Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm trường ca Thanh Thảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.96 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

DƯƠNG LỆ THỦY

ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA
THANH THẢO

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh- 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

DƯƠNG LỆ THỦY

ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA
THANH THẢO
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh- 2011



DẪN NHẬP

1.Lí do chọn đề tài
Trên thế giới này, chắc chắn không có dân tộc nào mà trong những trang sử hiện đại lại luôn
khét mùi thuốc súng như dân tộc Việt Nam. Cũng không có dân tộc nào mà trong kí ức của nhiều
thế hệ liền nhau lại phải chịu cảnh chia lìa, li tán vì bom đạn như Tổ quốc ta. Những mất mát để đổi
lấy hai chữ Hòa Bình thật không có sách vở nào kể cho hết. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ mãi mãi còn hằn sâu trong tâm thức của những người con mang dòng máu Việt.
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những vang vọng về nó còn vẹn nguyên trong nhiều trang viết của
những nghệ sĩ- chiến sĩ. Với sự nhạy cảm vốn có của lực lượng cầm bút, lại đã từng chứng kiến biến
cố vĩ đại của lịch sử dân tộc, mỗi tác phẩm ra đời trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại đã
phản ánh nhiều mặt cả về thực tế lẫn nhận thức về dân tộc và nhân dân trong cơn bão táp cách mạng
để rồi viết nên những trăn trở, suy tư và tiếng nói trách nhiệm với mỗi vấn đề quá khứ và hiện tại để
xây đắp tương lai tốt đẹp hơn.
Văn học Việt Nam hiện đại ghi nhận sự đóng góp tích cực của nhiều thể loại. Tận dụng những
ưu thế của mình, mỗi thể loại đều đã có những tên tuổi được khẳng định trên văn đàn và trong lòng
bạn đọc. Trường ca hiện đại cũng không nằm ngoài sự nỗ lực đó. Với dung lượng khá đồ sộ cùng sự
đa dạng về cấu trúc, trường ca hiện đại có khả năng truyền chở những nội dung hoành tráng và cảm
hứng mãnh liệt mà vẫn đậm chất trữ tình, giàu triết lí nên đã được nhiều nhà thơ lựa chọn thử sức.
Nếu như trong chiến tranh ta biết đến những cây bút trường ca có vai trò mở đường như Tố Hữu, Lê
Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm…, thì giờ đây, trong nền văn học hậu chiến lại ghi nhận nhiều nhà
thơ viết trường ca có tuổi đời còn khá trẻ như Hữu Thỉnh, Thu Bồn, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu,
Trần Mạnh Hảo… Lực lượng sáng tác này đã có công tiếp tục đắp xây những giá trị của một thể
loại còn khá mới mẻ trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Lấy trường ca và những vấn đề liên quan
làm đối tượng nghiên cứu đến nay thiết nghĩ còn cần thiết. Tìm hiểu đề tài này là cần thiết để tiếp
tục nhận thức về một vấn đề của văn học hiện đại.
Nhắc đến những nhà thơ viết trường ca thành công trong thời kì hậu chiến đến nay phải kể đến
Thanh Thảo- người đã từng được nhận xét là “ông vua của trường ca”. Thanh Thảo bắt đầu có
trường ca từ năm 1977 và đến năm 2009 với trường ca Metro đã ra mắt bạn đọc chín bản trường ca
hoàn chỉnh, giờ đây vẫn còn nhiều hứa hẹn. Là một cây bút viết trường ca đã được thời gian và bạn

đọc khẳng định, tác phẩm của ông ở thể loại này rất đáng được nghiên cứu một cách có hệ thống.
Mặt khác, tìm hiểu trường ca Thanh Thảo để thấy được một hồn thơ biết sống và nghĩ nghiêm túc
với lịch sử, với thời cuộc và với nhân cách làm người.


