Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường cao đẳng nghề việt sô số 1 bộ xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.81 KB, 102 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






TẠ DUY CHUNG





QUẢN LÝ GIÁO DỤC NẾP SỐNG CHO SINH VIÊN
NỘI TRÚ TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
VIỆT XÔ SỐ 1, BỘ XÂY DỰNG







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC













Thái Nguyên - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

PHẦN I. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Phát triển dạy nghề là một chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm đào
tạo nguồn nhân lực kỹ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp CNH -
HĐH, tăng khả năng cạnh tranh sức lao động trong khu vực. Nghị quyết Đại
hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển nhanh và phân bố hợp lý hệ
thống trường dạy nghề trên địa bàn cả nước, mở rộng các hình thức đào tạo
nghề đa dạng, linh hoạt, năng động". Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Khóa IX tại Đại hội lần thứ X của Đảng đã chủ trương:
“Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo
cao đẳng nghề (CĐN), trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh
tế động lực và cho việc xuất khẩu lao động. Mở rộng mạng lưới cơ sở dạy
nghề, phát triển trung tâm dạy nghề quận, huyện. Tạo bước chuyển biến căn
bản về chất lượng dạy nghề, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế
giới. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích phát triển các hình thức dạy nghề đa
dạng, linh hoạt, dạy nghề ngoài công lập, tại doanh nghiệp, tại làng nghề ; tạo

điều kiện thuận lợi cho người lao động học nghề, lập nghiệp. Tổ chức dạy
nghề, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ sản xuất phù hợp cho nông dân, đồng
bào dân tộc thiểu số” [40,tr.96].
Ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều coi con người là mục tiêu
và động lực của sự phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nguồn nhân lực
chất lượng cao ngày càng khan hiếm. Vì lẽ đó, các quốc gia đều quan tâm đến
đào tạo nguồn nhân lực, thông qua chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo.
Giáo dục Việt Nam bước vào thế kỷ XXI đã có bước phát triển nhiều mặt: Đổi
mới quản lý, mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức đào tạo, nâng cao
chất lượng giáo dục. Luật dạy nghề năm 2006 đã cụ thể hóa: “Mục tiêu dạy
nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực
thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện
cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc, tự tạo việc làm
hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước” [44,tr. 22].
Sự chuyển đổi cơ chế quản lý, trong những năm qua đã tạo cho các
trường Cao đẳng, Đại học những cơ hội phát triển; đồng thời trong sự phát triển
cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức trong công tác quản lý. Cơ chế
thị trường đã tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, bên cạnh mặt
tích cực thì mặt trái cũng ảnh hưởng xấu đến các hoạt động của đời sống xã
hội, trong đó có môi trường sống của sinh viên (SV).
Trường Cao đẳng nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng được thành lập theo
Quyết định số 1992/QĐ-BLĐTBXH ngày 20/12/2006 trên cơ sở nâng cấp từ
trường Kỹ thuật Cơ giới cơ khí xây dựng Việt Xô số 1. Là cơ sở đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ cao đẳng và các bậc đào tạo khác theo cơ cấu của hệ thống
giáo dục quốc dân. Hiện nay trường có 183 cán bộ giáo viên, được bố trí sắp

xếp làm việc tại 12 Phòng, Khoa, Trung tâm. Cơ sở vật chất được đầu tư từ
nguồn kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia và nguồn từ các dự án của Liên
Xô (cũ) và Cộng hòa Pháp.
Nhiệm vụ của trường là đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao phục vụ
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thông qua đào tạo nghề
nhằm trang bị cho SV về văn hóa nghề nghiệp, giúp SV cơ hội học tập, khả
năng tìm kiếm việc làm. Năm học 2007 - 2008, Trường bắt đầu tuyển sinh đào
tạo nghề ở 3 cấp trình độ: cao đẳng nghề, trung cấp nghề và sơ cấp nghề theo
quy định của Luật Dạy nghề đã được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006. Từ khi được nâng cấp
thành Trường Cao đẳng nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng; quy mô đào tạo mở
rộng, chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo hàng năm tăng từ 1.700 đến 2.000 HSSV. Việc
tạo điều kiện cho HSSV thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quá trình đào tạo:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Từ hoạt động học tập, hoạt động thực hành, thực tập chuyên nghề đến các hoạt
động rèn luyện nhân cách, đạo đức, tác phong nghề nghiệp… là việc làm quan
trọng hướng SV vào thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Những năm qua, công tác quản lý giáo dục (QLGD) nếp sống cho SV
của nhà trường đã đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình
quản lý, tổ chức và thực hiện còn bộc lộ một số hạn chế bất cập như: Đội ngũ
cán bộ quản lý HSSV thiếu chuyên trách thường chuyển từ công tác khác sang
làm công tác QLGD , sự phối hợp giữa các đơn vị Phòng, Khoa chức năng,
trong trường còn yếu, chưa chủ động phối hợp. Các hoạt động của tổ chức
Đoàn thể còn đơn điệu chưa thu hút được đông đảo HSSV tham gia , vai trò
của giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn trong công tác QLGD chưa thực sự
quan tâm và sát sao trong việc rèn luyện và nhắc nhở HSSV. Trước những yêu
cầu của thực trạng đòi hỏi công tác QLGD nếp sống cho SV nội trú cần được
đổi mới. Đổi mới công tác QLGD nếp sống cho SV nội trú nhằm giáo dục SV

tự giác tích cực trong học tập; tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo
đức; tác phong nghề nghiệp để phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Đây
là những vấn đề cần thiết mà nhà trường đang tìm kiếm biện pháp, giải pháp
thực hiện. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Quản lý giáo dục nếp sống cho sinh
viên nội trú Trường Cao đẳng nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp QLGD nếp sống cho SV nội trú Trường Cao
đẳng nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng, nhằm góp phần nâng cao chất lượng
quản lý và đào tạo.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Vấn đề QLGD nếp sống cho SV nội trú Trường Cao đẳng nghề Việt Xô
số 1, Bộ Xây dựng.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng công tác QLGD nếp sống cho SV nội trú Trường Cao đẳng
nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng; từ đó đề xuất một số biện pháp QLGD nếp
sống cho SV nội trú Trường Cao đẳng nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng.
4. Giả thuyết khoa học
QLGD nếp sống cho SV nội trú Trường Cao đẳng nghề Việt Xô số 1, Bộ
Xây dựng còn nhiều hạn chế, bất cập; nếu phân tích, đánh giá đúng thực trạng
quản lý; đề xuất được một số biện pháp QLGD nếp sống cho SV nội trú trường
Cao đẳng nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng phù hợp thì sẽ góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo.
5. Nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.

