Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Luận văn Thạc sĩ: Một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú Trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.01 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


NGUYỄN VĂN TOÀN

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC NẾP
SỐNG CHO SINH VIÊN NỘI TRÚ
TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI 3

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC VĂN HÓA GIÁO DỤC
Mã số: 5.07.03

Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. HOÀNG TÂM SƠN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2004


Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Ban quản lý kí túc
xá trường Cao đẳng GTVT3 cùng toàn thể anh em, bạn bè trong
trường đã tạo những điều kiện về vật chất và tinh thần thuận lợi, giúp
tôi hoàn thành Luận văn tốt nghiệp và nhiệm vụ học tập của mình.
Xin chân thành cảm ơn Phòng Khoa học công nghệ – Sau đại
học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh và các thầy cô
đã hết lòng giảng dạy, truyền thụ những kiến thức rất cần thiết, bổ ích
cho công việc và cho cuộc sống của những người học viên lớp Cao
học Quản lý Văn hóa – Giáo dục, khóa 11 chúng tôi.
Đặc biệt là những lời biết ơn sâu sắc về công lao dìu dắt, sự
hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo, người hướng dẫn khoa


học – Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nhà giáo Ưu Tú Hoàng Tâm Sơn đã giúp
tôi hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp này.


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN


: Cao đẳng

CNH-HĐH

: Công nghiệp hoá – hiện đại hoá

ĐH

: Đại học

GD

: Giáo dục

QL

: Quản lý

GTVT

: Giao thông Vận tải

HS-SV


: Học sinh-sinh viên

KTX

: Kí túc xá

QLGD

: Quản lý giáo dục

SV

: Sinh viên


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời đại ngày nay nếu kỹ thuật năm trước là hiện đại nhất thì năm sau đã lạc hậu
mất rồi. Ý tưởng đào tạo ra những con người có kiến thức cơ bản vững chắc và biết sử
dụng chúng với phương pháp suy luận đúng đắn để giải quyết những vấn đề những tình
huống mới, cần được khuyến khích. Bên cạnh đó, xu hướng thực tế hơn do nhòp độ phát
triển kinh tế của Việt Nam yêu cầu nhân lực cho công nghệ mới.
Chúng ta đang bước vào những năm đầu tiên của thế kỉ mới, với vai trò trí tuệ con
người luôn được nhắc đến. Để tiếp tục phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam sẽ cơ bản trở
thành một nước công nghiệp thì điều kiện tiên quyết mà Đại hội Đảng toàn quốc đã đề
ra là sự cần thiết phải khai thác nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người
– những lớp người được giáo dục và đào tạo, có tầm trí tuệ cao, tay nghề thành thạo và
phẩm chất tốt đẹp là vốn quý nhất quyết đònh sự thành công. Cương lónh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ trương là xây dựng một nền

kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được
giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân
tộc phát triển bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghò, hợp
tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Để xây dựng mô hình chủ nghóa xã hội theo các tiêu chí trên, vấn đề nguồn nhân
lực có tầm quan trọng đặc biệt. Vì vậy, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn coi “Giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và của toàn dân” Nghò quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, là điều kiện để phát huy


nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững” (Tr.108, 109)[6]
Việt Nam đang ở trong quá trình thực hiện CNH-HĐH. GTVT là một trong những
ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện CNH nền kinh tế quốc dân, trước
hết phải xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển. Nói cách khác,
CNH-HĐH ngành GTVT đi trước một bước sẽ tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư CNHHĐH các ngành nghề khác. Tiền đề của CNH-HĐH GTVT trước hết phải đầu tư cho đào
tạo nhân lực.
Trường Cao đẳng GTVT3 là một trong những cơ sở đào tạo nhân lực cho ngành
GTVT với nhiệm vụ cụ thể: đào tạo cán bộ kỹ thuật bậc trung học và cử nhân cao đẳng
về GTVT cung cấp cho các sở GTVT các tỉnh và các công ty xây dựng công trình, đơn vò
tư vấn thiết kế, quản lý GTVT… thuộc trung ương và đòa phương nằm trên đòa bàn khu
vực Nam Trung bộ và Nam bộ. Trong những năm gần đây, số lượng học sinh được tuyển
vào trường ngày càng tăng, phần lớn các em đều ở xa lên thành phố học nên nhu cầu
được ở trong KTX của trường cũng gia tăng. Trước tình hình này, nhà trường đã đầu tư
mở rộng nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng để tạo nhiều chỗ ở hơn cho các em, song vì diện
tích sân bãi còn hạn hẹp nên vẫn không giải quyết được tất cả các nhu cầu xin ở kí túc tại
KTX nhà trường. Với số lượng lưu học sinh nội trú tăng lên đột biến đã đặt ra cho công

tác quản lý giáo dục nếp sống ăn ở, học tập, sinh hoạt… cho số lượng học sinh trên là rất
lớn. Điều này đòi hỏi Ban quản lý KTX, Phòng quản lý sinh viên và nhà trường phải xem
xét lại thực trạng về công tác quản lý KTX nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
giáo dục nếp sống cho sinh viên.
Từ những thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp quản lý giáo dục
nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3” làm đề tài nghiên
cứu của luận văn tốt nghiệp. Hy vọng và mong muốn của chúng tôi là đóng góp một
phần nhỏ cho việc cải tiến và nâng cao chất lượng quản lý nếp sống sinh viên nội trú
trong nhà trường mà chúng tôi đang công tác.