Ngày nay, trong chương trình đào tạo môn Ngữ văn, nhiều trường ca đã được đưa vào để giáo
viên, sinh viên, học sinh nghiên cứu, giảng dạy, học tập. Tìm hiểu “Đặc điểm trường ca Thanh
Thảo” sẽ góp phần đưa một cái nhìn tổng quát về thế giới nghệ thuật trường ca Thanh Thảo, có ích
cho việc tham khảo giảng dạy và học tập ở trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “ Đặc điểm trường ca Thanh Thảo” để
nghiên cứu trên cơ sở tiếp thu những đóng góp có liên quan đến đề tài của các nhà nghiên cứu đi
trước. Từ đó có cái nhìn toàn vẹn hơn về một cây bút đã khẳng định được tên tuổi của mình trên văn
đàn hiện đại.
2.Mục đích nghiên cứu
Trong sự cố gắng nghiên cứu về “Đặc điểm trường ca Thanh Thảo”, mục đích của chúng tôi ở
đề tài này là nhằm nêu lên một số đặc điểm nổi bật nhất trong trường ca của ông để thấy được
những đóng góp riêng của tác giả trong một thể loại còn là một thách thức với nhiều người cầm bút
mà không phải ai cũng dám đặt chân vào.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Với mục đích khoa học đã đề ra, luận văn này chỉ tập trung xem xét và làm sáng tỏ những vấn
đề cơ bản có liên quan đến đề tài: “Đặc điểm trường ca Thanh Thảo”, cụ thể là ở các khía cạnh
cảm hứng sáng tác, nhân vật trung tâm, đặc sắc nghệ thuật (ở phương diện kết cấu, hình ảnh biểu
tượng, giọng điệu) để phần nào thấy được cá tính nghệ thuật của một cây bút viết trường ca hiện đại.
3.2. Phạm vi
Với đề tài này, chúng tôi nhận thức được rằng, sẽ không có tham vọng để đi vào tìm hiểu kĩ
càng và đầy đủ tất cả các đặc điểm của trường ca Thanh Thảo, điều đó có thể đem lại cái nhìn đầy
đủ nhưng quá đi vào chi tiết tỉ mỉ e rằng sẽ không tránh khỏi sự chẻ nhỏ đối tượng nghiên cứu, khó
đem lại cái nhìn khái quát cho một vấn đề chung, bởi vậy, trên cơ sở nghiên cứu các sáng tác trường
ca của Thanh Thảo từ năm 1977 đến năm 2009 gồm các trường ca sau đây:

Những người đi tới biển
Trẻ con ở Sơn Mỹ
Những nghĩa sĩ Cần Giuộc
Bùng nổ của mùa xuân
Đêm trên cát
Khối vuông Rubich
Trò chuyện với nhân vật của mình


Cỏ vẫn mọc
Metro
luận văn chỉ đi vào tìm hiểu một vài đặc điểm tiêu biểu trong trường ca Thanh Thảo như đã nêu ở
phần đối tượng nghiên cứu.
4.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thanh Thảo là một cây bút viết trường ca dài hơi ngay từ sau kháng chiến chống Mỹ đến tận
những năm gần đây. Trong tương lai, nhà thơ vẫn đang khẳng định là cây bút có nhiều triển vọng.
Cho đến nay, “hiện tượng Thanh Thảo” cũng đã gây sự chú ý cho các nhà nghiên cứu ở một số
phương diện. Vì thế, luận văn mong muốn góp thêm một ý kiến nhỏ trong việc tìm hiểu thế giới
nghệ thuật trường ca Thanh Thảo. Trên cơ sở kết quả đạt được của quá trình nghiên cứu, chúng tôi
mong sẽ cung cấp cho các vị đồng nghiệp, sinh viên, học sinh và những người quan tâm có thêm tài
liệu tham khảo, có cái nhìn tổng hợp về những giá trị của trường ca Thanh Thảo, phục vụ công việc
giảng dạy và học tập.
5.Lịch sử vấn đề
Xuất hiện chậm hơn so với thế giới, ở nước ta, mãi tới thập niên 30 của thế kỉ XX trường ca
hiện đại mới có mặt. Dù thế nhưng phải đến những năm 80 cùng thế kỉ, thể loại trường ca mới được
các nhà nghiên cứu quan tâm bàn đến. Đến nay có thể chia những công trình, bài nghiên cứu về
trường ca thành hai nhóm. Nhóm nghiên cứu về thể loại và nhóm nghiên cứu về tác giả- tác phẩm
trường ca. Cụ thể là:
Nhóm nghiên cứu chung về thể loại:
Đề cập đầu tiên về thể loại trường ca hiện đại là nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân từ năm 1975.