- Khảo sát đánh giá đúng thực trạng qụản lý giáo dục nếp sống cho SV
nội trú, thông qua hoạt động học tập, lao động , sinh hoạt và giao tiếp.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả
QLGD nếp sống cho SV nội trú.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu công tác QLGD nếp sống cho SV nội trú Trường Cao đẳng
nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: Để nghiên cứu tác giả đã
thu thập, tổng hợp phân tích các tài liệu liên quan.
- Phương pháp khái quát hóa nhận định khách quan: Dựa trên những
nhận định, đánh giá, góp ý kiến của các chuyên gia, các nhà giáo.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra: Điều tra bằng phiếu câu hỏi với 180 SV nội trú,
20 cán bộ, giáo viên bao gồm các cán bộ quản lý ký túc xá (KTX), cán bộ
Phòng công tác học sinh sinh viên (HSSV),các cán bộ làm công tác Đoàn thanh
niên, Hội SV và giáo viên chủ nhiệm.
- Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát các sinh hoạt, hoạt động của
HSSV ở KTX cũng như hoạt động quản lý giáo dục (QLGD) của các cán bộ
quản lý nhằm thu thập các tư liệu bổ xung.
- Phương pháp phỏng vấn: Tiến hành trao đổi trực tiếp với các SV ở
KTX, các cán bộ quản lý KTX và các bộ phận Phòng Khoa, các tổ chức liên
quan.
6.3. Phương pháp thống kê toán học

- Xử lý số liệu, kết quả nghiên cứu;
- Nhận định đánh giá chính xác, khách quan kết quả nghiên cứu.
7. Đóng góp của đề tài:
- Góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận và thực tiễn QLGD nếp
sống cho SV nội trú.
- Đề xuất một số biện pháp QLGD nếp sống cho SV nội trú trường Cao
đẳng nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo.
Luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
- Chương 2: Thực trạng công tác quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên
nội trú Trường cao đẳng nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng.
- Chương 3: Một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên
nội trú Trường cao đẳng nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

PHẦN II. NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Vấn đề nghiên cứu lối sống, nếp sống đã được đề cập đến từ lâu qua
nhiều công trình nghiên cứu công phu như công trình “Việt Nam Phong tục”
của tác giả Phan Kế Bính (1875 - 1921). Ông đã nghiên cứu công phu về các
phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam qua bề dầy lịch sử 4000 năm. Tất cả
những thói quen, nếp sống của con người Việt Nam từ xưa đến đầu thế kỉ XX
được tác giả phản ánh một cách khách quan, từ đó ca ngợi những phẩm chất,

cái đẹp của con người Việt Nam đồng thời cũng mạnh dạn đánh giá, phê phán
các yếu tố lạc hậu, trì trệ trong lối sống, nếp sống đi ngược lại thuần phong mỹ
tục và bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong tài liệu “Sửa đổi lề lối làm việc” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh việc xây dựng lối sống, nếp sống mới, cách làm việc mới.
Đại hội IV và V của Đảng đã đề ra đường lối xây dựng nếp sống mới.
Trong văn kiện đại hội IV có ghi khái niệm “nếp sống mới có văn hoá”, “vận
động một cách kiên trì và sâu rộng để tạo ra nếp sống mới có văn hoá trong xã
hội, đưa cái đẹp vào đời sống hàng ngày, vào lao động sản xuất”. Trong Đại hội
V, văn kiện dùng khái niệm lối sống: “Cuộc đấu tranh giữa hai con đường, giữa
cái mới và cái cũ, tiên tiến và lạc hậu, tiến bộ với phản động, trên lĩnh vực văn
hoá tư tưởng và lối sống đang diễn ra hàng ngày rất phức tạp”[ 36,Tr10]. Trong
Nghị quyết V Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, bàn về lĩnh vực văn hoá.
Nội dung nghị quyết gồm 6 vấn đề quan trọng thì vấn đề giáo dục đạo đức, lối
sống, nếp sống được đặt lên đầu tiên. Trong toàn văn Nghị quyết V thuật ngữ
lối sống, nếp sống được nhắc đến như “tư tưởng đạo đức và lối sống là những
lĩnh vực then chốt của văn hoá” hay như “lối sống lành mạnh, nếp sống văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

minh” Như vậy, vấn đề nếp sống đã được quan tâm rất sâu sắc không chỉ các
nhà khoa học mà các nhà quản lý xã hội cũng rất chú trọng tới việc QLGD nếp
sống.
Trong thời gian gần đây hàng loạt những công trình nghiên cứu về lối
sống, nếp sống đã được thực hiện theo tinh thần đổi mới của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng do những thay đổi về kinh tế, xã hội đang phát triển đưa đến
những biến đổi trong lối sống, nếp sống, định hướng giá trị con người Việt
Nam nói chung, giới HSSV nói riêng. Có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu lối sống, nếp sống ở đối tượng SV đã được công bố như sau:
- “Tổ chức tốt cuộc sống sinh viên ở ký túc xá nhằm giáo dục đạo đức,

