LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS Trần Hồng Côn, người
đã rất tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong Khoa Hóa học Đại học Khoa học
Tự nhiên đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn chủ nhiệm Đề tài KC.08.26/1115, Bộ Khoa học và
công nghệ: “Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiến tiến, phù hợp xử lý suy thoái
môi trường nhằm sử dụng bền vững tài nguyên cho các vùng nuôi tôm các tỉnh ven
biển Bắc bộ và vùng nuôi cá Tra ở Đồng Bằng Sông Cửu Long” đã tạo điều kiện
cho tôi tham gia đề tài và sử dụng số liệu của đề tài vào luận văn nghiên cứu của tôi.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn.
Hà Nội, ngày 5 tháng 12 năm 2014
HỌC VIÊN
Trương Thanh Ka
MỞ ĐẦU
Với đặc điểm địa lý trải dài theo bờ biển, Việt Nam là một trong những nước có
thế mạnh đặc biệt trong nuôi trồng thủy sản và phát triển theo hướng hàng hóa tập
trung. Theo Tổng cục thống kê, năm 2013, sản lượng thủy sản ước tính đạt gần 6 triệu
tấn. Trong đó cá đạt đạt 4,4 triệu tấn, tôm đạt 704 ngàn tấn. Năm 2013 diện tích nuôi
tôm đạt hơn 65 ngàn ha, gần gấp 2 lần so với năm 2012, sản lượng tăng 56,5%, đạt 230
ngàn tấn.
Trong những năm qua phong trào chuyển sử dụng đất từ trồng lúa sang nuôi tôm
đã xuất hiện tại nhiều địa phương. Trong bốn vấn đề của hoạt động nuôi tôm bao gồm:
thức ăn, giống, kỹ thuật sản xuất và môi trường, vấn đề môi trường đang nổi cộm do
hoạt động này chưa thực sự được quan tâm. Thực tế cho thấy trong nghề nuôi trồng
thủy sản đã xuất hiện nhiều bất cập liên quan đến môi trường cần phải giải quyết như
dịch bệnh, tồn dư về thuốc kháng sinh, vi sinh vật gây bệnh, ô nhiễm hữu cơ.
Tình trạng ô nhiễm môi trường đang xảy ra nghiêm trọng trong nuôi trồng thủy
sản do phần lớn các chất hữu cơ dư thừa từ thức ăn, phân và các rác thải khác đọng lại
dưới đáy ao nuôi. Ngoài ra, còn các hóa chất, kháng sinh được sử dụng trong quá trình
nuôi trồng cũng dư đọng lại mà không được xử lý. Việc hình thành lớp bùn đáy do tích
tụ lâu ngày của các chất hữu cơ, cặn bã là nơi sinh sống của các vi sinh vật gây thối, các
vi sinh vật sinh các khí độc như NH 3, NO2, H2S, CH4.... Các vi sinh vật gây bệnh như:
Vibrio, Aeromonas, Ecoli, Pseudomonas, Proteus, Staphylococcus... nhiều loại nấm và
nguyên sinh động vật.
Đáy ao bao gồm lớp nền đất tự nhiên, chất cặn lắng và lượng bùn nhão
lỏng do thức ăn dư thừa, chất hữu cơ và phân tôm. Sự tích tụ cacbon hữu cơ
chiếm khoảng 25% lượng cacbon hữu cơ từ thức ăn tôm, một số nghiên cứu
tương tự cũng ước lượng khoảng 24% nitơ và 24% phốt pho bị tích tụ lại.
Lượng dinh dưỡng tích tụ ở đáy ao thường trong khoảng từ 5% – 40% từ thức ăn
(cacbon, nitơ, phốt pho) tùy theo khả năng quản lý của từng trại. Các chất dinh
dưỡng, hữu cơ và cặn bùn có xu hướng lắng tích lại ở đáy ao và tới một mức nào
đó chúng ta phải loại bỏ chúng ra khỏi ao nuôi tôm.
Một nghiên cứu của Lemonnier và Brizard đã nhận thấy việc hút lượng bùn đáy
đã làm tăng sản lượng tôm từ 1 đến 6,2 tấn/ha/năm và tăng tỉ lệ sống từ 10 – 60% trong
2
ao nuôi tôm bán thâm canh ở New Caledonia [ 15].Với mụcđích nghiên cứu và ứng dụng
các loại khoáng tự nhiên giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hạn chế tối đa khả năng sinh
các khí độc NH3,H2S,Nox... với chi phí rẻ, sẵn có tại nhiều vùng của Việt Nam, kết hợp
với đề tài Đề tài KC.08.26/1115, Bộ Khoa học và công nghệ “Nghiên cứu và ứng
dụng công nghệ tiến tiến, phù hợp xử lý suy thoái môi trường nhằm sử dụng bền
vững tàinguyên cho các vùng nuôi tôm các tỉnh venbiển Bắc bộ và vùng nuôi cá Tra
ở Đồng Bằng Sông Cửu Long” do viện Môi trường Nông nghiệp thực hiện, đề tài đã
tiến hành:“Nghiên cứu khả năng ức chế quá trình sinh khí amoni và hydrosunfua
bằng một số khoáng chất tự nhiên”.
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1.
TỔNG QUAN VỀ AMONI (NH4) VÀ HYDROSUNPHUA (H2S).
1.1.1. Nghiên cứu về amoni (NH4) và hydrosunphua (H2S):
1.1.1.1. Amoni (NH4)
a. Tính chất hóa học
Amoni sinh ra trong môi trường nước do sự phân hủy các hợp chất hữucơ có
chứa Nitơ. Trong môi trường nước nó tồn tại ở hai dạng: ammonia (NH 3) và ion
ammonium NH4+
Ammoniac (NH3) là một chất lỏng không màu tồn tại dưới áp suất không khí,
nhẹ hơn không khí và có mùi mạnh. Amoniac có thể bị hóa lỏng dưới áp suất khoảng
10atm. Trong công nghiệp để vận chuyển ammoniac người ta thường sử dụng phương
pháp hóa lỏng.
Amoniac hòa tan tốt trong nước hình thành dạng ion amoni:
NH3 + H2O ↔ NH4+ + OH
Sự hòa tan của ammoniac trong nước bị ảnh hưởng của các yếu tố: áp suất
không khí, nhiệt độ hay các chất hòa tan hoặc lơ lửng. Amoniac hòa tan dễ dàng trong
nước và tồn tại chủ yếu ở dạng ion tại pH trong môi trường tự nhiên của hầu hết các
hệ sinh thái. Ở nồng độ thấp, nồng độ mol tổng của ammoniac hòa tan được tính như
sau:
[NH3] + [NH4+] = H[NH3(gas)] + KbH[NH3(gas)],
Trong đó [NH3(gas)] là nồng độ mol của ammoniac pha phí.
Kb là hằng số phân ly tính theo công thức:
[NH4+] [OH]
Kb = = 1.774 x 105 (at 25°C)
[NH3]
H là hằng số Henry được tính theo:
log10H = 1477.8/T 1.6937
Có nhiều loại muối ammoniac, trong đó có một số muối sử dụng phổ biến trong
công nghiệp như ammonium chloride, ammonium nitrat và ammonium sulfate. Ngoại trừ
các phức tạo với kim loại, các muối amoni cũng có tính tan phân ly tốt tương tự như các
muối của kim loại kiềm, tuy nhiên lại dễ bị phân hủy bởi nhiệt.