2. Đối tượng và khách thể của đề tài nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu: là thực trạng một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống
sinh viên nội trú
b. Khách thể nghiên cứu: là sinh viên đang nội trú trong KTX trường Cao đẳng
Giao thông Vận tải 3.
3. Giới hạn của đề tài
Do thời gian nghiên cứu không nhiều và khả năng của tác giả còn có những hạn
chế nhất đònh, vì thế luận văn chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu thực trạng về hoạt động
quản lý giáo dục nếp sống sinh viên lưu trú tại KTX trường Cao đẳng Giao thông Vận tải
3 và biểu hiện nếp sống của sinh viên qua những hoạt động chủ yếu diễn ra trong phạm
vi KTX. Những hoạt động ngoài KTX trường, đề tài không có điều kiện nghiên cứu.
4. Mục đích của đề tài nghiên cứu
Làm rõ thực trạng một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội
trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 và trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp tăng
cường quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nếp sống cho sinh viên.
5. Giả thiết nghiên cứu
Nếp sống của sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải3 phụ thuộc
vào các biện pháp quản lý giáo dục nếp sống sinh viên của trường Cao đẳng Giao thông
Vận tải 3.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
6.2. Khảo sát đánh giá thực trạng nếp sống sinh viên và thực trạng công tác quản lý giáo
dục nếp sống sinh viên trong kí túc xá thông qua các hoạt động học tập, sinh hoạt, lao
động và giao tiếp ứng xử.
6.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú.


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Nghiên cứu tài liệu, sách báo, tư liệu lưu trữ, báo cáo, tổng kết liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Phương pháp quan sát: tiến hành quan sát các sinh hoạt, hoạt động của của sinh
viên ở kí túc xá cũng như hoạt động quản lý giáo dục của các cán bộ quản lý nhằm thu
thập các tư liệu bổ sung.
Phương pháp phỏng vấn: tiến hành trao đổi trực tiếp với các sinh viên ở kí túc xá,
các cán bộ quản lý kí túc xá và cán bộ các phòng ban, các tổ chức có liên quan đến công
tác học sinh sinh viên ở kí túc xá.
Phương pháp điều tra: điều tra bằng phiếu câu hỏi với 300 sinh viên nội trú, 20 cán
bộ, giáo viên bao gồm các cán bộ quản lý kí túc xá, cán bộ phòng quản lý học sinh sinh
viên, Đoàn thanh niên trường và các giáo viên liên quan đến công tác học sinh, sinh viên
ở kí túc xá.
7.3. Phương pháp ứng dụng toán thống kê.
Sử dụng để xử lý các kết quả điều tra trong quá trình nghiên cứu.
8. Đòa điểm nghiên cứu
Kí túc xá trường Cao đẳng Giao thông vận tải 3.
9. Đóng góp mới của đề tài
- Góp phần làm phong phú lý luận và thực tiễn về nếp sống của sinh viên trong kí

túc xá.
- Đề xuất được một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống sinh viên nội trú có cơ
sở khoa học, phù hợp với đặc điểm của trường Cao đẳng giao thông vận tải 3 nói riêng,
sự nghiệp trồng người nói chung.
- Đề tài còn là một tư liệu tham khảo cho các trường.


10. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 phần:
Phần mở đầu: Giới thiệu khái quát đề tài, đối tượng – khách thể, mục đích, nhiệm vụ,
phương pháp nghiên cứu…
Phần nội dung: Gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng về các biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên
nội trú trường Cao đẳng Giao thông vận tải 3
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp nhằm củng cố và nâng cao hiệu quả công tác
quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3
Phần kết luận chung và kiến nghò
Tài liệu tham khảo và phụ lục


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.

SƠ LƯC VỀ LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Vấn đề nghiên cứu lối sống, nếp sống đã được đề cập đến từ lâu qua nhiều công

trình nghiên cứu công phu như công trình “Việt Nam Phong tục” của cụ Phan Kế Bính

(1875-1921). Ông đã nghiên cứu công phu về các phong tục tập quán của dân tộc Việt
Nam qua bao thăng trầm của bề dầy lòch sử 4000 năm. Tất cả những thói quen, nếp sống
của con người Việt Nam từ xưa đến đầu thế kỉ XX được tác giả phản ánh một cách khách
quan, từ đó ca ngợi những phẩm chất, cái đẹp của con người Việt Nam đồng thời cũng
mạnh dạn đánh giá, phê phán các yếu tố lạc hậu, trì trệ trong lối sống, nếp sống đi ngược
lại thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hoá dân tộc. Tư tưởng của cụ rất gần gũi với tư
tưởng các thế hệ con cháu ngày nay. Ngoài ra, tác giả Toan Ánh, trong cuốn “Phong tục
Việt Nam” đã phân tích nguồn gốc, sự biến đổi nhiều thói quen, tập quán. Một số ý kiến
phê phán của cụ Phan Kế Bính và tác giả Toan Ánh như phê phán thói cờ bạc, khóc
mướn, đa thê, hút thuốc, mê tín trong lễ hội, lãng phí trong đám cưới… đã được nghò quyết
Trung Ương V khoá 8 quán triệt, đổi mới nhằm xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc
dân tộc.
Trong tài liệu “Sửa đổi lề lối làm việc” Chủ tòch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh việc
xây dựng lối sống, nếp sống mới, cách làm việc mới.
Đại hội IV và V của Đảng đã đề ra đường lối xây dựng nếp sống mới. Trong văn
kiện đại hội IV có ghi khái niệm “nếp sống mới có văn hoá”, “vận động một cách kiên
trì và sâu rộng để tạo ra nếp sống mới có văn hoá trong xã hội, đưa cái đẹp vào đời sống
hàng ngày, vào lao động sản xuất” (Tr. 25)[4] Trong Đại hội V, văn kiện dùng khái niệm
lối sống: “Cuộc đấu tranh giữa hai con đường, giữa cái mới và cái cũ, tiên tiến và lạc hậu,
tiến bộ với phản động, trên lónh vực văn hoá tư tưởng và lối sống đang diễn ra hàng ngày