lối sống cho họ” (Kỷ yếu hội thảo định hướng giá trị giáo dục đạo đức trong
các trường đại học; Hà Nội 1996) của Nguyễn Thị Kỷ.
- “Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện
pháp giáo dục lối sống cho sinh viên” của PGS. PTS Mạc Văn Trang làm chủ
nhiệm đề tài (Năm 1998, mã số B94-38-32).
- “Các biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên trường Cao
đẳng Sư Phạm Mâu giáo Trung ương 3” của Đặng Văn Thuân (Luận văn thạc
sĩ khoa học giáo dục, năm 1999).
Ngoài ra một số chuyên đề bài báo viết về lối sống, nếp sống SV như:
- “Nếp sống xã hội của sinh viên” của PTS Vũ Dũng, viện tâm lý trung
tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (Tạp chí Đại học và Giáo dục
chuyên nghiệp, 01/1997).
- “Sinh hoạt trong ký túc xá sinh viên, sân chơi chưa lành mạnh” của Hồ
Thu (Báo Sài Gòn giải phóng, 24/11/2003).
Qua những công trình, tài liệu nghiên cứu trên chúng tôi nhận thấy các
tác giả đã tiếp cận với những góc độ khác nhau trên các đối tượng SV thuộc các
ngành, các lĩnh vực khác nhau. Riêng mảng đề tài về SV trường Cao đẳng nghề
thì chưa có tác giả nào đề cập. Từ những bức xúc về công tác QLGD nếp sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

trong kí túc xá trường Cao đẳng Nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng, chúng tôi đã
chọn đề tài “Quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng
Nghề Việt Xô số 1, Bộ Xây dựng”. Hy vọng và mong muốn của chúng tôi là
đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng công tác QLGD nếp sống
SV nội trú của trường mà chúng tôi đang công tác.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI QUẢN LÝ
GIÁO DỤC NẾP SỐNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
1.2.1. Quản lý
Để tồn tại và phát triển, con người không thể hành động riêng lẻ mà cần

phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Quá trình tạo
ra của cải vật chất và tinh thần ngày càng được thực hiện trên quy mô lớn với
tính chất và độ phức tạp ngày càng cao, càng đòi hỏi sự phân công và hợp tác
để liên kết mọi người trong tổ chức. Chính từ sự phân công, chuyên môn hóa
lao động đã xuất hiện một dạng lao động đặc biệt - lao động quản lý. Hoạt động
quản lý cần thiết với mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội, trong mỗi quốc gia
và trên toàn cầu.
Có nhiều định nghĩa về các khía cạnh khác nhau của quản lý, nhưng
trong luận văn chỉ nêu một số định nghĩa tiêu biểu, đó là:
“Quản lý là quá trình hoàn thành công việc thông qua con người và với
con người.”[ 13]
“Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống
để đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.”[ 23]
1.2.2. Quản lý giáo dục
Cho đến nay cũng đã có rất nhiều định nghĩa về “quản lý giáo dục”,
nhưng trên bình diện chung, những định nghĩa này đều thống nhất về mặt bản
chất.
Theo F .G. Panatrin thì “Quản lý giáo dục là tác động một cách có hệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp
khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự phát
triển toàn diện, hài hòa ở thế hệ trẻ”.
Theo P.V. Khudominxki thì “Quản lý giáo dục là việc xác định những
đường lối cơ bản, những nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục”.
Theo M. Zade thì “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp nhằm
đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo

đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như về
mặt chất lượng”.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.
Tác giả Nguyễn Gia Quý khái quát “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý
thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục
tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những quy luật
khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân”.
1.2.3. Quản lý trƣờng dạy nghề
Trường dạy nghề là cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân,
thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Quản lý trường dạy nghề là quản lý hoạt động dạy và học nhằm đạt được
mục tiêu đào tạo đã đề ra đó là quá trình tập hợp các tác động tối ưu của quá
trình tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp của các chủ thể quản lý
tập thể giáo viên, HSSV và cán bộ khác nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của
nhà trường, trong đó hoạt động cơ bản nhất là quản lý hoạt động dạy và học.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

- Nhiệm vụ của trường cao đẳng nghề:
+ Tổ chức đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ ở
các trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề và sơ cấp nghề nhằm trang bị cho
người học năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có sức
khoẻ, đạo đức lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp,
tạo điều kiện cho họ có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học
lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu thị trường lao động.

+ Tổ chức xây dựng, duyệt và thực hiện các chương trình, giáo trình, học
liệu dạy nghề đối với ngành nghề được phép đào tạo.
+ Xây dựng kế hoạch tuyển sinh, tổ chức tuyển sinh học nghề.
+ Tổ chức các hoạt động dạy và học; thi, kiểm tra, công nhận tốt nghiệp,
cấp bằng, chứng chỉ nghề theo quy định của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội.
+ Tuyển dụng, quản lý đội ngũ giáo viên, cán bộ, nhân viên của trường
đủ về số lượng; phù hợp với ngành nghề, quy mô và trình độ đào tạo theo quy
định của pháp luật.
+ Tổ chức nghiên cứu khoa học; ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, chuyển giao
công nghệ; thực hiện sản xuất, kinh doanh và dịch vụ khoa học, kỹ thuật theo
quy định của pháp luật.
+ Phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, gia đình người học
nghề trong hoạt động dạy nghề.
+ Tổ chức cho giáo viên, cán bộ, nhân viên và người học nghề tham gia
các hoạt động xã hội.
+ Thực hiện dân chủ, công khai trong việc thực hiện các nhiệm vụ dạy
nghề, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ vào dạy nghề và hoạt động tài
chính.
+ Quản lý, sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, thiết bị và tài chính của
trường theo quy định của pháp luật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

+ Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy định.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
- Quyền hạn của trường cao đẳng nghề:
+ Được chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển nhà
trường phù hợp với chiến lược phát triển dạy nghề và quy hoạch phát triển
mạng lưới các trường CĐN.