4
Các loại muối amoni phổ biến:
Ammonium chloride [NH4Cl] có trong tự nhiên, là sản phẩm trong hoạt
động của núi lửa, khi hóa hơi tạo thành hydrogen chloride và ammoniac. Cũng
như các loại muối ammoniac có tính axit mạnh, gốc chloride hydrolyses tan trong
nước tạo pH thấp. Trong chất rắn qua quá trình lưu trữ ammoniac dễ bị thất
thoát, còn trong thể lỏng ammonium chloride có khuynh hướng ăn mòn kim loại
màu và một số các hợp kim khác, đặc biệt là đồng, đồng thau. Ammonium
chloride có thể bị oxi hóa thành nitrosyl chloride và chlorine bởi các tác nhân oxi
hóa mạnh như nitric axit.
Ammonium nitrate [NH4NO3] không tồn tại trong tự nhiên và khá bền, chỉ
bị phân hủy ở nhiệt độ rất cao. Ammonium nitrate tác dụng như một chất oxy
hóa mạnh trong rất nhiều phản ứng, ở dạng dung dịch nó ăn mòn các kim loại,
đặc biệt là đồng và các hợp kim của nó.
Ammonium sulfate [(NH4)2SO4] tan trong nước, không tan trong cồn và
aceton.
Ammonium acetate [CH3COONH4] dễ bị phân hủy mất đi NH3 khi tồn tại
trong dung dịch dưới áp suất khí quyển, đặc biệt trong môi trường kiềm.
Ammonium cacbonate [(NH4)2CO3] và ammonium bicacbonate
[NH4HCO3]. Ammonium bicacbonate dễ hình thành hơn và bền hơn, phân hủy
dưới 350C tạo thành NH3, CO2 và H2O. Ammonium cacbonate bị phân hủy khi
tiếp xúc với không khí tạo thành NH3 và CO2, thành dạng bột trắng và chuyển
hóa thành ammonium bicacbonate.
Lượng Ammoni tự nhiên ở trong nước bề mặt và nước ngầm thường thấp hơn
0,2mg/lít. Các nguồn nước hiếm khí có thể có nồng độ Ammoni lên đến 3mg/lít. Tuy
nhiên trong các thủy vực ô nhiễm nồng độ của ammoni tăng rất cao, có thể lên đến hàng
trăm mg/lít.
Trong nước, amoni tồn tại dưới 2 dạng: không ion hóa (NH3) và ion amoni (NH4+),
tùy thuộc vào trạng thái cân bằng có NH4+
NH3 + H+. Trạng thái cân bằng giữa amoni
và amonia không ion hóa phụ thuộc vào pH, nhiệt độ và độ muối.[1]
Nó có nhiều điểm giống các muối kiềm nhưng lại dễ bị phân hủy.
5
Các hợp chất thường gặp của ion NH 4+ là: các muối clorua, sunphat, nitrat, oxalat,
molypdat và NH4OH.
+ Tính axit – bazo: NH3 hòa vào nước thành amoni hydroxyt NH4OH hay gọi là
dung dịch amoniac. Trong dung dịch NH4OH ta có cân bằng:
NH3 + H2O
NH4OH
NH4+ + OH
Ở nhiệt độ thường, cân bằng vẫn lệch về phía trái nên dung dịch luôn có mùi
NH3
NH4OH là một kiềm yếu, nó kết tủa được một số cation (như Fe3+) dưới dạng
hydroxyt. Nhưng nó không kết tủa được nhiều cation vì nó tạo thành những phức chất
tan, hoặc vì nồng độ ion OH của nó không đủ để kết tủa nhất là khi có mặt muối
amoni (làm giảm sự phân ly của NH4OH)
Muối amoni của các axit mạnh như clorua, sunphat, có phản ứng nhẹ vì:
NH4+ + H2O = NH4OH + H+
Do đó, các muối amoni này thường dùng trong phân tích để làm giảm pH của
dung dịch
Các muối amoni của axit yếu thế thường phân ly, giải phóng NH3:
(NH4)2CO3 = NH4+ + NH3 + HCO3
+ Tính oxy khử: Ion NH4+ có thể bị oxy hóa trong môi trường axit bởi nước cường
thủy, clo, brom và các chất oxy hóa mạnh khác; bị oxy hóa trong môi trường kiềm bởi
hypoclorit, hypobromit, kalipemanganat..
2NH4+ + Cl2 N2 + 6Cl + 8H+
+ Tạo phức: Ion NH4+ có thể tạo phức với nhiều cation như Ag +, Cu2+, Cd2+, Ni2+,
Co2+, Cr3+…, ví dụ [Ag(NH3)2]+, [Ni(NH3)6]2+, ….
+ Độ tan của các muối: hầu hết các muối NH 4+ đều dễ tan, trừ một số ít hợp chất
như amoni hexaxyano cobantiat.
+ Tác dụng nhiệt: Khi đun nóng hầu hết các muối amoni bị phân hủy. Một số
muối amoni khó bay hơi như (NH4)2SO4 chỉ được loại hết ở nhiệt độ cao.
NH4NO3 N2O + 2H2O
b. Một số các nghiên cứu về chuyển hóa Amoni:
Theo một nghiên cứu về hình thái và sự di chuyển ammoni có trong nước tại khu
vực đầm lầy nước ngọt, ven lưu vực sông Scheldt, Bỉ được xác định định tính cho toàn
bộ hệ sinh thái bằng mô hình đánh dấu 15N. Vào cuối mùa hè (tháng 9), người ta bổ sung
6
15
NNH4 vào nước ngập (triều lên) của khu đầm lầy nước ngọt rộng 3477m2 và lần theo
dấu vết của quá trình chuyển hóa amoni và thời gian lưu của amoni trong bốn chu trình
thủy triều tiếp theo. Nghiên cứu này đưa ra kết quả các thành phần trong pha nước của
hệ thống đầm lầy và so sánh chúng với những thí nghiệm tương tự được tiến hành vào
mùa xuân/đầu hè (tháng 5). Những thay đổi về nồng độ và sự tăng đồng vị của NO 3,
NO2, N2O, N2, NH4 và các hạt nitơ lơ lửng (SPN) được phân tích cùng với việc sử dụng
nghiên cứu về cân bằng khối.
Cân bằng khối N cho thấy rằng một nửa lượng NH 4 bổ sung vào được chuyển
hóa hoặc sử dụng bởi sinh khối của khu đầm lầy, trong khi một nửa còn lại được báo
cáo là ở dạng amoni trong suốt thời gian của thủy triều đầu tiên. Nitrat hóa là một quá
trình chuyển hóa quan trọng nhất đối với N, chiếm 17% quá trình chuyển hóa N. N2, N20
và SPN chiếm lần lượt là 2,4; 0,02 và 1,4%.
Quá trình chuyển hóa N cả về không gian và thời gian trong pha nước rất giống
với những gì thu được vào tháng 5, chứng minh khả năng tái lặp tốt của phương pháp
đánh dấu cho toàn hệ sinh thái, nhưng tốc độ tuyệt đối chuyển hóa amoni vào tháng 5
cao gấp 3 lần. Trong khi bề mặt đầm lầy trong tháng 5 rất thuận lợi cho quá trình nitrat
hóa thì nó lại giảm vào tháng 9. Mặt khác, khử nitơ lại là quá trình quan trọng hơn vào
tháng 9. Những phát hiện trong nghiên cứu này cho thấy rằng amoni trong nước ngập là
yếu tố quan trọng cho quá trình loại bỏ amoni trong hệ sinh thái đầm lầy nước ngọt.
c. Nguồn điểm của ô nhiễm ammonia vào môi trường nước
Các nguồn nhân tạo chủ yếu của ammonia trong nước mặt bao gồm các chất
thải từ nông nghiệp, quá trình sản xuất phân bón cho cây trồng, luyện gang thép, lọc
dầu, thuộc da, sản xuất hóa chất vô cơ, các ngành phi kim, hợp kim,chế biến thực
phẩm. Lượng ammoniac trong nước thay đổi thường xuyên theo sự thay đổi lưu lượng
cũng như nồng độ chất thải của các ngành công nghiệp. Trong nông nghiệp, việc chăn
nuôi gia súc quy mô lớn. Ngoài ra, các thức ăn thừa trong quá trình chăn nuôi gia súc cũng
là nguyên nhân gây lên ô nhiễm chất hữu cơ cho nguồn nước dẫn đến ô nhiễm ammoni
trong nước thải chăn nuôi. Chất thải của cá, tép, thức ăn sử dụng cho chăn nuôi thủy
sinh còn thừa, cây bị thối rữa… góp phần vào sự hình thành ammoniac trong hồ thủy
sinh.Trong công nghiệp, các ngành sản xuất phân bón như tổng hợp phân ure, phân bón
lá và các thuốc kích thích sinh trưởng … đều thải ra môi trường lượng lớn chất ô nhiễm
7
chứa nitơ, do các quá trình phân hủy sinh học trong môi trường nước chúng tạo ra
ammoni.
d. Các nguồn mặt ô nhiễm ammonia vào môi trường nước.