rất phức tạp.” (Tr. 10)[5] Trong nghò quyết V ban chấp hành Trung Ương khoá 8, Đảng ta
dành riêng để bàn về lónh vực văn hoá. Nội dung nghò quyết gồm 6 vấn đề quan trọng thì
vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống, nếp sống được đặt lên đầu tiên. Trong toàn văn nghò
quyết V có nhiều lần thuật ngữ lối sống, nếp sống được nhắc đến như “tư tưởng đạo đức
và lối sống là những lónh vực then chốt của văn hoá” hay như “lối sống lành mạnh, nếp
sống văn minh” Như vậy, vấn đề nếp sống đã được quan tâm rất sâu sắc không chỉ các
nhà khoa học mà các nhà quản lý xã hội cũng rất chú trọng tới việc quản lý giáo dục nếp
sống.

Trong thời gian gần đây hàng loạt những công trình nghiên cứu về lối sống, nếp
sống đã được thực hiện theo tinh thần đổi mới của ban chấp hành Trung Ương Đảng do
những thay đổi rõ nét về kinh tế, xã hội đang diễn ra sôi động đưa đến những biến đổi
trong lối sống, nếp sống, đònh hướng giá trò con người Việt Nam nói chung, giới sinh viên
học sinh nói riêng. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu lối sống, nếp sống ở đối
tượng sinh viên đã được công bố như sau:

- “Tổ chức tốt cuộc sống sinh viên ở KTX nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho
họ” (Kỷ yếu hội thảo đònh hướng giá trò giáo dục đạo đức trong các trường ĐH;
Hà Nội 1996) của Nguyễn Thò Kỷ

- “Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo
dục lối sống cho sinh viên” của PGS. PTS Mạc Văn Trang làm chủ nhiệm đề tài
(Năm 1998, mã số B94-38-32)

- “Các biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên trường Cao đẳng Sư
Phạm Mẫu giáo Trung Ương 3” của Đặng Văn Thuân (Luận văn thạc só khoa
học giáo dục, năm 1999)
Ngoài ra một số chuyên đề bài báo viết về lối sống, nếp sống sinh viên như:


- “Nếp sống xã hội của sinh viên” của PTS Vũ Dũng, viện tâm lý trung tâm khoa
học xã hội và nhân văn quốc gia (Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp,
01/1997)

-

“Sinh hoạt trong KTX sinh viên, sân chơi chưa lành mạnh” của Hồ Thu (Báo
Sài Gòn giải phóng, 24/11/2003)


Qua những công trình, tài liệu nghiên cứu trên chúng tôi nhận thấy các tác giả đã
tiếp cận với những góc độ khác nhau trên các đối tượng sinh viên thuộc các ngành, các
lónh vực khác nhau. Riêng mảng đề tài về sinh viên giao thông vận tải thì chưa có tác giả
nào đề cập. Từ những bức xúc về công tác quản lý giáo dục nếp sống trong kí túc xá
trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3, chúng tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp quản
lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3”. Hy
vọng và mong muốn của chúng tôi là đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất
lượng công tác quản lý giáo dục nếp sống sinh viên nội trú trong kí túc xá của trường mà
chúng tôi đang công tác.
1.2.

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ NGÀNH GIAO THÔNG VẬN
TẢI
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta nhận đònh: “Là một khâu quan trọng

nhất của kết cấu hạ tầng, Giao thông vận tải đáng lẽ phải đi trước một bước để đáp ứng
nhu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân, nhưng nhiều năm qua chúng ta chưa chú ý
đúng mức, nên việc vận chuyển hàng hoá có nhiều khó khăn, việc đi lại của nhân dân có
nhiều phiền hà trắc trở.”
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng ta nêu rõ: “Ưu tiên phát triển Giao thông vận
tải đường thuỷ, tăng tỉ trọng vận tải đường sắt, sắp xếp hợp lý vận tải đường bộ, phát
triển giao thông vận tải hàng không. Động viên các tổ chức kinh tế tập thể và nhân dân
góp sức, góp vốn mở mang đường giao thông nông thôn, miền núi, phát triển các phương
tiện vận tải, nhất là phương tiện thô sơ, nửa cơ giới, khắc phục sự ách tắc trong vận tải


hàng hoá, cải thiện một bước sự đi lại của nhân dân.” Những thành tựu bước đầu sau đại
hội VI và khảo sát thực tiễn các nước phát triển trên thế giới; Đảng ta khẳng đònh Giao
thông Vận tải phải đi trước một bước, phát triển với tốc độ cao với trình độ tiên tiến và
tiêu chuẩn hiện đại, vì điều đó sẽ tạo động lực cho nền kinh tế phát triển nhanh, rút ngắn