+ Được huy động, nhận tài trợ, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy
định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động dạy nghề.
+ Quyết định thành lập các đơn vị trực thuộc trường theo cơ cấu tổ chức
đã được phê duyệt trong quy chế tổ chức và hoạt động của trường; quyết định
bổ nhiệm các chức vụ từ cấp trưởng phòng, khoa và tương đương trở xuống.
+ Sử dụng nguồn thu từ hoạt động kinh tế để đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất của trường, chi cho các hoạt động dạy nghề và bổ sung nguồn tài chính
của trường.
+ Phối hợp với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong
hoạt động dạy nghề về lập kế hoạch dạy nghề, xây dựng chương trình, giáo
trình dạy nghề, tổ chức thực tập nghề. Hợp tác, liên kết với các tổ chức kinh tế,
giáo dục, nghiên cứu khoa học trong nước và nước ngoài nhằm nâng cao chất
lượng dạy nghề, gắn dạy nghề với việc làm và thị trường lao động.
+ Được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất, giao hoặc cho thuê cơ sở vật
chất; được hỗ trợ ngân sách khi thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao theo đơn đặt
hàng; được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng theo quy định của
pháp luật.
+ Thực hiện các quyền tự chủ khác theo quy định của pháp luật.
1.2.4. Quản lý sinh viên nội trú
1.2.4.1. Sinh viên
SV Việt Nam hầu hết là đoàn viên thanh niên, đang học tại các trường
đại học và cao đẳng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Như vậy, tất cả những người học ở bậc Cao đẳng và Đại học đều được
gọi là SV.
Ngày nay, “Học, học nữa, học mãi” (Lênin) là khẩu hiệu của toàn xã hội
và học tập là công việc suốt đời. Các trường Cao đẳng và Đại học được tăng
leentaoj cơ hội học tập cho cho tất cả những ai có nguyện vọng vào học và

người học đều có thể học bằng nhiều con đường, hình thức khác nhau như:
chuyên tu, tại chức, văn bằng 2 Do đó, với khái niệm SV như trên thì ngoại
diên của nó rất rộng.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài chỉ nghiên cứu với đối tượng là SV
hệ chính quy thì có thể thu hẹp nội hàm của khái niệm này như sau:
- Đó là những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông
- Họ đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh, xét tuyển vào trường cao đẳng và đỗ
vào trường
- Họ thường thuộc nhóm thanh niên, nam nữ từ 18 đến 25 tuổi.
1.2.4.2. Quản lý sinh viên nội trú
Công tác quản lý SV nội trú là một phần quan trọng trong công tác
HSSV là công tác quản lý của nhà giáo dục, các lực lượng giáo dục và tổ chức
đoàn thể, chính trị xã hội.
Mục đích quản lý SV nội trú nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm
mỹ và nghề nghiệp; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực
của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ thể chính thực hiện biện pháp QLSV nội trú là phòng Công tác
HSSV, Tổ QLGD HSSV, chịu trách nhiệm phối hợp với các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội SV, các Phòng, Khoa,
chuyên môn, chính quyền địa phương nhằm thực hiện các biện pháp quản lý
do mình hoạch định đối với đối tượng chịu quản lý là SV nội trú theo yêu cầu
của công tác SV nội trú.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Để đạt các mục tiêu quản lý, chủ thể quản lý phải tổ chức, phối hợp,
khích lệ, động viên, dẫn dắt, định hướng hoạt động của đối tượng quản lý vào
mục tiêu đã được xác định trước thông qua việc sử dụng hệ thống các công cụ
quản lý.

Như vậy, xét cho cùng thì biện pháp QLSV nội trú chính là một loại
công cụ quản lý HSSV, nhằm từng bước đi đến mục tiêu của công tác HS/SV
nội trú. Bởi vì công cụ quản lý là những phương tiện, những giải pháp của chủ
thể quản lý nhằm định hướng, dẫn dắt, khích lệ, điều hòa, phối hợp hoạt động
của con người và cộng đồng trong việc đạt được mục tiêu đề ra.
Theo Quy chế Công tác HSSV Khu nội trú thì: SV nội trú là những
người đang học tại trường và được nhà trường bố trí ở trong khu nội trú theo
hợp đồng của SV đã đăng ký với nhà trường .
SV đăng ký ở nội trú nếu số người có nguyện vọng vào ở nội trú lớn hơn
khả năng tiếp nhận của khu nội trú thì thứ tự ưu tiên theo đối tượng HSSV như
sau:
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động, thương binh
bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh, HSSV khuyết tật.
- Con liệt sỹ, con thương binh, con bệnh binh, con của người hưởng
chính sách thương binh, con của người có công.
- HSSV có hộ khẩu thường trú tại vùng cao, vùng có điều kiện kinh tế xã
hội đặc biệt khó khăn.
- Người cha hoặc người mẹ là dân tộc thiểu số.
- Con mồ côi cả cha lẫn mẹ.
- HSSV con hộ nghèo, cận nghèo theo quy định hiện hành của nhà nước.
- HSSV nữ.
- HSSV tích cực tham gia các hoạt động do nhà trường, Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh, Hội SV, khu nội trú và các tổ chức xã hội tổ chức.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1.2.5. Khái niệm về lối sống
Max Weber, nhà xã hội học người Đức, là người đầu tiên khi nghiên cứu
về lối sống đã cho rằng lối sống thể hiện vị trí của các nhóm xã hội. Khái niệm