Các nguồn mặt ô nhiễm ammonia cho môi trường nước mặt không đơn giản như
là các nguồn điểm ô nhiễm. Các nguồn mặt bao gồm sự giải phóng các chất vô cơ và
hữu cơ không xác định chính xác ở một điểm. Chúng có thể biến đổi, không liên tục,
khuếch tán, theo các cách khác nhau theo đặc trưng từng vùng.
Nó có thể là kết quả của quá trình chảy tràn của nước mưa qua các vùng ô nhiễm
các chất hữu cơ, quá trình rửa trôi, xói mòn các chất mùn, các chất dinh dưỡng từ các
vùng đất dốc…
Ngoài ra, trong nông nghiệp thâm canh cao sử dụng rất nhiều phân ure, phân bón
lá, các kích thích sinh trưởng chứa nito. Các phân bổ sung dinh dưỡng này cây không sử
dụng hết tích tụ lại trong đất, trong thân cây thông qua nước mưa hoặc nước chảy tràn
ra nhập vào môi trường nước, đây cũng là nguồn ô nhiễm mặt đáng chú ý gây nên ô
nhiễm ammoni cho môi trường nước.
Ngày nay hoạt động nông nghiệp gắn liền với chuyên môn hóa, các loại nước
công nghiệp, sinh hoạt giàu hợp chất nitơ thải vào môi trường làm cho môi trường nước
ngày càng bị ô nhiễm các hợp chất nitơ mà chủ yếu là ammoni.
1.1.1.2. Hydrosunphua (H2S)
a. Đặc tính vật lý, hóa học
Sunfua hydrô H2S ở trạng thái hòa tan trong nước. Nguồn gốc của nó là do
sự phân huỷ vật chất hữu cơ trong môi trường khử. H2S gặp trong nước ngầm,
nước tự lưu và các nguồn nước khoáng.
Phân tử H2S có cấu tạo tương tự như phân tử nước
Góc liên kết : HS H là 92, 2o
Độ dài liên kết: S – H là 1, 33AO
Mô men lưỡng cực : m = 1, 02D
8
Nhiệt độ sôi 60, 750C
Nhiệt độ nóng chảy : 85, 60C
Lưu huỳnh có độ âm điện kém hơn oxi nên độ phân cực của phân tử H 2S
kém hơn của H2O, do đó khả năng tạo thành liên kết hiđro giữa các phân tử H2S
yếu hơn so với các phân tử nước. Bởi vậy, ở điều kiện thường đihiđro sunfua là
một chất khí, khí đihiđro sunfua không màu, có mùi trứng thối. Chỉ 0,1% khí
đihiđro sunfua trong không khí đã gây nhiễm độc nặng. Khi hít phải đihiđro
sunfua có nồng độ cao hơn, có thể bị ngất hoặc chết vì tắc thở.
Tích số ion của đihiđro sunfualà:
T = [H3S +]. [HS] = 3. 10 33
Trong khi đó tích số ion của H20 là : T = [H3O+]. [OH] = 10 14
Đihiđro sunfua có hằng số điện môi bé. Do cực tính không lớn, khí
đihiđro sunfua ít tan trong nước (một lít nước ở 200C hoà tan 2, 67l khí H2S)
nhưng tan nhiều trong dung môi hữu cơ (một lít rượu etylic ở 20oC hoà tan được
gần 10 lít khí H2S).
Dung dịch nước của đihiđro sunfua là axít sunfuahiđric, một axít hai nấc
và rất yếu, yếu hơn axít cacbonic.
H2S + H2O = H30+ + HS k1=1, 10 7
H2S + H2O = H30+ + S 2 k2=1, 10 14
Đihiđro sunfua tạo nên hai loại muối : muối hyđro sunfua chứa ion
HS – và muối sunfua chứa anion S –2.
So với nước, phân tử H2S kém bền nhiệt hơn, bắt đầu phân huỷ ở
4000C và phân huỷ hoàn toàn ở 17000C. Bởi vậy tính chất hoá học đặc trưng của
đihiđro sufua là khử rất mạnh. Nó có thể thể cháy trong không khí cho ngọn lửa
màu lam nhạt, khi cho dư oxi nã biến thành sunfuđioxit .
2H2S + O2 = 2SO2 + 2H2O
và thiếu oxi, nã giải phóng lưu huỳnh tự do
2H2S + 02 = 2S + 2H20
Lợi dụng phản ứng này người ta thu hồi lưu huỳnh từ khí đihiđro
sunfua có trong các khí thải của các nhà máy bằng cách trộn những khí thải không
cần thiết rồi cho đi qua chất xúc tác (boxit) sẽ lấy được lưu huỳnh tự do.
9
Dung dịch nước của đihiđro sunfua để trong không khí bị đục dần do bị oxi
hoá bởi oxi, giải phóng lưu huỳnh.
Với halogen, kali pemanganat, kali đicromat, đihiđro sunfua bị oxi hoá dễ
dàng ở nhiệt độ thường , giải phóng lưu huỳnh tự do.
2KMnO4 + 5H2S + 3H2SO4 = 2MnSO4 + 5S + K2SO4 + 8 H2O
I2 + H2S = S + H2O
Phản ứng trên dùng để định lượng khí đihiđro sunfua trong hỗn hợp với các
khí khác.
Đihidro sunfua xuất hiện trong quá trình sử dụng các nhiên liệu hữu cơ có
chứa lưu huỳnh, các quá trình tinh chế dầu mỏ, các quá trình tái sinh sợi hoặc ở
khu vực chế biến thực phẩm, rác thải của đô thị do các chất hữu cơ bị thối rữa
dưới tác dụng của vi khuẩn. Đihiđro sunfua còn sinh ra ở các vết nứt núi lửa,
hầm lò khai thác than, cống rãnh, ao tù, nơi có các động thực vật bị thối rữa.
b. Ảnh hưởng của đihiđro sunfua đối với con người và thực vật.
Trong không khí chứa hàm lượng khí đihiđro sunfua 0,1% đã gây nhiễm
độc, ở nồng độ thấp khoảng 5ppm đihiđro sunfua gây nhức đầu khó
chịu. Ở nồng độ lớn hơn 150ppm đihiđro sunfua có thể gây tổn thương màng
nhầy của cơ quan hô hấp. Ở nồng độ cao khoảng 500ppm gây ỉa chảy, viêm
phổi, và khi đạt tới nồng độ khoảng 700 – 900 ppm đihiđro sunfua nhanh chóng
xuyên qua màng túi phổi và thâm nhập vào mạch máu có thể gây tử vong.
Đối với thực vật đihiđro sunfua làm tổn thương lá cây, rụng lá và
giảm khả năng sinh trưỏng.