khoảng cách, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đại hội VIII của
Đảng chỉ rõ ngành Giao thông Vận tải phải “phát triển kết cấu hạ tầng, sớm khắc phục
tình trạng xuống cấp, mở rộng và hiện đại hoá có trọng điểm mạng lưới Giao thông Vận
tải.”
Giao thông Vận tải là một trong những ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân; để
thực hiện CNH nền kinh tế quốc dân, trước hết phải xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại
đáp ứng kòp nhu cầu phát triển. Nói cách khác CNH-HĐH, ngành Giao thông Vận tải đi
trước một bước sẽ tạo điều kiện thuận lợi đầu tư CNH-HĐH các ngành nghề khác. Tiền
đề của CNH-HĐH Giao thông vận tải trước hết phải đầu tư cho đào tạo nhân lực, muốn
có nhân lực cần đầu tư cho các cơ sở đào tạo này có đủ điều kiện để đảm đương sứ mạng
lòch sử trước thiên niên kỷ mới.
Từ thực trạng và yêu cầu phát triển kinh tế ngành Giao thông Vận tải như trên,
Nhà nước đã rất nổ lực trong việc đào tạo ra đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành
nghề, có phẩm chất tốt, năng động, sáng tạo, có nếp sống khoa học, văn minh, kỉ cương
và tinh thần kỉ luật cao. Trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 cũng như nhiều trường
Công nhân kỹ thuật, Trung học chuyên nghiệp và Đại học chuyên ngành Giao thông Vận
tải đã đáp ứng phần nào yêu cầu trên.
1.3.

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO
Trong suốt chiều dài lòch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng và nhà nước luôn

quan tâm đến sự nghiệp “trồng người”. Ngày nay, bước sang giai đoạn CNH-HĐH đấ t
nước, Đảng ta đã đề ra đònh hướng lớn về phát triển giáo dục và khoa học công nghệ:
“Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước” (Tr. 112)[6]. Trong đó


đặc biệt chú trọng việc phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020 Việt Nam phải
đạt được trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến trong khu vực ở phần lớn các ngành

trọng điểm.
Việc chuyển giao công nghệ ở nước ta hiện nay có thể nói là rút ngắn giai đoạn khi
so sánh với lòch sử phát triển lâu dài của các nước phương Tây. Việc chuyển giao công
nghệ đã đòi hỏi nhu cầu thực tế về đội ngũ nhân lực có kiến thức, kó năng để tiếp thu và
làm chủ được kỹ thuật phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước theo đònh hướng xã
hội chủ nghóa.
CNH-HĐH nền kinh tế là con đường duy nhất để có thể đuổi kòp nền kinh tế các
nước trong khu vực và tạo cơ sở cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Muốn sự nghiệp
CNH-HĐH thực hiện thắng lợi thì nguồn lực con người – nhân tố thực hiện CNH-HĐH –
đóng vai trò nòng cốt phải được ưu tiên phát triển: “Phát triển giáo dục và đào tạo là mộ t
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững” (Tr.108, 109)[6]
Nghò quyết Đại hội Đảng lần IX -2001 về phát triển giáo dục, đào tạo đã ghi: “Mở
rộng quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào
tạo… Từng bước xúc tiến việc nối mạng Internet ở trường học, tạo điều kiện học tập
nghiên cứu trên mạng” (Tr.110)[6] “Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến
thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng giải
quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành đào tạo” (Tr.25)[8]
Đảng và nhà nước ta đã luôn coi trọng giáo dục và đào tạo trong chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước. Giáo dục và đào tạo luôn cần phải được đầu tư đúng
mức để đảm nhận vai trò cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao về mọi mặt, gánh vác
trọng trách xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh.
1.4.

NHỮNG KHÁI NIỆM CÔNG CỤ

1.4.1. Khái niệm về quản lý



Để tồøn tại và phát triển, con người không thể hành động riêng lẻ mà cần phối hợp
những nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Quá trình tạo ra của cải vật chất
và tinh thần… ngày càng được thực hiện trên quy mô lớn với tính chất và độ phức tạp
ngày càng cao, càng đòi hỏi sự phân công và hợp tác để liên kết mọi người trong tổ chức.
Chính từ sự phân công, chuyên môn hóa lao động đã xuất hiện một dạng lao động đặc
biệt – lao động quản lý. Hoạt động quản lý cần thiết với mọi lónh vực hoạt động trong xã
hội, trong mỗi quốc gia và trên toàn cầu.
Có nhiều đònh nghóa về các khía cạnh khác nhau của quản lý, nhưng trong luận văn
chỉ nêu một số đònh nghóa tiêu biểu, đó là:
“Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý nhằm
sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu
đề ra trong điều kiện biến động của môi trường” [26]
“Quản lý là quá trình hoàn thành công việc thông qua con người và với con người” [18]
1.4.2. Khái niệm về quản lý giáo dục
Cho đến nay cũng đã có rất nhiều đònh nghóa về “quản lý giáo dục”, nhưng trên
bình diện chung, những đònh nghóa này đều thống nhất về mặt bản chất.
Theo F .G. Panatrin thì “Quản lý giáo dục là tác động một cách có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả
các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự phát triển toàn diện, hài hòa ở thế hệ
trẻ.”
Theo P.V. Khudominxki thì “quản lý giáo dục là việc xác đònh những đường lối cơ
bản, những nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan trong hệ thống giáo dục.”
Theo M. Zade thì “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp nhằm đảm bảo sự
vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát
triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng”


GS.TS Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của

nhà trường xã hội chủ nghóa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo
dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về
chất.”Tiến sỹ