lối sống được mô tả như kiểu sống của một nhóm xã hội, giai cấp, là một cộng
đồng người cùng chung một vị trí kinh tế.
Thuật ngữ lối sống có sự biện chứng giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh
thần gắn liền với phương thức sản xuất xã hội, với chế độ chính trị xã hội, với
hình thái kinh tế xã hội.
Ở Liên Xô cũ, một số công trình nghiên cứu lối sống đã đặt vấn đề
nghiên cứu nội hàm khái niệm lối sống với 3 cách tiếp cận được tóm lược như
sau:
- Cách tiếp cận thứ 1: xem xét lối sống như một phạm trù có liên quan
bên trong của chủ thể như nếp nghĩ, nếp hành động, thói quen mà ít quan tâm
đến hoạt động sống và các điều kiện sống. Mặt hạn chế của cách tiếp cận này ở
chỗ, theo A. I. Buchenco, nó đã loại ra một yếu tố quan trọng của lối sống là
hoạt động của chủ thể và lao động.
- Cách tiếp cận thứ 2: định nghĩa lối sống bằng cách liệt kê ra các hoàn
cảnh sống của con người, xã hội do đó lối sống được kiến giải như một phạm
trù xã hội học bao gồm các điều kiện sống, các hình thức hoạt động sống của
con người, các quan hệ xã hội, các sinh hoạt, các hình thức thoả mãn nhu cầu
thế giới quan.
- Cách tiếp cận thứ 3: xem lối sống như là một sự thống nhất các hình
thức hoạt động sống và các điều kiện sống của con người, xã hội. Như vậy, lối
sống là một phạm trù của xã hội học, chỉ sự thống nhất hữu cơ của các hình
thức hoạt động sống và các điều kiện sống nhất định.
Từ 3 cách tiếp cận trên, M. N. Rukevich, tiến sĩ triết học viện hàn lâm
khoa học Liên Xô cũ đã khái quát như sau: Lối sống là một tổng thể, một hệ
thống những đặc điểm chủ yếu, nói lên hoạt động của các nhóm dân tộc, giai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh
tế xã hội nhất định. Có nhiều cách phân loại lối sống:

- Từ bình diện sử dụng năng lực, T. Makiguchi nêu lên 3 lối sống của
con người như sau:
+ Lối sống đóng góp: trong mối quan hệ với thời gian, con người có các
thái độ mang tính lạc quan hay bi quan khi hoạt động phản ứng với các kích
thích của hiện tại, hoạt động hướng về quá khứ và hoạt động hướng về tương
lai.
+ Lối sống trao đổi: lối sống văn hóa, lối sống chính trị, lối sống kinh tế.
+ Lối sống phụ thuộc: sống bằng hưởng thụ hay chiếm đoạt.
- Từ bình diện xã hội học, lối sống được chia theo các tiêu chí sau:
+ Theo lãnh thổ vùng miền: có lối sống thành thị, lối sống nông thôn
+ Theo phân tầng giai cấp: có lối sống tư sản, lối sống tiểu tư sản, lối
sống công nhân, lối sống SV, lối sống trí thức, lối sống thương gia, lối sống
nông dân
+ Theo hình thái kinh tế xã hội: có lối sống phong kiến, lối sống tư bản
chủ nghĩa, lối sống XHCN.
Tác giả Đỗ Trung Lai cho rằng: “Lối sống suy cho cùng là cách dùng
đạo đức mà hành đạo ở đời. Lối sống thể hiện bên ngoài của đạo và đức. Nó đã
là và luôn là văn hoá” [14,Tr.21]
Tác giả Phạm Ngọc Định cho rằng lối sống còn là một phạm trù của duy
vật lịch sử. Tác giả dựa vào luận điểm của Marx và Ăngen khi cho rằng
“Phương thức sản xuất phải xét không đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản
xuất ra sự tồn tại thể xác của cá nhân và hơn thế nữa nó là một hình thức hoạt
động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của sự biểu hiện
đời sống của họ: những cá nhân biểu hiện đời sống của họ như thế nào thì họ là
người như thế ấy. Nó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ đã sản xuất ra
cũng như cách họ sản xuất ra”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Phạm Ngọc Định đã đưa ra định nghĩa lối sống dưới dạng luận đề “Lối

sống là tổ hợp các phương thức hoạt động sống điển hình của con người đối với
xã hội nhất định mà nó được xét thống nhất với các điều kiện hoạt động. Lối
sống bao gồm nhiều hệ thống hành vi ứng xử của con người trong cuộc sống”
[6,Tr.14].
Tác giả Thanh Lê cho rằng “Lối sống là quan niệm sống của con người,
tức là nói đến nhân sinh quan. Nói đến lối sống là nói đến tất cả các lĩnh vực
hoạt động của con người trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội và cá
nhân - hoạt động lao động; hoạt động sinh hoạt, gia đình; hoạt động xã hội, chế
độ; hoạt động văn hoá tinh thần. Trong đó, hoạt động lao động là cơ bản nhất”
[16,Tr.22].
Các định nghĩa, các cách phân loại lối sống trình bày ở trên giúp cho nhà
quản lý, nhà nghiên cứu có cơ sở đi sâu phân tích đặc điểm của từng khách thể,
từng nhóm xã hội để từ đó xác định phương hướng cụ thể xây dựng lối sống
phù hợp.
1.2.6. Nếp sống
Thuật ngữ nếp sống được dùng rất phổ biến. Theo thói quen trong ngôn
ngữ tiếng Việt, trên sách báo hiện nay sử dụng hầu như cả hai thuật ngữ lối
sống và nếp sống với một nội hàm giống nhau. Hai thuật ngữ này không hoàn
toàn như một nhưng cũng không nói lên hai phạm trù khác nhau.
A. p. Buchenco cho rằng: “nếp sống không phải là một phần mà là một
trong những hình thức biểu hiện của sự sống”.
L. V. Cokan cho rằng: “nếp sống của con người được xem như là sự
phản ánh của cá nhân vào xã hội, lối sống của con người được xem như là sự
phản ánh của xã hội vào cá nhân”.
Nếp sống là cách xử sự của mỗi người, những giá trị được rút ra từ đời
sống hiện thực. Những giá trị ấy là sự điều tiết các xu hướng, quan niệm và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