Xâm nhập vào cơ thể qua phổi, H2S bị oxy hoá => sunfat, các hợp chất
có độc tính thấp. Không tích lũy trong cơ thể. Khoảng 6% lượng khí hấp thụ
sẽ được thải ra ngoài qua khí thở ra, phần còn lại sau khi chuyển hóa được
bài tiết qua nước tiểu.
Ở nồng độ thấp, H2S có kích thích lên mắt và đường hô hấp.
Hít thở lượng lớn hỗn hợp khí H2S, mercaptan, ammoniac… gây thiếu
oxy đột ngột, có thể dẫn đến tử vong do ngạt.
10
Dấu hiệu nhiễm độc cấp tính: buồn nôn, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy,
mũi họng khô và có mùi hôi, mắt có biểu hiện phù mi, viêm kết mạc nhãn
cầu, tiết dịch mủ và giảm thị lực.
Sunfua được tạo thành xâm nhập hệ tuần hoàn tác động đến các vùng
cảm giác mạch, vùng sinh phản xạ của các thần kinh động mạch cảnh.
Thường xuyên tiếp xúc với H2S ở nồng độ dưới mức gây độc cấp tính
có thể gây nhiễm độc mãn tính. Các triệu chứng có thể là: suy nhược, rối
loạn hệ thần kinh, hệ tiêu hóa, tính khí thất thường, khó tập trung, mất ngủ,
viêm phế quản mãn tính…
1.1.2. Hiện trạng ô nhiễm amoni (NH4) và hydrosunphua (H2S) trong nước
1.1.2.1.
Hiện trạng ô nhiễm Amoni trong nước
Theo đanh gia cua nhiêu bao cao va hôi thao khoa hoc thi trinh trang ô nhiêm
́
́ ̉
̀ ́ ́ ̀ ̣
̉
̣
̀ ̀
̣
̃
amoni trong nươc ngâm đa đ
́
̀
̃ ược phat hiên tai nhiêu vung trong ca n
́ ̣ ̣
̀ ̀
̉ ươc. Theo chi
́
cuc bao vê môi tr
̣
̉
̣
ương thanh phô Hô Chi Minh (TP Hô Chi Minh), kêt qua quan
̀
̀
́ ̀ ́
̀ ́
́
̉
trăc n
́ ươc ngâm tâng nông gân đây cho thây l
́
̀
̀
̀
́ ượng nước ngâm
̀ ở khu vực ngoaị
thanh đang diên biên ngay cang xâu đi. Cu thê n
̀
̃
́
̀ ̀
́
̣
̉ ước ngâm
̀ ở trạm Đông Thach
̣
(huyên Hoc Môn) bi ô nhiêm amoni (68,73 mg/l cao gâp 1,9 lân so v
̣
́
̣
̃
́
̀
ới năm 2005)
va co ham l
̀ ́ ̀ ượng nhôm cao, đô măn tăng va m
̣
̣
̀ ưc đô ô mhiêm chât h
́ ̣
̃
́ ữu cơ cung
̃
tăng nhanh trong nhưng năm gân đây; nông đô săt trong n
̃
̀
̀
̣ ́
ước ngâm cua môt sô khu
̀
̉
̣ ́
vực khac nh
́ ư Linh Trung, Trương Tho (Thu Đ
̀
̣
̉ ưc), Tân Tao (Binh Chanh)…cung
́
̣
̀
́
̃
kha cao (11,76 đên 27,83 mg/l) v
́
́
ượt tiêu chuân cho phep gân 50 lân . Ngoai ra con
̉
́ ̀
̀
̀
̀
co môt sô khu v
́ ̣ ́
ực khac cung bi ô nhiêm amoni trong n
́ ̃
̣
̃
ươc ng
́ ầm nhưng khu vực
bi ô nhiêm amoni trong n
̣
̃
ươc ngâm năng nê nhât trong c
́
̀
̣
̀ ́
ả nước la khu v
̀
ực đông
̀
băng Băc Bô.
̀
́
̣
Riêng đôi v
́ ơi khu v
́
ực Ha Nôi la n
̀ ̣ ̀ ơi duy nhât c
́ ủa ca n
̉ ươc s
́ ử dung 100%
̣
nươc ngâm lam nguôn n
́
̀
̀
̀ ước câp cho sinh hoat. Măc du qui đ
́
̣
̣
̀
ịnh hàm lượng cać
chât Nit
́ ơ trong nươc la rât nghiêm ngoăt song n
́ ̀ ́
̣
ươc ngâm Ha Nôi đang bi ô nhiêm
́
̀
̀ ̣
̣
̃
nghiêm trong, đăc biêt la khu v
̣
̣
̣ ̀
ực phia nam thanh phô.
́
̀
́
Trong lĩnh vực thủy sản, nitrogen là thành phần quan trọng đối với cơ thể sống
của sinh vật, nó cấu tạo nên protein, các enzyme, axit nucleic… Nitrogen được thực vật
11
hấp phụ ở dạng vô cơ hòa tan là NH4+ và nitrat, đặc biệt quan trọng trong các thủy vực
do nó quyết định năng suất sơ cấp thủy vực. Do ảnh hưởng của các điều kiện khác của
thủy vực như hàm lượng oxy hòa tan ở mức trung bình đến thấp, thế oxy hóa khử thấp
(nhất là đối với tầng nước sát đáy bùn, nơi tôm sú có xu hướng tập trung một khoảng
thời gian dài trong ngày) nên N vô cơ hòa tan tồn tại chủ yếu ở dạng NH4+.
NH4+ được quan tâm nhiều trong quản lý chất lượng ao nuôi tôm sú bởi hai
nguyên nhân: Thứ nhất là N tồn tại ở dạng NH4+ chiếm một lượng lớn trong N vô cơ
hòa tan của thủy vực, nó quyết định năng suất sinh học sơ cấp (của tảo và một số loại
thực vật bậc cao khác), do đó nó ảnh hưởng tới năng suất tự nhiên của ao nuôi đồng
thời quy định quá trình phú dưỡng. Thứ hai, N tồn tại ở dạng NH4+ trong nước tồn tại
chủ yếu ở hai dạng là NH4+ và NH3. Một cân bằng động luôn luôn tồn tại giữa hai dạng
này, cân bằng này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là pH và
nhiệt độ của nước, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như hữu cơ, thành
phần sinh vật, độ thoáng khí…
Trong đó, NH3 là yếu tố quan trọng bởi vì nó ảnh hưởng đến tỉ lệ sống, khả
năng sinh trưởng và phát triển của sinh vật. NH3 là một chất khí gây độc cho tôm cá
thường ở vào khoảng 0,6 – 2 mg/l tùy loài và tùy vào giai đoạn phát triển. Tác dụng gây
độc của NH3 với cá là do khi hàm lượng của nó cao trong nước, tôm cá khó bài biết NH3
từ máu ra môi trường. NH3 trong máu và mô làm tăng pH máu, dẫn đến rối loạn các
phản ứng của emzyme và độ bền màng tế bào. Do đó, NH3 cao trong máu có thể dẫn
đến thay đổi áp suất thẩm thấu của tế bào, tăng cường tiêu hao oxy, tổn thương mang,
giảm khả năng vận chuyển oxy của máu…
Khác với NH3, NH4+ là một ion không gây độc, cần thiết cho sự phát triển của
các sinh vật tự nhiên. Tuy nhiên, khi hàm lượng NH4+ quá cao sẽ khiến cho thực vật
phiêu sinh (tảo – đặc biệt là các nhóm tảo lục, tảo lam…) phát triển mạnh, gây ra tình
trạng thiếu oxy nhất là vào buổi sáng sớm, thay đổi pH mạnh trong ngày (do ảnh hưởng
của khí cacbonic). Theo Boyd (1990), hàm lượng NH 4+ thích hợp cho ao nuôi thủy sản là
0,2 – 2 mg/l. Thấp hơn ngưỡng này, ao thiếu dinh dưỡng hòa tan, cơ sở thức ăn tự nhiên
nghèo nàn. Cao hơn ngưỡng này có thể gây phú dưỡng và bùng nổ sự phát triển của tảo.