Nguyễn Gia Quý khái quát “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức

của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã
đònh, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ thống
giáo dục quốc dân” (Bản chất của hoạt động quản lý- Hà nội, 1996)
1.4.3. Khái niệm về lối sống
Max Weber, nhà xã hội học đầu tiên của Đức, khi nghiên cứu về lối sống đã cho
rằng lối sống thể hiện vò trí của các nhóm xã hội. Khái niệm lối sống được mô tả như
kiểu sống của một nhóm xã hội, giai cấp, là một cộng đồng người cùng chung một vò trí
kinh tế.
Dean Cenell thì cho rằng lối sống không phải chỉ biểu hiện trong lónh vực nghề
nghiệp, lao động mà còn cả trong giải trí nữa. Con người trong xã hội hiện đại không
những có nhiều sản phẩm tiêu dùng hơn mà còn có nhiều thời gian rỗi hơn để giải trí.
Thuật ngữ lối sống có sự biện chứng giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần gắn
liền với phương thức sản xuất xã hội, với chế độ chính trò xã hội, với hình thái kinh tế xã
hội.
Ở Liên Xô cũ, một số công trình nghiên cứu lối sống đã đặt vấn đề nghiên cứu nội
hàm khái niệm lối sống với 3 cách tiếp cận tóm lược như sau:

- Cách tiếp cận thứ 1: xem xét lối sống như một phạm trù có liên quan bên trong
của chủ thể như nếp nghó, nếp hành động, thói quen mà ít quan tâm đến hoạt
động sống và các điều kiện sống. Mặt hạn chế của cách tiếp can này ở chỗ,


theo A. I. Buchenco, nó đã loại trừ một yếu tố quan trọng của lối sống là hoạt
động của chủ thể và lao động


- Cách tiếp cận thứ 2: đònh nghóa lối sống bằng cách liệt kê ra các hoàn cảnh
sống của con người, xã hội do đó lối sống được kiến giải như một phạm trù xã
hội học bao gồm các điều kiện sống, các hình thức hoạt động sống của con
người, các quan hệ xã hội, các sinh hoạt, các hình thức thoả mãn nhu cầu thế
giới quan. Cách đònh nghóa này quá mở rộng nội hàm lối sống, vì thế bò phê
phán nhiều

- Cách tiếp cận thứ 3: xem lối sống như là một sự thống nhất các hình thức hoạt
động sống và các điều kiện sống của con người, xã hội. Như vậy, lối sống là
một phạm trù của xã hội học, chỉ sự thống nhất hữu cơ của các hình thức hoạt
động sống và các điều kiện sống nhất đònh.
Từ 3 cách tiếp cận trên, M. N. Rukevich, tiến só triết học viện hàn lâm khoa học
Liên Xô cũ đã khái quát như sau:
“Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu, nói lên hoạt
động của các nhóm dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội , các cá nhân trong những điều
kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất đònh.”
Có nhiều cách phân loại lối sống:

- Từ bình diện sử dụng năng lực, T. Makiguchi nêu lên 3 lối sống của con người
như sau:
 Lối sống đóng góp: trong mối quan hệ với thời gian, con người có các thái độ
mang tính lạc quan hay bi quan khi hoạt động phản ứng với các kích thích của
hiện tại, hoạt động hướng về quá khứ và hoạt động hướng về tương lai.
 Lối sống trao đổi: lối sống văn hoá, lối sống chính trò, lối sống kinh tế.


 Lối sống phụ thuộc: sống bằng hưởng thụ hay chiếm đoạt.

- Từ bình diện xã hội học, lối sống được chia theo các tiêu chí sau:

 Theo lãnh thổ vùng miền: có lối sống thành thò, lối sống nông thôn…
 Theo phân tầng giai cấp: có lối sống tư sản, lối sống tiểu tư sản, lối sống công
nhân, lối sống sinh viên, lối sống trí thức, lối sống thương gia, lối sống nông
dân…
 Theo hình thái kinh tế xã hội: có lối sống phong kiến, lối sống tư bản chủ nghóa,
lối sống xã hội chủ nghóa.
Tác giả Đỗ Trung Lai cho rằng: “Lối sống suy cho cùng là cách dùng đạo đức mà
hành đạo ở đời. Lối sống thể hiện bên ngoài của đạo và đức. Nó đã là và luôn là văn
hoá” [21]
Tác giả Phạm Ngọc Đònh cho rằng lối sống còn là một phạm trù của duy vật lòch sử.
Tác giả dựa vào luận điểm của Marx và Ăngen khi cho rằng “Phương thức sản xuất phải
xét không đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của cá nhân
và hơn thế nữa nó là một hình thức hoạt động nhất đònh của những cá nhân ấy, một hình
thức nhất đònh của sự biểu hiện đời sống của họ: những cá nhân biểu hiện đời sống của
họ như thế nào thì họ là người như thế ấy. Nó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ
đã sản xuất ra cũng như cách họ sản xuất ra.”
Phạm Ngọc Đònh đã đưa ra đònh nghóa lối sống dưới dạng luận đề “Lối sống là tổ
hợp các phương thức hoạt động sống điển hình của con người đối với xã hội nhất đònh mà
nó được xét thống nhất với các điều kiện hoạt động. Lối sống bao gồm nhiều hệ thống
hành vi ứng xử của con người trong cuộc sống” [14]
Tác giả Thanh Lê cho rằng “Lối sống là quan niệm sống của con người, tức là nói
đến nhân sinh quan. Nói đến lối sống là nói đến tất cả các lónh vực hoạt động của con
người trong những lónh vực cơ bản của đời sống xã hội và cá nhân – hoạt động lao động;


hoạt động sinh hoạt, gia đình; hoạt động xã hội, chế độ; hoạt động văn hoá tinh thần.
Trong đó, hoạt động lao động là cơ bản nhất.” [22]
Các đònh nghóa, các cách phân loại lối sống trình bày ở trên giúp cho nhà quản lý,
nhà nghiên cứu có cơ sở đi sâu phân tích đặc điểm của từng khách thể, từng nhóm xã hội
để từ đó xác đònh phương hướng cụ thể xây dựng lối sống phù hợp.