Với bài viết “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”[1] ông đã đề nghị cách gọi cho những tác phẩm
thơ dài là "trường ca". Năm 1980 tạp chí Văn nghệ Quân đội đã mở mục “Về thể loại trường ca” đã
thu hút nhiều ý kiến trao đổi với các bài: “Trường ca – cảm hứng, bản lĩnh, sức vóc của người
viết”[81] của Nguyễn Trọng Tạo, “Về mấy đặc điểm của trường ca”[115] của Vương Trọng, “Vài ý
nghĩ nhỏ”[28] của Trần Mạnh Hảo, “Trường ca và người viết trường ca”[13] của Phạm Ngọc Cảnh,
“Trường ca, một kiến trúc tổng hợp của thơ ca”[10] của Thu Bồn, “Vài suy nghĩ về thể loại trường
ca”[104] của Hữu Thỉnh. Năm 1981, trên tạp chí này cũng đăng một số ý kiến về trường ca: Từ Sơn
với bài “Về khái niệm trường ca”[71], Lại Nguyên Ân với ý kiến “Bàn góp về trường ca”[3], Hoài
Thanh có bài “Thơ và chuyện trong thơ”[87], Trần Ngọc Vượng “Về thể loại trường ca và tính
chất của nó”[119], Hồng Diệu với “Thêm vài ý nghĩ”[17]. Có thể nói trong hai năm này, khái niệm
trường ca đã gây sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, nhưng các bài viết phần lớn mới chỉ quan tâm
tranh luận về vấn đề tên gọi thể loại và phân biệt nó với truyện thơ .


Tiếp sau các ý kiến đó, năm 1982 trên Tạp chí văn học, Mã Giang Lân có bài “Trường ca, vấn
đề thể loại”[45], Vũ Đức Phúc với “Chung quanh vấn đề trường ca”[67], Lại Nguyên Ân tiếp ý
kiến qua bài “Thể trường ca trong thơ gần đây”[4]. Đỗ Văn Khang đã lấy ý kiến của Hê-ghen làm
cơ sở lí luận cho mình khi bàn về trường ca hiện đại Việt Nam qua bài “Từ ý kiến về trường ca sử
thi của Hê-ghen đến “trường ca” hiện đại ở ta”[44]. Năm 1983 Phạm Huy Thông, trong bản báo
cáo khoa học về "Trường ca"[105] trong đó đề cao độ dài trường ca cho việc truyền chở cảm xúc
nhà thơ. Năm1984, Hoàng Ngọc Hiến đã nêu những nhận định về đặc trưng thể loại trường ca của
Biêlinxki trong bài viết “Về đặc trưng của trường ca”[30] trong đó khẳng định vấn đề trung tâm
của thi pháp trường ca là "nội dung lớn và dung lượng lớn”, “tương quan giữa nguyên tắc trữ tình và
nguyên tắc tự sự", "trong trường ca hiện đại, xu thế trữ tình lấn át tự sự". Năm 1988 Mã Giang Lân
viết tiếp bài “Thử phân định giữa ranh giới trường ca và thơ dài”[46] nêu lên những điểm giống
và khác nhau giữa hai thể loại vốn có điểm giao thoa này; trong đó ông chỉ ra sự phân biệt chủ yếu
kết cấu và nhân vật. Như vậy, từ năm 1982 đến năm 1988, các nhà nghiên cứu bước đầu đã thuyết
phục giới chuyên môn ở một số vấn đề thi pháp trường ca như yếu tố nội dung, nhân vật, cảm xúc;
khẳng định giá trị của các sáng tác trong đời sống văn học đương thời (Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh
Xuân, Anh Ngọc, Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh...).