hành vi của con người làm cơ sở cho việc đánh giá các giá trị xã hội; các

nguyên tắc của trật tự xã hội và hoạch định của nếp sống cộng đồng.
Lối sống gồm nhiều hệ thống hành vi ứng xử của con người. Lối sống
phải được thông qua nếp sống. Nếp sống là những hành vi ứng xử của con
người, được lặp đi lặp lại nhiều lần thành nề nếp, thành thói quen, thành phong
cách được xã hội công nhận. Những hành vi trong lối sống chưa được lặp đi lặp
lại, chưa có tính ổn định và chưa trở thành bản tính tự nhiên của con người
trong các hoạt động, trong các ứng xử thì không nằm trong phạm trù nếp sống.
Nếp sống là mặt ổn định của lối sống, là bản năng của lối sống nên khi nói đến
nếp sống nghĩa là nói đến một lối sống ổn định.
Thật là khó khăn khi tách rời nếp sống ra khỏi lối sống, lối sống có tính
định tính, định hướng. Còn nếp sống có tính định hình, định lượng trong cuộc
sống của con người. Nếp sống với tư cách là biểu hiện của của lối sống, thể
hiện ở tính cụ thể, ở những chuẩn mực, khuôn mẫu ứng xử của xã hội mà mỗi
cá nhân đó tự ý thức, tự biến đổi bản tính của mình thành những hành động ổn
định mang tính chung của xã hội. So với lối sống, nếp sống có tính ổn định, bền
vững hơn nhưng không có nghĩa là không có sự biến đổi. Cùng với sự biến đổi
của lối sống, nếp sống cũng biến đổi nhưng chậm và khó khăn hơn.
Xung quanh khái niệm lối sống, nếp sống chúng ta còn gặp một số khái
niệm liên quan như nếp sống văn minh, nếp sống văn hoá, mức sống, lẽ sống,
phong cách sống, nếp sống mới Nội hàm các khái niệm trên đều nằm trong
phạm vi nếp sống.
- Nếp sống văn minh có sự phân biệt với nếp sống văn hoá: Nếp sống
văn minh là nếp sống được thừa hưởng các thành tựu của nền khoa học kĩ thuật
cơ khí, điện tử, mang sắc thái nếp sống công nghiệp. Nếp sống văn hoá là nếp
sống thể hiện trình độ văn hoá cao, bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc hoà
quyện với nhau.
- Cách sống: Là kiểu sống có nghĩa hẹp cụ thể. Đó là lối sống theo cá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


tính, thị hiếu của cá nhân trong một điều kiện môi trường sống nhất định. Ví
dụ: Cách sống của một gia đình, một tầng lớp, của giới văn nghệ sĩ, của người
độc thân Tuy nhiên cách sống, kiểu sống mang tính độc đáo, đa dạng nhưng
vẫn phải tuân thủ lối sống nhất định trong một cộng đồng, trong một xã hội.
- Mức sống: Là mức thu nhập, mức hưởng thụ phúc lợi xã hội của cá
nhân là thước đo chất lượng cuộc sống. Trong sự hưởng thụ có sự hưởng thụ
vật chất, hưởng thụ tinh thần. Mức sống cao, con người có điều kiện thỏa mãn
các yêu cầu về vật chất và tinh thần. Mức sống thấp, con người chưa có cơ hội
để thoả mãn nhu cầu cả về vật chất lẫn tinh thần.
- Lẽ sống: Là một trong những phạm trù cơ bản của đạo đức học. Lẽ
sống là phần nhận thức của lối sống, nếp sống. Lẽ sống là sự thống nhất biện
chứng giữa nghĩa vụ và hạnh phúc. Lẽ sống cao nhất thể hiện ở lối sống, nếp
sống mình với mọi người, mọi người với mình. Chúng ta có thể tìm thấy lẽ
sống cao quý ở các anh hùng, các bậc vĩ nhân, các nhà khoa học và ngay cả ở
những con người bình thường biết hy sinh với cộng đồng hoặc giữ gìn phẩm
chất trong sáng trong mọi hoàn cảnh thực sự khó khăn.
Khái quát toàn bộ các vấn đề lý luận đã trình bày ở trên có thể nêu lên
định nghĩa tổng quát về nếp sống là những cách thức hành động và suy nghĩ,
những quy ước được lặp đi lặp lại hàng ngày và trở thành thói quen trong sản
xuất, sinh hoạt, phong tục, lễ nghi, hành vi đạo đức, trong pháp luật.
Từ định nghĩa cho ta thấy nếp sống chính là cách thức ứng xử, việc làm,
việc thực hiện các quy ước của cộng đồng đã trở thành thói quen. Nếp sống
được thể hiện trong tất cả các hoạt động của con người từ sinh hoạt, giải trí, vui
chơi, học tập đến lao động, ứng xử, giao tiếp Có thể chia nếp sống theo nhiều
cách, dựa vào các đặc điểm và các tiêu chí xã hội học, người ta phân loại như
sau:
- Theo đặc điểm nghề nghiệp: có nếp sống nông dân, nếp sống nghệ sĩ
VD: Người nông dân có nếp sống chất phát, thật thà, giản dị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


- Theo đặc điểm vùng miền có nếp sống đô thị, nếp sống nông thôn
- Theo đặc điểm độ tuổi nếp sống thanh niên, nếp sống người cao tuổi.
VD: Thanh niên họ có nếp sống nhanh thích nghi và tiếp thu những cái
mới, sống phóng khoáng và thích thay đổi. Còn người cao tuổi họ luôn có nếp
sống là: Có tính ổn định cao và họ khó thích nghi những cái mới.
- Theo tiêu chí phân tầng xã hội có nếp sống công nhân, nếp sống trí
thức
- Theo hình thái kinh tế xã hội có nếp sống tư bản chủ nghĩa, nếp sống
XHCN.
Nếp sống có một số tính chất như sau: Nếp sống là những phẩm chất có
tính ổn định; là biểu hiện của đạo đức; là những hành vi đã trở thành thói quen;
không tách rời khỏi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể trong cuộc sống hàng ngày của
con người;
Nếp sống được biểu hiện ở các mặt hoạt động: Lao động, học tập; quan
hệ, ứng xử; hoạt động cá nhân; hoạt động đoàn thể xã hội.
Đối với HSSV nếp sống biểu hiện trong các hoạt động học tập, sinh hoạt,
lao động, giao tiếp, ứng xử. Đây là những hoạt động trong nhà trường, trong
KTX là những hoạt động cơ bản của SV.
Nhìn chung, nếp sống là phương thức xử sự trong một hoàn cảnh nhất
định của cá nhân trong cuộc sống, nó còn là một phương thức xử sự được quy
định bởi các giá trị đạo đức chuẩn mực. Vì vậy, nếp sống là những quy ước tạo
thành thói quen cho mỗi con người và xã hội. Trong cuộc sống hàng ngày,
chúng ta luôn phải chứng kiến cuộc xung đột gay gắt giữa lối sống mới và đủ
loại nếp sống trong các mối quan hệ xã hội, buộc mỗi cá nhân phải nhìn nhận
lựa chọn cho mình một cách sống lành mạnh, có văn hoá.
1.3. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
HSSV nói chung và SV ở các trường dạy nghề nói riêng là những người
có độ tuổi từ 18-25, hầu hết là Đoàn viên thanh niên, tại thời điểm này được thụ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