1.4.4. Khái niệm về nếp sống
Thuật ngữ nếp sống được dùng rất phổ biến. Theo thói quen trong ngôn ngữ tiếng
Việt, trên sách báo hiện nay người ta sử dụng hầu như cả hai thuật ngữ lối sống và nếp
sống với một nội hàm giống nhau. Thật ra, hai thuật ngữ này không hoàn toàn như một
nhưng cũng không nói lên hai phạm trù khác nhau. Đó là do sự tạo từ trong tiếng Việt khi
cả hai từ được chuyển dòch từ một từ nước ngoài:

- Tiếng Anh: way of life
- Tiếng Pháp: mode de vie
- Tiếng Đức: obrazjiznhi
Các từ điển không có giải thích rõ ràng hai thuật ngữ lối sống và nếp sống. Trước
đây, sách báo hay dùng các từ như tập quán, phong tục, gia phong… , sau Cách mạng
Tháng Tám, xuất hiện cùng một lúc nhiều từ mới như phương thức, lối sống, nếp sống, lẽ
sống…
Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ (Hà Nội, 1992) do Hoàng Phê
chủ biên, tập thể các tác giả đã giải thích như sau:

- Lối: có 2 nghóa:
+ Khoảng đất hẹp, dùng để ra vào một nơi nào đó, để đi lại từ nơi này đến nơi
khác.


+ Sự thể hiện của hoạt động đã ổn đònh thành thói quen, đặc điểm riêng như lối
sống giản dò, lối sống xa hoa.

- Nếp có 2 nghóa:
+ Vết hằn trên bề mặt nơi bò gấp lại của da, vải, lụa… như các từ vết nhăn trên trán,
quần áo còn nguyên nếp.
+ Chỉ nếp sống, cách sống, hoạt động đã trở thành thói quen như các từ nếp sống
văn minh, thay đổi nếp nghó.

Nguyễn Khắc Viện – trong Từ điển Xã Hội học, Hà Nội 1994 đã đưa ra đònh nghóa
sau: “Thói quen in sâu vào cách làm và suy nghó gọi là nếp” (Tr. 21)[28]
Tác giả Thanh Lê cho rằng: “Nếp sống là một phương thức xử sự được quy đònh
với các giá trò đạo đức. Nói ngắn gọn, nếp sống là những quy ước được lặp đi lặp lại trở
thành một thói quen trong sinh hoạt, phong tục, tập quán, hành vi đạo đức.” (Báo Sài
Gòn Giải phóng 10-5-1998)
* Phân biệt lối sống với nếp sống: có 3 ý kiến khác nhau
- Ý kiến thứ 1 cho rằng nếp sống đồng nghóa với lối sống.
- Ý kiến thứ 2 cho rằng nếp sống có nghóa hẹp hơn lối sống.
- Ý kiến thứ 3 cho rằng nếp sống và lối sống có những mặt khác nhau.
A. P. Buchenco cho rằng: “nếp sống không phải là một phần mà là một trong
những hình thức biểu hiện của sự sống.”
L. V. Cokan cho rằng: “nếp sống của con người được xem như là sự phản ánh của
cá nhân vào xã hội, còn lối sống của con người được xem như là sự phản ánh của xã hội
vào cá nhân.”
Tác giả Thanh Lê cho rằng: “nói đến nếp sống là nói đến một mặt nào đó trong lối
sống và ai nấy đều biết nếp sống có thể thay đổi, trong khi lối sống vẫn còn tồn tại. Ở


đây muốn nói đến cách xử sự của con người, những giá trò được rút ra từ trong đời sống
hiện thực. Những giá trò ấy là sự điều tiết các xu hướng, quan niệm và hành vi của con
người làm cơ sở cho việc đánh giá có ích cho xã hội, quyết đònh các nguyên tắc của trật
tự xã hội và hoạch đònh các cơ sở của nếp sống cộng đồng.”
Nhìn chung, lối sống gồm nhiều hệ thống hành vi ứng xử của con người. Lối sống
của xã hội phải được thông qua nếp sống. Nếp sống là những hành vi ứng xử của con
người đã được lặp đi lặp lại nhiều lần thành nếp, thành thói quen, thành phong tục được
xã hội công nhận.
Những hành vi trong lối sống chưa được lập đi lập lại, chưa có tính ổn đònh và chưa
trở thành bản tính tự nhiên của con người trong các hoạt động, trong các ứng xử với nhau
và với tự nhiên thì không nằm trong phạm vi nếp sống. Nếp sống là mặt ổn đònh của lối

sống, là mặt bản năng của lối sống nên khi nói đến nếp sống nghóa là nói đến một lối
sống ổn đònh.
Thật là khó khăn khi tách rời nếp sống ra khỏi lối sống. Lối sống có tính đònh tính,
đònh hướng còn nếp sống có tính đònh hình, đònh lượng cuộc sống của con người.
Nếp sống với tư cách là biểu hiện của của lối sống lại thể hiện ở tính cụ thể, ở
những chuẩn mực, khuôn mẫu ứng xử của xã hội mà mỗi cá nhân đã tự ý thức, tự biến
đổi bản tính của mình thành những hành động ổn đònh thường xuyên mang tính chung của
xã hội. So với lối sống, nếp sống có tính ổn đònh, bền vững hơn nhưng không có nghóa là
không biến đổi. Cùng với sự biến đổi của lối sống, nếp sống cũng biến đổi nhưng chậm
chạp và khó khăn hơn.
Xung quanh khái niệm lối sống, nếp sống chúng ta còn gặp một số khái niệm liên
quan như nếp sống văn minh, nếp sống văn hoá, mức sống, lẽ sống, phong cách sống,
nếp sống mới, phong tục, tập quán… Nội hàm các khái niệm trên đều nằm trong phạm vi
nếp sống.