Đến năm 1999 trong cuốn “Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam” [78], Vũ Văn Sỹ đã dành
cả một chương để bàn về trường ca ở nội dung “Trường ca, sự mở rộng chức năng yếu tố tự sự
trong thơ trữ tình”. Tác giả đã có những đóng góp nhất định trong sự lí giải quá trình mở rộng chức
năng của trường ca hiện đại; sự phân loại nhân vật trường ca theo các tiêu chí hình thức và nội dung
khác nhau đem lại cái nhìn tổng quát về lí luận ở thể loại trong nền văn học hiện đại nước ta. Năm
2002, Đào Thị Bình có bài “Góp phần tìm hiểu trường ca viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước”[8]. Đây là một bài viết có những ý kiến sắc sảo, tổng kết về trường ca kháng chiến chống
Mỹ. Đến năm 2008 với bài nghiên cứu “Trường ca với tư cách là một thể loại mới”[16], tác giả
Nguyễn Văn Dân nhận định trường ca Việt hiện đại có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn 19321975 là giai đoạn ra đời của trường ca, nó vẫn mang nặng tính sử thi của anh hùng ca. Giai đoạn sau
1975 xuất hiện xu hướng thiên về tính trữ tình, mang đậm dấu ấn cái tôi cá nhân. Tác giả nhận xét
về đặc trưng của trường ca Việt Nam hiện đại “là sự nổi trội của tính trữ tình so với tính tự sự,
T
1

nhưng tính tự sự vẫn không mất hẳn, mà nó vẫn tồn tại như một khung quy chiếu cần thiết để làm nên
“tầm cỡ nội dung hoành tráng” mang tính sử thi cho một tác phẩm được gọi là trường ca.”
3
1T

3
1T

Đến nay, nhiều luận văn, luận án ở các trường đại học và viện nghiên cứu chuyên ngành tiếp tục
đi sâu hơn trong việc làm rõ đặc trưng thi pháp thể loại. Nhìn chung, lịch sử vấn đề thể loại không
phải hoàn toàn thống nhất các ý kiến nhưng đã đưa được những vấn đề gây tranh luận để hiểu rõ


hơn về thể loại. Các bài viết này vẫn còn là những gợi ý nền tảng cho việc nghiên cứu về trường ca
nói chung và trường ca Thanh Thảo nói riêng.
Nhóm nghiên cứu về tác giả Thanh Thảo