hưởng thành quả của 25 năm đổi mới, điều kiện sống (cả vật chất và tinh thần)
tốt hơn; cơ hội học tập, rèn luyện được mở rộng hơn, được tiếp nhận nhiều
kênh thông tin. Đặc biệt trong thời đại nền kinh tế tri thức, cùng với sự bùng nổ
của công nghệ thông tin, SV được tiếp cận với nhiều phương tiện giáo dục hiện
đại; điều kiện học tập của SV tốt hơn, tiếp thu được tri thức rộng hơn, tư duy
năng động, sáng tạo, ham mê khoa học và đạt được nhiều thành tựu trên các
lĩnh vực học tập, nghiên cứu, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao
Sự tác động của cuộc sống đối với SV có nhiều mặt tích cực, song cũng có
nhiều mặt hạn chế.
Có nhiều cơ hội để thể hiện khả năng, lòng nhiệt tình, nhạy cảm, vươn
lên trong học tập, nghiên cứu khoa học; năng động trong các hoạt động xã hội,
quyết tâm thực hiện những hoài bão của bản thân Đối lập với những mặt tích
cực lại là những hạn chế của tuổi trẻ: Đó là thiếu kinh nghiệm sống, bồng bột
chủ quan, khả năng kiềm chế bản thân chưa tốt, gặp khó khăn dễ hoang mang,
dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo, thiếu tính tự chủ, thiếu tính kỷ luật Do vậy vấn
đề đáng lo ngại hiện nay chính là sự lệch lạc, trong tư tưởng và trong hành xử,
trong hưởng thụ văn hóa, hiện tượng tha hóa, sai lệch chuẩn mực giá trị đạo
đức, sống không lành mạnh, tính vi phạm thuần phong mỹ tục bản sắc văn hóa
dân tộc của một bộ phận không nhỏ HSSV. Điều đó không chỉ gây hoang mang
cho dư luận xã hội mà còn gióng lên những hồi chuông cảnh báo về đạo đức,
nhân cách của HSSV hiện nay.
Vấn đề này đặt ra yêu cầu công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục
lý tưởng cách mạng, lối sống đối với thế hệ trẻ trong bối cảnh đẩy mạnh CNH -
HĐH đất nước và hội nhập quốc tế là rất cần thiết; đồng thời phải có những đổi
mới QLGD, đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của HSSV nói chung và SV
trường CĐN nói riêng.
Đối tượng SV học nghề thường là những HSSV con em nông thôn gia
đình có kinh tế khó khăn không có khả năng theo học đại học, và một bộ phận


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

không nhỏ là các em học sinh có học lực trung bình và yếu, đặc biệt có những
em là những học sinh thuộc diện cá biệt lười học và có hạnh kiểm trung bình,
do vậy không có khả năng để thi đại học. Do đó, công tác QLSV ở các trường
CĐN gặp rất nhiều khó khăn. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đào đạo, ngoài việc
đào tạo nghề, thì các trường CĐN cần phải có sự đổi mới trong công tác
QLGD, giúp SV phấn đấu vươn lên trong quá trình học tập, rèn luyện đạo đức
cá nhân, đạo đức nghề nghiệp và yêu cầu của đổi mới căn bản toàn diện nền
giáo dục theo tinh thần Nghị quyết số 29, Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH
đất nước.
1.4. NỘI DUNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC NẾP SỐNG CHO SINH VIÊN
NỘI TRÚ
1.4.1. Giáo dục nếp sống cho sinh viên trong hoạt động học tập
Thời gian ngoài giờ lên lớp là khoảng thời gian khá dài trong quỹ thời
gian của SV. Để sử dụng thời gian cho việc học tập, trau dồi kiến thức, rèn
luyện kỹ năng hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức tự giác của SV. Tuy nhiên vai
trò kiểm tra giám sát của cán bộ quản lý HSSV, của ban cán sự lớp, cán bộ
Đoàn, Hội cũng không thể bỏ qua. Đặc biệt là quá trình tự học của SV, các em
phải tự nhận thức được việc học tập của mình, việc học tập đòi hỏi SV không
chỉ tiếp thu tri thức ở trên lớp qua bài giảng của thầy mà còn phải tự tìm kiếm
tri thức thông qua các tài liệu tham khảo trên cơ sở những kiến thức đã lĩnh hội
trước đó. Để chiếm lĩnh vốn tri thức sâu và rộng, hoàn thành tốt mục đích và
nhiệm vụ học tập, SV phải coi trọng việc tự học.
Ngoài giờ lên lớp, thời gian tự học SV sử dụng thời gian vào các hoạt
động lao động, sinh hoạt giải trí văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Đây là
những hoạt động không thể thiếu và có tác dụng tích cực trong việc giúp HSSV
bổ sung, ứng dụng kiến thức học được qua sách vở vào thực tiễn cuộc sống nếu

như những hoạt động đó nằm trong kế hoạch và có tổ chức, có định hướng giáo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