* Nếp sống văn minh có sự phân biệt với nếp sống văn hoá. Nếp sống văn minh là
nếp sống được thừa hưởng các thành tựu của nền khoa học kó thuật cơ khí, điện tử, mang
sắc thái nếp sống công nghiệp. Nếp sống văn hoá là nếp sống thể hiện trình độ văn hoá
cao, ở đó con người sống bằng văn minh hiện đại và bản sắc văn hoá truyền thống dân
tộc hoà quyện với nhau.
* Cách sống, kiểu sống có nghóa hẹp cụ thể. Đó là lối sống theo cá tính, thò hiếu
của cá nhân trong một điều kiện môi trường sống nhất đònh. Ví dụ cách sống của một gia
đình, một độ tuổi, một tầng lớp, một nhóm hội như cách sống của giới văn nghệ só, người
độc thân... Tất nhiên cách sống, kiểu sống dù mang tính độc đáo, đa dạng vẫn phải tuân
thủ lối sống nhất đònh trong một cộng đồng, xã hội.
* Mức sống là mức thu nhập cá nhân và mức hưởng thụ phúc lợi xã hội của cá
nhân, là thước đo trình độ sản xuất phát triển ở mức nào đó. Trong sự hưởng thụ có sự
hưởng thụ vật chất và tinh thần. Mức sống cao, con người có điều kiện sống văn minh có
văn hoá. Mức sống thấp, con người không có cơ may thoả mãn nhu cầu cả về vật chất lẫn

tinh thần và sẽ nảy sinh 2 xu hướng:
+ Con người cam chòu sống khổ cực, tăm tối.
+ Con người bò xô đẩy vào các hành vi tội lỗi như làm ăn phi pháp, cờ bạc, mại
dâm…
* Lẽ sống là một trong những phạm trù cơ bản của đạo đức học. Lẽ sống là phần
nhận thức của lối sống, nếp sống. Lẽ sống là sự thống nhất biện chứng giữa nghóa vụ và
hạnh phúc. Lẽ sống cao nhất thể hiện ở lối sống, nếp sống mình vì mọi người, mọi người
vì mình. Chúng ta có thể tìm thấy lẽ sống cao quý ở các anh hùng, các bậc vó nhân, các
nhà khoa học và ngay cả ở những con người bình thường biết hy sinh vì cộng đồng hoặc
giữ gìn phẩm chất trong sáng trong mọi hoàn cảnh thực sự khó khăn.


Khái quát toàn bộ các vấn đề lý luận đã trình bày ở trên có thể nêu lên một đònh
nghóa tổng quát về nếp sống như sau:
Nếp sống là những cách thức hành động và suy nghó, những quy ước được lặp đi
lặp lại hàng ngày và trở thành thói quen tập quán trong sản xuất, sinh hoạt, phong tục, lễ
nghi, trong hành vi đạo đức pháp luật.
Qua đònh nghóa trên, chúng ta thấy thực chất nếp sống chính là cách thức ứng xử,
làm việc, thực hiện các quy ước của cộng đồng đã trở thành thói quen.
Nếp sống được thể hiện trong tất cả mọi hoạt động của con người từ học tập, sinh
hoạt, giải trí, vui chơi đến lao động, giao tiếp ứng xử.
Có thể chia nếp sống theo nhiều cách nhưng thường người ta dựa vào bình diện xã
hội học. Trong cách phân loại này, người ta dựa vào các tiêu chí sau:

- Theo đặc điểm nghề nghiệp có nếp sống nhà khoa học, nếp sống nông dân, nếp
sống nghệ só…

- Theo đặc điểm vùng miền có nếp sống đô thò, nếp sống nông thôn…
- Theo đặc điểm độ tuổi có nếp sống trẻ thơ, nếp sống thanh niên, nếp sống
người cao tuổi…


- Theo tiêu chí phân tầng xã hội có nếp sống tư sản, tiểu tư sản, công nhân, nông
dân, trí thức…

- Theo hình thái kinh tế xã hội có nếp sống phong kiến, tư bản chủ nghóa, xã hội
chủ nghóa.
Nếp sống có một số đặc điểm, tính chất như sau:

- Nếp sống là những phẩm chất, thuộc tính có tính ổn đònh cao.
- Nếp sống là mặt biểu hiện của đạo đức lối sống nên có tính xã hội rất cao.


- Nếp nếp là những hành vi đã trở thành thói quen nên có tính tự động hoá cao.
- Nếp sống không tách rời khỏi các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể nhất đònh trong
cuộc sống hàng ngày của con người.
Nếp sống được biểu hiện ở các mặt sau:

- Nếp sống biểu hiện ở hoạt động lao động, học tập.
- Nếp sống biểu hiện ở hoạt động quan hệ, ứng xử.
- Nếp sống biểu hiện ở hoạt động cá nhân.
- Nếp sống biểu hiện ở hoạt động đoàn thể xã hội.
Đối với học sinh, sinh viên; nếp sống biểu hiện trong các hoạt động học tập, sinh
hoạt, lao động, trong giao tiếp ứng xử, vì đây là những hoạt động dễ quan sát trong nhà
trường, trong KTX và cũng là những hoạt động cơ bản hàng ngày của sinh viên.
Nhìn chung, nếp sống là phương thức xử sự trong một tình thế nhất đònh trong cuộc
sống, nó còn là một phương thức xử sự được quy đònh bởi các giá trò đạo đức. Vì vậy nếp
sống là những quy ước có tính chu kỳ tạo thành thói quen cho mỗi người và toàn xã hội.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn phải chứng kiến cuộc xung đột gay gắt giữa
lối sống mới và đủ loại nếp sống trong các mối quan hệ xã hội, buộc mỗi cá nhân phải
tính toán lựa chọn cho mình một cách sống lành mạnh, có văn hoá.