Tổng nồng độ của NH4+ và NH3 thường được biết là TAN (Total Amonia
Nitrogen), bản chất độc tính của thông số này phụ thuộc vào trạng thái tồn tại của
chúng. Như phần trên đã trình bày giá trị NH3 cao sẽ gây độc cho tôm nuôi, trong khi
12
NH4+ lại là một chất không độc. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng độc tính của thông số
NH3 phụ thuộc chặt chẽ vào nhiệt độ, pH và độ mặn của môi trường nuôi.
Bảng . Tỉ lệ phần trăm của NH3/TAN theo pH và nhiệt độ
1.1.2.2.
Hiện trạng ô nhiễm H2S trong nước
H2S là một chất khí tích tụ dưới nền đáy các thủy vực chủ yếu do quá trình phân
hủy các hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh hay quá trình phản sunphát hóa với sự tham
gia của các vi khuẩn yếm khí. Trường hợp thứ nhất thường gặp ở tất cả các loại thủy
vực tự nhiên hay nhân tạo, xảy ra mạnh mẽ trong lớp bùn đáy các ao nuôi, các hồ đầm
tự nhiên có độ sâu lớn. Trường hợp thứ hai xảy ra nhiều nhất ở các thủy vực nước lợ,
nước mặn như cửa sông, biển, đại dương và một số ao nuôi thủy sản nước mặn, nơi có
nhiều ion SO42– trong nước. H2S tồn tại trong một cân bằng động giữa các dạng sunphít
của nước như S2–, HS– và H2S. Cân bằng này chịu ảnh hưởng của tổng lượng sunphít,
nhiệt độ, pH và một số yếu tố khác.
Vấn đề chính liên quan đến lưu huỳnh trong nuôi trồng thủy sản là thường
xuyên có nồng độ độc hydrogen sulfide. Sulfide có thể xuất hiện trong nước bởi vì nó là
13
chất chuyển hóa của Desulfovibrio(vi khuẩn khử sulfate) và vài loài vi khuẩn khác được
tìm thấy ở các vùng kỵ khí – thường là ở đất trầm tích.
Các loài vi khuẩn này sử dụng oxy từ sulfate như một sự thay thế oxy phân tử
trong quá trình hô hấp. Có ba dạng của sulfide (H2S, HS và S2) và chúng tồn tại ở một
mức cân bằng tùy thuộc nhiệt độ và pH. Ảnh hưởng của pH lên sự phân bố của ba dạng
này được thể hiện trong bảng 2 và hình 1. Khi pH tăng lên, tỷ lệ hydrogen sulfide giảm
và như thế HS tăng cho đến khi hai dạng này có tỷ lệ xấp xỉ bằng nhau ở pH 7. Ở pH
cao hơn, HS là dạng trội hơn và không có dạng S2 cho đến khi pH trên 11.
Bảng . Tỉ lệ phần trăm của H2S/Tổng sulfide theo pH và nhiệt độ
14
Hình . Ảnh hưởng của pH trên tỷ lệ tương quan của H2S, HS và S2
H2S là một chất khí độc đối với thủy sinh vật, tác dụng của nó là liên kết với sắt
trong hemeglebine, làm mất khả năng vận chuyển oxy của máu, gây chết ngạt đối với
thủy sinh vật. Độ độc của H2S cũng tăng dần theo nhiệt độ và pH như phần trăm của nó
trong tổng gốc sunphít. Ngoài ra, H2S dù ở một lượng rất nhỏ trong thủy vực nhất là vùng
đáy cũng gây ra sự hạn chế phát triển đối với nhiều loại động vật đáy, hạn chế thức ăn
tự nhiên của thủy vực, tích lũy trong bùn gây mùi khó chịu vào những ngày trời nắng, gây
ra hiện tượng thiếu oxy nghiêm trọng ở các ao nước tù.
Về yêu cầu chất lượng môi trường của tôm sú, theo Boyd giá trị nồng độ H2S <
0,002 mg/l là phù hợp nhất, từ 0,002 – 0,03 mg/l, chấp nhận được, lớn hơn 0,03 mg/l là
không phù hợp.
Theo kỹ sư Trần Ngọc Hải Bình, trong nuôi tôm nước lợ, do nuôi công nghiệp
mật độ cao từ 1040 con/m2 đã khiến lượng chất thải của tôm vào môi trường nước là
rất lớn. Sau ba tháng nuôi lượng chất thải có thể nâng độ dày chất đáy lên từ 1525cm.
Chất thải tích tụ lâu dưới ao gặp thời tiết bất lợi sẽ tạo điều kiện cho sinh vật yếm khí
phát triển, vi khuẩn khử lưu huỳnh gây nên khí độc hydro sunfua.
15
1.1.3. Các biện pháp xử lý ô nhiễm amoni (NH4+) và hydrosunphua (H2S)
1.1.3.1.
Các biện pháp xử lý ô nhiễm amoni (NH4) trong nước
Trong vấn đề xử lý nước ngầm, hiện nay có nhiều phương pháp xử lý Amoni
trong nước đã được ứng dụng như: Làm thoáng để khử NH 3 ở môi trường pH cao (pH =
10 11); clo hóa với nồng độ cao hơn điểm đột biến, hấp thụ clo trong nước, tạo
cloramin; Trao đổi ion NH4+ và NO3 bằng các vật liệu trao đổi cation/Anion, như
Klynoptilolyle hay Sepiolite; Nitrat hóa bằng phương pháp sinh học; Nitrat hóa kết hợp
với Khử nitrat; Nitrit hóa một phần Amoni, sau đó Amoni còn lại là chất trao điện tử,
Nitrit tạo thành là chất nhận điện tử, được chuyển hóa thành khí nitơ nhờ các vi khuẩn
kỵ khí; Phương pháp điện hóa, điện thẩm tách, điện thẩm tách đảo chiều; vv…Do quá
trình Nitrat hóa tiêu thụ ion HCO3, nếu độ kiềm trong nước nguồn không đảm bảo, cần
bổ sung thêm kiềm. Với nguồn nước lấy cho thí nghiệm thì liều lượng kiềm tối thiểu
cần bổsung là 50 mg NaHCO3/l. Tuy nhiên, nếu hàm lượng kiềm bổ sung nhiều, pH cao,
lại không có lợi cho quá trình xử lý, do NH 4+ chuyển thành dạng NH3 tự do là chất kìm
hãm quá trình phát triển của vi sinh vật. Lượng bùn dư nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả
xử lý. Việc xử lý nước ngầm nhiễm Amoni khá phức tạp và tốn kém cả đầu tư và trong
quá trình vận hành.TS. Đặng Xuân Hiển và KS. Cao Xuân Mai (Viện KH&CN Môi
trường – Trường ĐH Bách khoa Hà Nội) thực hiện nghiên cứu xử lý amoni trong nước
ngầm ứng dụng kỹ thuật trao đổi ion trên vật liệu trao đổi ion là nhựa cationit; các yếu
tố ảnh hưởng đến quá trình trao đổi amoni là nồng độ amoni trong nước đầu vào, tốc
độ dòng chảy, độ cứng của nước và thời gian hoàn nguyên…
Kết quả cho thấy trong điều kiện trao đổi tĩnh, thời gian để hệ đạt cân bằng nằm
trong khoảng 60 phút. Tuy nhiên ở thời điểm 30 phút đầu nhựa đã hấp thu được 8490%
ion amoni so với thời điểm hệ đạt cân bằng. Đẳng nhiệt trao đổi ion của nhựa C100 với
ion amoni trong mẫu không có độ cứng và với mẫu có độ cứng đều tuân theo đường
thẳng nhiệt Freundlich, không tuân theo đường đẳng nhiệt Langmuir ở nồng độ khảo
sát 10 mg NH4+/l đến 50 mg NH4+/l.
