậy trường ĐH phải có
kế hoạch NCKH dài hạn và trung hạn để có những định hướng xa hơn, để có những đề tài
NCKH lớn, có giá trị.
Xây dựng nội dung, chương trình NCKH.
Những nội dung chính trong hoạt động KH&CN gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu
ứng dụng, nghiên cứu triển khai trong lĩnh vực KHGD và các lĩnh vực KH&CN khác [4,
điều 4]
, [25,tr20], [14, tr. 282,285], [30, tr.36].


Trên cơ sở nhiệm vụ NCKH đối với trường ĐH được qui định trong Luật KH&CN,
xét theo yêu cầu báo cáo của Bộ GD&ĐT đối với các trường về NCKH hàng năm, có thể
tóm tắt nội dung hoạt động NCKH của GV cụ thể gồm:
- Nghiên cứu các đề tài khoa học.
- Thực hiện các hoạt động mang tính sáng tạo sau:
+
Chủ biên hoặc đồng chủ biên viết sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham
khảo, sách chuyên khảo, phục vụ cho giảng dạy và NCKH.
+
Viết giáo trình mới hoặc biên soạn lại.
+
Viết đề cương chi tiết môn học.
+
Chủ trì hoặc tham gia thực hiện dự án.
+
Hướng dẫn SV NCKH.
+
Viết bài trong hội thảo, hội nghị khoa học
+

Tham dự hoặc là người tổ chức hội thảo, hội nghị khoa học.
Nội dung NCKH trong nhà trường: Là một vấn đề thuộc về chế định được thể hiện
qua các văn bản, kế hoạch, thông báo, hàng năm của hiệu trưởng về công tác NCKH và
được các cấp quản lý trong trường triển khai xây dựng phù hợp với tình hình của khoa và bộ
môn.
Nội dung chương trình NCKH của trường phải đảm bảo thực hiện đư
ợc nội dung,
chương trình NCKH do Bộ GD&ĐT ban hành, trong đó lưu ý đến trọng tâm nghiên cứu của
trường trên cơ sở và cân đối giữa đề tài mang nội dung KHGD, khoa học nghiệp vụ, khoa
học cơ bản.
Nội dung chương trình NCKH của khoa và bộ môn phải đảm bảo tính phù hợp với mỗi
chuyên ngành ĐT, phù hợp với tình hình của đơn vị, năng lực nghiên cứu của GV và chú trọng
đến tính kế thừa và phát triển các ý tưởng của những đề tài đã nghiên cứu t
rước.
* Quản lý công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ và kỹ năng NCKH:
Chất lượng hoạt động NCKH phụ thuộc nhiều vào kiến thức và kỹ năng thực hiện
các hoạt động nghiên cứu và thực hiện các đề tài.


Kỹ năng NCKH là khả năng thực hiện thành công các công trình khoa học trên cơ sở
nắm vững các quan điểm, phương pháp luận, sử dụng thành thạo phương pháp và kỹ thuật
nghiên cứu [55, tr.59]. Kỹ năng thực h
iện đề tài thể hiện ở chỗ nắm bắt được phương pháp
NCKH, biết phát hiện vấn đề nghiên cứu, biết xây dựng đề cương nghiên cứu, biết sử dụng
tài liệu khoa học để nghiên cứu, biết viết phiếu điều tra phỏng vấn, thực hiện tốt các khảo
sát bằng phiếu hỏi, phỏng vấn trực tiếp; xử lý đúng số liệu điều tra; có nghĩa là biết tổ chức
các hình thức thực nghiệm
, thí nghiệm để thu thập số liệu.
Kỹ năng NCKH của GV còn thể hiện qua việc xây dựng tốt chương trình ngành học,
dự án; viết giáo trình, các bài báo, chuyên đề khoa học, đề cương nghiên cứu, luận văn khoa