1.5.

SỰ HÌNH THÀNH NẾP SỐNG CHO SINH VIÊN NGÀNH GIAO THÔNG
VẬN TẢI

1.5.1. Vài nét về tâm lý lứa tuổi sinh viên
Đại bộ phận sinh viên ở vào khoảng từ 18 đến 24 tuổi, giai đoạn 2 của tuổi thanh
niên (18-25 tuổi) có những đặc điểm về tâm lý khác biệt so với lứa tuổi phổ thông trung
học.


Tự ý thức là một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi sinh viên.
Ở tuổi này họ đã tự đánh giá được mình một cách toàn diện về tư tưởng, tình cảm, phong
cách, đạo đức, hứng thú, động cơ và kết quả hoạt động của mình. Nghóa là họ có khả
năng đáng giá một cách toàn diện về nhân cách của mình và vò trí của mình trong cuộc
sống, những đòi hỏi của xã hội đối với mình…. Đây là cơ sở để họ có thể tự vạch ra
phương hướng cho sự phát triển nhân cách của mình, tích cực điều khiển, điều chỉnh hành
vi của mình trong học tập, rèn luyện để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Như vậy khả năng
tự giáo dục của sinh viên đã tương đối phát triển cả về mặt phương hướng, biện pháp rèn
luyện cũng như khả năng tự điều khiển, điều chỉnh hành vi của mình.
Thời kỳ này cũng là thời kỳ sinh viên hình thành mạnh mẽ các mặt khác về nhân
cách như: thế giới quan, niềm tin, nắm vững các chuẩn giá trò và các yêu cầu của nghề
nghiệp…
Sự xuất hiện tình yêu nam nữ cũng là một nét đặc trưng của lứa tuổi này. Tình yêu
ở lứa tuổi sinh viên đa số là những mối tình rất đẹp. Nhưng hiện nay do tác động của mặt
trái của nền kinh tế thò trường nên trong sinh viên đã xuất hiện những kiểu tình yêu
phóng túng, hay những kiểu tình yêu thực dụng.
Sinh viên là nhân vật trung tâm trong các nhà trường. Nhìn chung, về mặt tư tưởng
của sinh viên trong ngững năm gần đây có nhiều chuyển biến tiến bộ. Niềm tin đối với
Đảng và sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo ngày càng được củng cố

vững chắc. Sinh viên quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề thời cuộc, những thành quả
của công việc đổi mới và cả những mặt tiêu cực trong xã hội
Trong điều kiện mở cửa tiếp xúc với nhiều luồng văn hoá nghệ thuật bên ngoài,
nhưng đa số sinh viên vẫn giữ được phong cách truyền thống dân tộc và nếp sống lành
mạnh, không để kẻ xấu lợi dụng, kích động gây mất ổn đònh chính trò xã hội. Họ năng
động sáng tạo trong học tập, trong cuộc sống và có nguyện vọng muốn góp phần đưa đất


nước vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, phát triển đi lên. Có thể thấy rõ thanh niên sinh viên
hiện nay có hai xu hướng:

- Số ít thanh niên sinh viên còn xa rời lý tưởng và niềm tin cách mạng, có tư
tưởng chạy theo lối sống thực dụng, hưởng thụ cá nhân.

- Phần lớn thanh niên sinh viên đã tỏ rõ xu hướng, tiếp cận trở lại với vấn đề lý
tưởng, với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Họ quan
tâm hơn đến các vấn đề quốc gia, dân tộc, truyền thống, hướng về cội nguồn
với nhiều hoạt động tự giác bổ ích
Hiện nay đang có sự chuyển đổi giá trò, niềm tin, lý tưởng, hoài bão của đa số
thanh niên sinh viên. Họ sống học tập trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi về chính
trò xã hội cực kỳ phức tạp, chủ nghóa xã hội đang ở trong giai đoạn thử thách. Ở trong
nước công, cuộc đổi mới theo đònh hướng xã hội chủ nghóa với chính sách mở cửa và hội
nhập quốc tế đã làm thay đổi lớn bộ mặt kinh tế xã hội nước ta. Chính những điều đó là
nguyên nhân cơ bản tác động rất lớn tới mỗi con người, tới mọi lónh vực đời sống xã hội
và làm biến đổi những chuẩn mực giá trò xã hội trong đó có sinh viên.
Sự chuyển đổi đònh hướng giá trò xã hội đang là một thực tế và là những mâu thuẫn
vướng mắc trong sinh viên hiện nay. Nhưng đây không phải là mâu thuẫn đối kháng.
Mâu thuẫn có thể giải quyết tốt khi xã hội phát triển ngày một hình thành rõ những
chuẩn mực giá trò chung được mọi người chấp nhận và thực hiện tự giác.
Đạo đức của sinh viên ở các trường ĐH, CĐ nói chung là tốt. Họ được giáo dục từ

nhỏ dưới mái trường xã hội chủ nghóa, được tiếp thu truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc.
Nhưng trong sự biến động chính trò sâu sắc của thế giới và nền kinh tế thò trường
tác động, một số nơi trong nhân dân đã và đang xuất hiện nhiều biểu hiện không lành
mạnh, ảnh hưởng nghiêm trọng về đạo đức lối sống, nếp sống. Tại hội nghò lần thứ IV


×