dục rõ ràng của Phòng, Khoa cũng như của trường. Đối với những hoạt động
này cần tạo điều kiện tốt để HSSV thể hiện năng lực của mình trong hoạt động
thực tiễn, đồng thời phát hiện những thiếu sót, yếu điểm để kịp thời bổ sung,
sửa chữa nhằm hoàn thiện các nội dung đào tạo. Kịp thời ngăn chặn và nghiêm
khắc xử lý đối với các hoạt động dưới hình thức tổ chức nhóm, cục bộ, vùng
miền, địa phương, mang tính tự phát mà nội dung không lành mạnh ảnh hưởng
tới môi trường đào tạo của nhà trường. Đó là những hoạt động vừa mất thời
gian và ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập, rèn luyện của các em.
1.4.2.Giáo dục nếp sống sinh viên trong hoạt động tập thể, cá nhân
và lao động.
Thời gian tự học SV sử dụng vào các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục
thể thao và lao động. Đây là những hoạt động không thể thiếu và có tác dụng
tích cực trong việc giúp HSSV bổ sung, ứng dụng kiến thức học được qua sách
vở vào thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt những hoạt động đó nằm trong kế hoạch
và có tổ chức, có định hướng giáo dục rõ ràng của Phòng, Khoa cũng như của
trường. Đối với những hoạt động này cần tạo điều kiện tốt để HSSV thể hiện
năng lực của mình trong hoạt động thực tiễn, đồng thời phát hiện những thiếu
sót, yếu điểm để kịp thời bổ sung, sửa chữa nhằm hoàn thiện các nội dung đào
tạo cho HSSV. Kịp thời ngăn chặn và nghiêm khắc xử lý đối với các hoạt động
sai trái vi phạm nội quy nhà trường của HS/SV, những hoạt động đó mang tính
tự phát mà nội dung của những hoạt động đó vô bổ và gây mất thời gian, dễ tạo
thành những thói quen tật xấu, làm ảnh hưởng đến quá trình học tập và rèn
luyện của các em .
1.4.3. Giáo dục nếp sống cho sinh viên trong quan hệ và ứng xử
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, mở cửa đem lại những thành tựu không
nhỏ về kinh tế giúp cho đời sống của nhân dân được nâng cao, cơ hội đi học đại

học, cao đẳng cho thanh niên đượcnhiều hơn và thuận lợi hơn. Nhưng bên cạnh
những thuận lợi đó thì cũng kéo theo những mặt hạn chế không nhỏ đặc biệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

cho thanh niên ở độ tuổi học cao đẳng đại học trong đó có quan hệ ứng xử. Đặc
biệt là quan hệ giữa SV với SV, giữa SV với cán bộ giáo viên không chuẩn
mực, quan hệ nam nữ không phù hợp, không trong sáng, lối sống thực dụng.
Để làm tốt vấn đề này đòi hỏi phải có sự đầu tư công sức, sự quan tâm
thường xuyên của các cấp lãnh đạo, sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhà trường,
chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể và đặc biệt là ý thức tự giác
trong học tập và rèn luyện của bản thân mỗi SV; xây dựng một môi trường giáo
dục thống nhất, cán bộ giáo viên và HSSV, phải phối hợp với các tổ chức đoàn
thể chính trị, xã hội và gia đình theo mục tiêu giáo dục đào tạo.
1.5 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO
DỤC ĐÀO TẠO NGHỀ
Trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà
nước luôn quan tâm đến sự nghiệp “trồng người”. Ngày nay, bước sang giai
đoạn CNH - HĐH đất nước, Đảng ta đã đề ra định hướng lớn về phát triển giáo
dục và khoa học công nghệ: “Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát
triển GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH -
HĐH đất nước” [39,Tr.112]. Trong đó đặc biệt chú trọng việc phát triển khoa
học và công nghệ đến năm 2020 Việt Nam phải đạt được trình độ khoa học và
công nghệ tiên tiến trong khu vực ở phần lớn các ngành trọng điểm.
Việc chuyển giao công nghệ ở nước ta hiện nay có thể nói là rút ngắn
giai đoạn khi so sánh với lịch sử phát triển lâu dài của các nước phương Tây.
Việc chuyển giao công nghệ đã đòi hỏi nhu cầu thực tế về đội ngũ nhân lực có
kiến thức, kĩ năng để tiếp thu và làm chủ được khoa học kỹ thuật để phục vụ
cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
CNH - HĐH nền kinh tế là con đường duy nhất để có thể đuổi kịp nền

kinh tế các nước trong khu vực và tạo cơ sở cho nền kinh tế Việt Nam phát
triển. Muốn sự nghiệp CNH - HĐH thực hiện thắng lợi thì nguồn lực con
người - nhân tố thực hiện CNH - HĐH đóng vai trò nòng cốt phải được ưu tiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

phát triển: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững” [39,Tr.108-109].
Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX về phát triển giáo dục, đào tạo đã ghi:
“Mở rộng quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến ra nét về chất lượng và
hiệu quả đào tạo Từng bước xúc tiến việc nối mạng Internet ở trường học, tạo
điều kiện học tập nghiên cứu trên mạng” [39,Tr.110] “Đào tạo trình độ cao
đẳng giúp SV có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản về một
ngành nghề, có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên
ngành đào tạo” [45,Tr.25].
Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi trọng giáo dục và đào tạo trong chiến
lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Giáo dục và đào tạo luôn cần phải
được đầu tư đúng mức để đảm nhận vai trò cung cấp nguồn nhân lực chất
lượng cao về mọi mặt, gánh vác trọng trách xây dựng đất nước giàu đẹp, văn
minh. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước,
được sự quan tâm của các cấp, các nghành và toàn xã hội, công tác dạy nghề đã
được quan tâm, từng bước được đổi mới và phát triển, quy mô dạy nghề được
mở rộng, chất lượng dạy nghề được nâng cao, đa dạng hóa các loại hình, hình
thức đào tạo, bước đầu điều chỉnh cơ cấu cấp trình độ đào tạo, đổi mới nội
dung chương trình, phương pháp đào tạo, trang bị cơ sở vật chất, thiết bị dạy
nghề, chất lượng dạy nghề đã chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng nhu cầu
đội ngũ lao động qua đào tạo nghề phục vụ cho phát triền kinh tế - xã hội và
xuất khẩu lao động.

Tuy nhiên, công tác dạy nghề vẫn còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng
được yêu cầu của thị trường lao động, nhu cầu học nghề của xã hội và hội nhập
quốc tế. Dạy nghề chủ yếu vẫn theo hướng cung; chất lượng dạy nghề còn thấp
chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động; quy mô đào

×