học có chất lượng.
Thực tế cho thấy: GV được bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng thực h
iện các bước
nghiên cứu một đề tài khoa học sẽ có thêm tự tin khi lần đầu tham gia nghiên cứu và đạt
hiệu quả cao hơn so với nghiên cứu theo kinh nghiệm.
Từ tính thiết thực của việc bồi dưỡng hiểu biết và kỹ năng nghiên cứu đã nêu trên và
theo quy định NCKH của Bộ GD&ĐT [4, điều15]
, trường ĐH phải:“ Xây dựng và thực hiện
kế hoạch ĐT, bồi dưỡng đội ngũ CB KH&CN của trường theo kế hoạch 5 năm và hàng năm
thông qua hình thức ĐT, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước”.
Trong thực tế, công việc bồi dưỡng GV NCKH được CBQL thường xuyên tổ chức
gồm các hình thức như: mở lớp bồi dưỡng, báo cáo chuyên đề, tổ chức trao đổi kinh nghiệm
làm đề tài NCKH, thi viết báo cáo khoa học, hướng dẫn sử dụng các thiết bị mới phục vụ
NCKH, phương pháp xử lý
số liệu...
* Quản lý việc thực hiện kế hoạch NCKH:
Để tổ chức tốt hoạt động NCKH, CBQL cần đề ra các qui chế, qui định và hướng dẫn
GV thực hiện, tìm nguồn đề tài, giới thiệu cho GV đề tài nghiên cứu; quy định về viết giáo
trình, viết chương trình, phát triển chương trình ĐT ….
Trong các qui định, qui trình, CBQL phải ghi rõ các hạn định về thời gian: đăng ký,
xét duyệt, tổ chức thực hiện và đánh giá nghiệm
thu, thông báo kết quả và cách thức thực
hiện, các thủ tục hành chính cần hoàn tất các công việc trong NCKH.
Các khâu cần thực hiện trong tổ chức nghiên cứu đề tài:


Khâu 1: Tổ chức tìm hướng đề tài NCKH.
CBQL thông tin về những đề tài đã và đang được nghiên cứu cho GV để GV không
phải tốn thời gian tìm tòi những nội dung mà người khác đã nghiên cứu, hoặc để họ có thể
tìm thấy ngay trong những đề tài đã nghiên cứu hướng đi tiếp, hướng nghiên cứu mới.

Những thông tin này, CBQL có thể thu thập hoặc mua từ Trung tâm thông tin, và thông báo
trên trang web và bản tin khoa học của Trường.
CBQL cần thường xuyên tổ chức tìm hiểu nhu cầu xã hội (doa
nh nghiệp, nhà máy,
cơ sở sản xuất…) để chọn hướng và xây dựng đề tài NCKH cho GV. Khi đề tài nghiên cứu
tham gia giải quyết những vấn đề cấp bách của chính cơ sở thì kết quả nghiên cứu sẽ được
sử dụng ngay, còn nếu không, "Doanh nghiệp chỉ ứng dụng những kết quả NCKH khi biết
chắc chắn sẽ mang lại lợi nhuận" [49, tr.43].
CBQL giao chỉ tiêu cho GV tìm hướng và xâ
y dựng đề tài NCKH. Với giải pháp này
sẽ làm cho đội ngũ GV quan tâm hơn đến công tác NCKH.
Khâu 2: Tổ chức đăng ký và xét duyệt đề tài.
CBQL trường có nhiệm vụ tổ chức đăng ký và xét duyệt đề tài NCKH cấp trường
hoặc hoàn thành các văn bản, thủ tục để Bộ trưởng Bộ KH&CN xét duyệt các đề tài cấp Bộ,
cấp Nhà nước. Tuy nhiên, "Cơ quan nhà nước” có quyền “lựa chọn cá nhân có năng lực,
phẩm chất, điều kiện chuyê
n môn phù hợp để trực tiếp giao thực hiện những nhiệm vụ khoa
học công nghệ đặc thù" [36, điều 21]
. Áp dụng điều khoản này, trường cũng có thể giao đề
tài cho GV nghiên cứu nhưng phải chịu trách nhiệm về việc giao nhiệm vụ của mình.
Khâu 3: Tạo điều kiện tối ưu để GV thực hiện đề tài:
Sau khi đề tài NCKH của GV được xét duyệt, hợp đồng triển khai nhiệm vụ được ký,
kinh phí được duyệt và giao, GV tiến hành thực hiện đề tài. Trong thời gian này, CBQL cần
tạo mọi điều kiện có thể về thời gian và t
hiết bị cho GV triển khai các đề tài NCKH, đồng
thời, quản lý, theo dõi quá trình thực hiện đề tài NCKH của GV (cụ thể: Chủ tịch hội đồng
khoa học Khoa định kỳ 6 tháng một lần nhận báo cáo của GV và kiểm tra tiến độ thực hiện
đề tài, tổng kết tình hình, báo cáo hiệu trưởng để có biện pháp xử lý kịp thời những tình
huống phát sinh). Mục đích của công việc này là giúp GV t
hực hiện đề tài đúng tiến độ ở