Trong ao nuôi, tảo có khả năng hấp thu Amoniac rất mạnh vì vậy nó là nguyên
nhân chính làm giảm Amoniac trong các ao nuôi, nếu mật độ tảo thấp có thể bón thêm
phân lân để thúc đẩy chúng phát triển.
16
Biện pháp sử dụng khoáng trong đó khoáng Zeolite được sử dụng phổ biến để xử
lý nước bị nhiễm độc NH3 và H2S, biện pháp này có tác dụng khử độc tức thời mang lại
hiệu quả nhanh, tuy nhiên nhược điểm lớn nhất lại là làm tăng lượng vật chất tích lũy
dưới đáy ao.
Các nước Đông Nam Á, người ta sử dụng Formaline để loại bỏ Amoniac trong
các hồ nuôi tôm. Có những nghiên cứu cho rằng sử dụng Formaline với liều lượng 5 –
10 mg/l có khả năng loại bỏ được 50% amoniac trong ao nuôi do tạo thành
hexamethylenetetramin và foramid. Tuy nhiên formaline độc đối với thủy động vật, giết
chết tảo, làm cạn kiệt Oxy trong nước và để lại dư lượng trong sản phẩm. Để có thể
ứng dụng trong thực tiễn thì cần phải tiếp tục có những nghiên cứu tỉ mỉ hơn.
Chiết xuất từ cây kim giao (Yucca schidigera) có chứa hợp chất glyco, chất này có
thể kết hợp với amoniac. Trong điều kiện phòng thí nghiệm người ta xác định được là
cứ 1g dịch chiết kim giao thương phẩm sẽ làm giảm 0.1 – 0.2 g amoniac. Khả năng kết
hợp với dịch chiết của amoniac phụ thuộc vào pH của môi trường, vấn đề chưa được
khảo sát. Khảo sát thực tế cho thấy: sử dụng liều lượng 0.3 mg/l, chu kì 15 ngày thấy
hàm lượng amoniac trong ao tôm thấp hơn so với ao đối chứng và khả năng sống của
tôm cao hơn. Tuy nhiên cần có những bằng chứng cụ thể về lợi ích của phương pháp
trên trước khi ứng dụng vào thực tế.
1.1.3.2.
Các biện pháp xử lý ô nhiễm hydrosunphua (H2S) trong nước
Phương pháp xử lý H2S bằng cách ôxy hoá hấp phụ.
Nguyên lý: Phương pháp này dựa vào thế oxi hoá khử của mét sè chất ôxi hoá
mạnh như : Hiđropeoxit(H202), clo(Cl2), mangan oxit(Mn02) có thể ôxi hoáđihiđro sunfua
thành lưu huỳnh hoặc sunfat. Qúa trình này cũng bị ảnh hưởng bởi môi trường. Ở vùng
pH cao sẽ có xu hướng tạo thành sunfat, còn trong vùng pH thấp thì khả năng chuyển
thành lưu huỳnh cao hơn.
Phương pháp kết tủa dựa trên việc tạo những hợp chất sunfua khó tan của
các ion Ag+, Hg2+, Cd2+ , Zn2+...
Mức độ kết tủa Ag2S mạnh hay yếu phụ thuộc vào pH của môi trường.
Thông thường khi chuẩn độ người ta tiến hành trong môi trường đã được kiềm
hoá. Cho mét lượng dư chính xác muối bạc vào dung dịch sunfua,
17
Dùng các chất oxi hoá mạnh như H2O2 để oxi hoá hoàn toàn S2 thành
SO42Sau đó kết tủa bằng dung dịch BaCl2 trong môi trường axít.
Trong ao nuôi thủy sản, như đã đề cập ở trên, các dòng nước do sục khí tạo ra
có thể làm xáo trộn trầm tích, tạo thuận lợi để trộn hydrogen sulfide vào trong nước,
nhưng các lợi ích tích cực của việc đưa thêm oxy bằng cách sục khí có tác dụng hơn
nhiều. Tuy nhiên, các thiết bị sục khí nên được lắp đặt theo cách giảm thiểu xáo trộn
đất trầm tích.
Các phương pháp giảm thiểu nguy cơ độc tính của hydrogen sulfide là cho ăn
thận trọng để tránh thức ăn bị lãng phí ở đáy ao, sục khí nhiều để tránh mức oxy hòa tan
thấp và tạo một dòng nước chảy có thêm oxy ngang qua bề mặt phân giới giữa đất và
nước, bón vôi để ngăn chặn chất lắng đọng và nước có tính axit.Nên phơi kỹ đáy ao
giữa các vụ. Đất trầm tích, bùn đáy ở những chỗ quá sâu để có thể khô hoàn toàn nên
rút bỏ khỏi ao và đáy ao có tính axit nên được rải vôi.
Một số sản phẩm đôi khi được sử dụng cho ao vì chúng có khả năng làm giảm
hydrogen sulfide. Các sản phẩm này như là dùng kali permanganate ở nồng độ cao hơn
nồng độ hydrogen sulfide sáu đến tám lần – permanganat có thể oxy hóa sulfide. Các
hợp chất sắt như oxit sắt đã được sử dụng cho đất trầm tích theo tỷ lệ 1 kg/m 2 hoặc
nhiều hơn để kích thích hydrogen sulfide trong nước ở lỗ rỗng đất trầm tích kết tủa
thành sulfide sắt. Dùng natri nitrat cho nước có thể giúp duy trì điều kiện có thêm oxy
tại bề mặt phân giới giữa nước và đất, làm giảm cơ hội hydrogen sulfide khuếch tán
vào trong nước.
Chế phẩm sinh học thường được sử dụng trong ao với niềm tin sẽ làm giảm
nguy cơ độc tính của hydrogen sulfide. Vi khuẩn oxy hóa lưu huỳnh có sẵn trong ao nuôi
và không biết chắc là các xử lý bằng men vi sinh có hiệu quả để loại bỏ hydrogen
sulfide. Zeolite đôi khi được cho là hấp thụ hydrogen sulfide, nhưng tỷ lệ xử lý cần thiết
nhằm có hiệu quả sẽ là quá nhiều để có giá cả phải chăng.
1.2.
Tổng quan khoáng Laterit và Zeolite
1.2.1. Khoáng Zeolite
Zeolite là aluminosilicat tinh thể, không có màu sắc, trắng, độ cứng từ 3 6.
Trong thiên nhiên có khoảng 40 loại Zeolite tự nhiên đã được phát hiện. Song, các ứng
18
dụng quan trọng trong hấp phụ, tách lọc, xúc tác chủ yếu nhờ vào các zeolit tổng hợp
nhân tạo, do các Zeolite tự nhiên thường có những điểm không tốt bằng zeolite tổng
hợp, các kênh lớn thường bị tắc nghẽn do những khuyết tật về mặt cấu trúc. Ngày nay,
người ta đã tổng hợp được khoảng 200 loại Zeolite. Tuy nhiên, chỉ một số ít trong đó có
ứng dụng công nghiệp.
Đơn vị cơ bản của mọi Zeolite là tứ diện TO 4 bao gồm 1 cation T được bao
quanh bởi 4 ion O2. Nếu T là Si4+ thì tứ diện SiO4 trung hoà về điện tích, còn T là các ion
hoá trị 3+, thông thường là Al3+ thì tứ diện AlO41 mang một điện tích âm.Cấu trúc không
gian ba chiều của Zeolite được hình thành bởi sự ghép nối các tứ diện TO4 (T=Si, Al).
Các tứ diện là các đơn vị cấu trúc sơ cấp sẽ liên kết với nhau hình thành các đơn vị cấu
trúc thứ cấp SBU . Đó là các vòng đơn gồm 4; 6; 8 ; 10 và 12 tứ diện hoặc hình thành
các vòng kép 4 nhân 2 và 6 nhân 2 tứ diện….và theo nguyên tắc Lowenstein xác định
rằng cấu trúc Zeolit không thể tồn tại liên kết AlOAl, mà chỉ tồn tại các liên kết –Si
OSi và –SiOAl, (Nguyễn Hữu Phú, 1998 [9])
Sự thay thế Si4+ bằng Al3+ làm xuất hiện một điện tích âm trong mạng lưới tinh
thể, và được bù trừ bởi một cation hoá trị 1 cation bù trừ, cation đối. Các cation này
chủ yếu là Na+, K+, Mg2+, Ca2+. Những cation này được liên kết bằng lực hấp phụ lỏng
trên bề mặt khối tứ diện và được bao quanh là những phân tử nước. Công thức tổng
quát cảu Zeolit được biểu diễn như sau:
(Me++,Me2+)x . (AlO2)x . (SiO2)y . zH2O,
Trong đó: x, y, z là các hệ số tương ứng; Me + thông thường là K+, Na+; Me++ có thể là
Ca++, Mg++ hay Fe++. Hiếm khi có Li, Sr hay Ba đóng vai trò là cation đối.
Đặc trưng cơ bản nhất của Zeolit là các kiểu cấu trúc tinh thể, cấu tạo hình học ( cách
sắp xếp các tứ diện; thể tích lỗ xốp; kích cỡ các kênh (từ 310A 0 , rãnh, các hốc lỗ) tỷ
số Si/Al ( hoặc SiO2/ Al2O3) và các cation bù trừ (Na+, K+...). Các cation bù trừ có khả
năng trao đổi với một nhóm các cation KLN nhất định trong dung dịch (như: Pb, Cd, Zn,
Mn…(Breck 1974) [14].
Về sự hình thành Zeolite tự nhiên (Bramlette và Posniak , 1933 [13]), đoán nhận
sự có mặt của những zeolite như những sản phẩm thay đổi của tro bụi vitric trong
những đá trầm tích có hạt nhỏ. Coombs (1954) [12], đã xác định khoáng zeolite có xuất
hiện trong đá macma phun trào (đá phún xuất) tại Southland, New Zealand. Ngày nay các
dạng khoáng zeolite tự nhiên này đã được xác định ở nhiều nước như: Nhật Bản, Nga,
Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kì, Mexico, Mỹ, Kenya và Australia.
19
Bản chất hấp phụ của khoáng Zeolite là trao đổi cation bằng khả năng cạnh
tranh ái lực trên bề mặt khoáng. Do vậy khoáng Zeolite thường được sử dụng để xử lý
ô nhiễm kim loại nặng trong môi trường nước và đất. Trong khi đó cation NH 4+ khi xét
về điện tích thì có tính chất như một kim loại nặng nhóm I.
L. Curkovic, T. Filipan (1996) , khi nghiên cứu về khả năng trao đổi các ion kim
loại nặng bởi khoáng Zeolite tự nhiên và hoạt hóa, các tác giả cho rằng: sự hấp thu
KLN được cho là do những cơ chế khác nhau của quá trình trao đổi ion cũng như quá
trình hấp phụ (hút bám hóa học). Trong suốt quá trình trao đổi ion, những ion Pb và Cd
phải được chuyển qua những kênh, lỗ (khe hở) của khoáng Zeolite và chúng phải thay
thế các cation kim loại có khả năng trao đổi Pb và Cd như Na, Ca và một số ít là K. Sự
khuếch tán nhanh hơn khi những ion di chuyển qua các lỗ và chậm lại khi những ion di
chuyển qua các kênh có đường kính nhỏ hơn. Tuy nhiên sự hấp phụ trên bề mặt khoáng
là nguyên nhân quan trọng nhất giữ Pb và Cd ổn định trên bề mặt khoáng. Điều này
cũng mở ra hướng nghiên cứu sử dụng các khoáng sét khác cũng có thể cho kết quả tốt,
một số khoáng sét được đề nghị là (bentonite, illite, monmorinolite, feldspar, calcite,
quartz và halite). Sự tương tác giữa ion KLN trong đất và các ion trên bề mặt khoáng sẽ
dẫn tới các KLN sẽ được vận chuyển tới bề mặt các phần tử Zeolite, ở đó các hoạt
động của kim loại sẽ bị giới hạn và được ổn định.
Trịnh Quang Huy (2006), khi tiến hành nghiên cứu về việc xử lý nước thải chứa
Pb2+ và Cd2+ từ các phòng thí nghiệm hóa học đã cho kết luận rằng: kết quả nghiên cứu
động thái hấp phụ của Pb2+ và Cd2+ trên các mẫu zeolite thí nghiệm cho thấy Pb và Cd
được gắn trên bề mặt khoáng nhờ các quá trình trao đổi ion khác nhau. Khi diễn ra sự
trao đổi ion một phân các ion Pb và Cd được vận chuyển tới khe hở trên bề mặt khoáng
zeolite, phần khác được trao đổi với các cation như Na+, K+, Ca2+, Mg2+ nhờ cơ chế đổi
chỗ. Sự khuếch tán diễn ra nhanh tại các khe hở trên bề mặt khoáng zeolite, sau đó
chậm dần. Các ion Pb2+ và Cd2+ được hấp phụ chủ yếu nhờ các phản ứng trao đổi ion
trong các lỗ hổng của bề mặt khoáng zeolite. Việc sử dụng Zeolite tự nhiên và zeolite
hoạt hóa cho thấy hiệu quả cao trong việc loại bỏ các ion kim loại nặng trong nước
thải có nồng độ khoảng 2ppm. Hiệu quả đối với Pb đạt hơn 95% và đối với Cd đạt hơn
99%.
Thực tế cho thấy các khu vực nuôi tôm thường xử lý hiện tượng khí độc nền đáy
ao bằng khoáng Zeolit, vật liệu này được nhập khẩu từ Thái Lan hoặc được sản xuất
trong nước. Do có hệ mao quản nhỏ với kích thước ngang với kích thước của các phân
20
tử nên chúng có khả năng tách chọn lọc một chất nào đó phụ thuộc vào kích thước phân
tử tức là khả năng “sàng lọc”, vì vậy zeolit còn có tên là vật liệu rây phân tử.
1.2.2. Khoáng Laterit (đá ong )
Laterite là loại khoáng được hình thành do quá trình phong hóa và tích tụ của sắt
hydroxit/oxohydroxit trong tự nhiên. Laterite thông thường được tạo bởi hai phần chính
trong cấu trúc đó là phần “xương cứng” là khung sắt hydroxit/oxit kết von và phần mềm
xen kẽ chủ yếu là sắt hydroxit và sét. Laterite phân bố nhiều tại những vùng giáp ranh
giữa vùng đồi núi và đồng bằng có sự phong hóa quặng chứa sắt và các dòng nước
ngầm có oxi hòa tan. Ở miền Bắc nước ta, đặc trưng là tại vùng đồng bằng Bắc Bộ
như Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh... Ngoài ra còn tại các tỉnh như Thanh
Hoá, Nghệ An, Ninh Bình...sự tồn tại của laterit cũng rất đáng kể.