từng giai đoạn.


Khâu 4: Chuẩn bị nghiệm thu đề tài:
Sau khi GV nộp báo cáo đề tài, Hội đồng khoa học Khoa phối hợp với Trưởng phòng
NCKH, Phòng Tổ chức cán bộ ra quyết định thành lập Hội đồng nghiệm thu và tổ chức
nghiệm thu đề tài NCKH cấp cơ sở. Riêng với đề tài cấp Bộ, phải qua 2 lần đánh giá (khi
thực hiện được 50% tiến độ và khi nghiệm thu); cấp Nhà nước 3 lần (thẩm định của viện
hoặc trường, nghiệm
thu đề tài tổ chức ở cấp cơ sở do Bộ KH&CN chủ trì và nghiệm thu đề
tài chính thức cũng do Bộ KH &CN chủ trì) [52, tr.152].
Lựa chọn người phản biện phù hợp với nội dung đề tài NCKH và tổ chức bảo vệ,
nghiệm thu theo đúng quy trình cũng là khâ
u quan trọng để bảo đánh giá đúng thực chất đề
tài khoa học.
Khâu 5: Tổ chức, tạo điều kiện tốt để các đề tài NCKH của GV được ứng dụng vào
thực tiễn giảng dạy và sản xuất, được công bố, được đăng ký sở hữu trí tuệ (đối với những
đề tài có giá trị cao) là khâ
u cần được CBQL tổ chức thực hiện để việc NCKH có hiệu quả.
Trường có thể tổ chức trung tâm chuyển giao công nghệ hoặc cử người chuyên trách chuyên
lo khâu này hoặc xây dựng xưởng sản xuất thử...
Ngoài việc quản lý việc thực hiện các đề tài nghiên cứu, CBQL cần khuyến khích
và tổ chức cho GV tham gia các hoạt động khoa học mang tính sáng tạo như:
Giao c
hỉ tiêu hoặc khuyến khích GV viết và đăng bài báo khoa học trên các tạp chí
chuyên ngành. Kỹ năng viết báo cáo khoa học chỉ được nâng cao khi GV thường xuyên
tham gia NCKH và viết bài. Tạo điều kiện tốt để GV tổ chức hoặc tham gia có hiệu quả các
buổi hội thảo khoa học trong và ngoài nước.
Tổ chức, hướng dẫn cho GV biên soạn mới giáo trình, tài liệu học tập.
Tổ chức để GV hướng dẫn SV tham gia NCKH và các cuộc thi mang tính sáng tạo.

Phâ
n công GV hướng dẫn SV thực hiện các hoạt động NCKH dưới nhiều hình thức:
viết thu hoạch, bài tập lớn, bài viết theo chuyên đề, bài tập thực hành...
Những hoạt động khoa học này thường được CBQL phân công định kỳ cho GV thực
hiện, nhưng để có kết quả tốt CBQL cần áp dụng không những giải pháp hành chính, tổ
chức, tâm lý - giáo dục và cả giải pháp kinh tế để khuyến khích GV thực hiện tốt.

×