Đã có rất nhiều tài liệu nói về đá ong, các tác giả đưa ra nhiều ý kiến khác nhau
về nguồn gốc hình thành. Song có nhiều tác giả đã đồng tình với quan điểm cho rằng sự
hình thành đá ong là do các quá trình di chuyển của ôxit sắt từ nơi khác đến, đặc biệt khi
xét đến vai trò của nước ngầm trong việc hình thành đá ong, các tác giả đã nhấn mạnh ý
nghĩa của các dòng nước mạch ngầm mang sắt từ tầng đất trên đưa xuống tầng dưới.
Tại đây nhờ các quá trình ôxi hoá và đất bị khô đi mà Fe bị kết von lại và tham gia vào
quá trình tạo thành đá ong.
a. Laterite trong tự nhiên
b. Cấu trúc mặt cắt của khối Laterit
Hình . Laterit (đá ong) trong tự nhiên
Khoáng laterite có thành phần chủ yếu là Fe2O3 và Al2O3 được nghiên cứu và
ứng dụng nhiều trong xử lý kim loại nặng, asen và các anion độc hại khác trong
nước. Laterit hiện được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng xử lý nước ăn:
Trạm nước quy mô gia đình.
Bình lọc nước gia đình.
Hệ thống cấp nước công nghiệp.
21
Sử dụng các khoáng chất tự nhiên ức chế quá trình sinh khí amoni và
hydrosunfua trong môi trường yếm khí.
1.3.
Lý thuyết hấp phụ
1.3.1. Định nghĩa
Sự hấp phụ là sự thu hút chất trên bề mặt phân chia hai pha thể tích (rắnlỏng, rắn
khí, lỏngkhí). Chất mà trên bề mặt của nó sự hấp phụ xảy ra gọi là chất hay vật hấp
phụ, còn chất được tập tụ ở bề mặt phân chia gọi là chất bị hấp phụ [3].
1.3.2. Phân loại hấp phụ
Có 3 loại: hấp phụ vật lý, hấp phụ hóa học và hấp phụ trao đổi [2]
1.3.2.1 Hấp phụ vật lý: Các phân tử bị hấp phụ bị giữ lại trên bề mặt
chất
hấp phụ nhờ những lực liên kết yếu như lực Vander Waals, liên kết Hydro…
Các phân tử chi bị giữ lại nhưng không tạo thành hợp chất hóa học.
. Sự hấp phụ vật lí luôn luôn thuận nghịch, nhiệt hấp phụ không lớn và ít phụ
thuộc vào nhiệt độ.
1.3.2.2. Hấp phụ hóa học (Hấp phụ hoạt hóa): Có bản chất là một phản
ứng
hóa học. Nó hình thành các liên kết hóa học bền và tạo thành hợp chất.
Là kết quả của sự tương tác giữa chất rắn và chất bị hấp phụ
Nhiệt phát trong hấp phụ hóa học thường lớn cỡ nhiệt phản ứng
Quá trình thường là không thuận nghịch
Hấp phụ hóa học liên quan đến hang rào hoạt hóa còn được gọi là hấp
phụ hoạt hóa.
1.3.2.3. Hấp phụ trao đổi:
Có đặc tính hút bằng tĩnh điện
Là quá trình trao đổi ion
Ion tích điện cao bị hút lơn hơn ion hóa trị thấp hơn
Ion kích thước nhỏ bị hút nhiều hơn
22
1.3.3. Cơ chế
Quá trình hấp phụ được thực hiện bằng cách cho tiếp xúc hai pha không hòa tan pha
rắn (chất hấp phụ) với pha khí hoặc pha lỏng. Chất bị hấp phụ sẽ đi từ pha khí, pha
lỏng đến pha rắn cho đến khi nồng độ của dung chất phân bố giữa hai pha đạt cân
bằng[2].
1.3.4. Chất hấp phụ
Vật liệu dùng làm chất hấp phụ là các vật liệu xốp với bề mặt riêng lớn, được
tạo thành do tổng hợp nhân tạo hoặc do tự nhiên.
Vật liệu hấp phụ có độ rỗng lớn do nhiều mao quản li ti nằm bên trong khối vật
liệu.
Yêu cầu đối với chất hấp phụ:
Khả năng hấp phụ cao
Phạm vi áp dụng rộng
Có độ bền cơ học cần thiết
Có khả năng hoàn nguyên dễ dàng
Giá thành rẻ
1.3.5. Đường hấp phụ đẳng nhiệt
1.3.5.1. Phương trình Freundlich[1]
Đó là phương trình thực nghiệm áp dụng cho sự hấp phụ khí hoặc chất tan lên chất
hấpphụ rắn:
q = βC α (1)
Trong đó: q là lượng chất bị hấp phụ bởi một gam chất hấp phụ (mol/g) hoặc mg/g.
C là nồng độ chất bị hấp phụ khi đạt cân bằng hấp phụ(mol/l) hoặc mg/l
β và α đều là hằng số, riêng α luôn luôn bé hơn 1.
Vì α < 1 nên đường biểu diễn của phương trình (1) là một nhánh của đường
parabol và được gọi là đường hấp phụ đẳng nhiệt Frendlich. Đường này khác đường
Lăngmua ở chỗ ở vùng nồng độ thấp đường biểu diễn không phải là đường thẳng đi
qua gốc toạ độ và ở vùng nồng độ cao, đường biểu diễn không đạt cực đại mà có xu
23
hướng đi lên mãi, đó là nhược điểm của phương trình Frendlich. Ở vùng nồng độ trung
bình, hai đường biểu diễn giống nhau.
Hình . Đường hấp phụ axit propionic trên than hoạt tính
Hình 1 biểu diễn đường hấp phụ đẳng nhiệt Freundlich của axit propionic trên
than hoạt tính. Ta thấy từ điểm M, đường biểu diễn phân ra hai nhánh: Đoạn MB là
đoạn tính trực tiếp từ phương trình (1) còn MC là đoạn vẽ theo thực nghiệm. Để cho
đường hấp phụ mô tả đúng phương trình (1) cần giả thiết α không phải là hằng số mà
là hàm số của nồng độ. Ở nồng độ thấp α = 1, khi đó ta sẽ có:
q = βC (2)
Còn ở nồng độ cao hơn thì α = 0, khi đó ta sẽ có:
q = β (3)
Để tính các hằng số trong phương trình Frendlich, người ta cũng dùng phương pháp đồ
thị. Phương trình Freundlich có thể viết dưới dạng:
lg q = lgβ + αlgC
24
Hình . Đồ thị để tìm ra các hằng số trong phương trình Frendlich
Như vậy lgq tỉ lệ bậc nhất với lgC. Đường biểu diễn trong hệ tọa độ lgq − lgC sẽ cắt
trục tung tại N.
Ta có: ON = lgβ
tgγ= α
Từ hai phương trình này sẽ xác định được các hằng số αvà β.
1.3.5.2.Phương trình Lăngmua (Langmuir)[1]
Là phương trình có chứng minh lí thuyết dựa vào việc nghiên cứu động học của sự
hấp phụ. Phương trình có dạng:
q = qmax(4)
q là lượng chất bị hấp phụ bởi một gam chất hấp phụ (mol/g).
C là nồng độ chất bị hấp phụ lúc cân bằng hấp phụ (mol/l).
qmax : tải trọng hấp phụ cực đại theo lý thuyết (mg/g)
b là hằng số.
Trong một số trường hợp. giới hạn phương trình Langmuir có dạng:
Khi bC <<1 thì q=qmaxbC mô tả vùng hấp phụ tuyến tính.
Khi bC>>1 thì q=qmax mô tả vùng hấp phụ bão hòa.
Khi nồng độ chất hấp phụ nằm trung gian giữa hai khoảng nồng độ trên thì
đường biểu diễn phương trình Langmuir là một đường cong.
Hình . Đường hấp phụ đẳng nhiệt Lăng mua
25