Thanh Thảo có trường ca ra mắt bạn đọc lần đầu vào năm 1977 với tác phẩm Những người đi
tới biển. Từ đó đến nay, nhà thơ vẫn không ngừng cho ra đời những bản trường ca có giá trị nghệ
thuật. Tác phẩm của ông đã có sự thu hút quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Năm 1980, Thiếu Mai có bài đăng trên Tạp chí Văn học (số 2), với nhan đề “Thanh Thảo, thơ
và trường ca” đã đưa ra những nhận định về một cây bút còn rất trẻ. Tác giả đã cho rằng: “Ngòi bút
Thanh Thảo tinh tế mà thanh thoát, phong phú mà nhẹ nhõm (…) lời thơ đẹp, không dễ dãi, buông
thả (…) bao giờ cũng vượt qua những hiện tượng bên ngoài, để tìm đến cái bản chất đích thực, cái
lõi của sự vật” [54, tr.153]. Tác giả nhận thấy rằng: “Thơ Thanh Thảo có dáng riêng. Đọc anh, dù
một lần, thấy ngay dáng ấy (…) Thơ Thanh Thảo là nhà thơ của tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí
tuệ (…) đầy đặn cả hai mặt cảm xúc và suy nghĩ”[54, tr.152]. Ở phần sau của bài viết, tác giả dành
nhiều trang để khái quát những giá trị của trường ca Những người đi tới biển. Những nghiên cứu
của Thiếu Mai giúp người đi sau có những gợi ý trong việc đi vào tìm hiểu kết cấu và giọng điệu
của trường ca Thanh Thảo.
Nguyễn Đức Quyền từ năm 1980 trong tập tiểu luận Những vẻ đẹp thơ (năm 2002 tái bản lần
thứ nhất trong cuốn Nét đẹp thơ) đã có những nét phác họa về thơ Thanh Thảo: “Thơ chống Mỹ đến
Thanh Thảo đã lắng vào chiều sâu. Cái xô bồ của chiến tranh, cái tàn bạo của giặc Mỹ, cái gian
khổ của người lính được Thanh Thảo nhìn với cái nhìn trầm tĩnh lạ thường” [69, tr.172]. “Thơ
Thanh Thảo không dừng lại ở những nét hiện thực dù là những nét hiện thực phong phú, kì thú hơn
bất cứ nhà thơ nào viết về chiến tranh mà anh dẫn người đọc đến những suy tưởng, đến chiều sâu
triết lí” [69, tr.172]
Cùng năm đó, Lại Nguyên Ân trong Dấu chân những người lính trẻ và thơ Thanh Thảo đã
đưa ra ý kiến nhận xét về hình ảnh người lính trong thơ Thanh Thảo: “Thanh Thảo đã tìm được khá
nhiều cung bậc, nhiều sắc thái tô đậm nét vô danh, bình thường ở những người lính cùng thế hệ.
Nhưng nét vô danh, bình thường này được nhấn đi nhấn lại nhiều lần đến thế thì quả không phải là
sự vô tình; nó như báo trước một thầm thì gì nữa, một xác nhận về đặc điểm thế hệ, hơn nữa, một
thứ “tuyên ngôn” [4, tr.49]. Ở góc độ khái quát, tác giả bài viết cũng nhận định: “Thơ anh đậm sắc
thái bi hùng, trữ tình trong thơ anh không tách biệt mà hòa hợp ở mức khá cao với tính sử thi” [4,
tr.55].
Trần Đình Sử và Trần Đăng Xuyền trong bài Suy nghĩ mới về nhân dân trong Những ngọn
sóng mặt trời của Thanh Thảo năm 1982 nhận xét: “Thể loại trường ca nở rộ trong thời gian vừa

qua là một đóng góp quan trọng của “những cây bút trẻ xuất hiện trong thời chống Mỹ” trong đó


“Thanh Thảo là một trong những tác giả tiêu biểu” [74, tr.252]. “Những tập thơ của Thanh Thảo
đã góp phần làm sâu sắc thêm quan niệm nghệ thuật về nhân dân trong văn học” [74, tr.252- 253]
Đến năm 1985, trên Tạp chí Văn học số 5-6, Bích Thu cũng có bài viết về Thanh Thảo: Thanh
Thảo, một gương mặt tiêu biểu trong thơ từ sau 1975. Bài viết đánh giá: Thơ anh “là tiếng nói
thâm trầm, thấm thía về hiện thực chiến tranh, về trách nhiệm và số phận của thế hệ mình trước Tổ
quốc, nhân dân”, “đi sâu phát hiện khám phá ra chân dung tinh thần của một thế hệ người lính
trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt mà hào hùng của dân tộc” [110, tr.67] . Nhận xét về trường ca
của ông, tác giả bài viết cho rằng: “mỗi trường ca đều lí giải được những vấn đề sinh tử của một
giai đoạn lịch sử đã qua đồng thời đặt được những vấn đề sinh tử trong một giai đoạn lịch sử đã
qua đồng thời đặt được những vấn đề gắn với đời sống hôm nay” [110, tr.70-71]. “Tác phẩm hấp
dẫn người đọc ở ý tứ sâu xa và ở cấu trúc trữ tình- triết lí rất mực tâm trạng” [110, tr.70]. Tác giả
bài viết khẳng định: “Thanh Thảo…xứng đáng là một gương mặt thơ tiêu biểu”. Những nhận xét
của Bích Thu giúp chúng tôi có cái nhìn chung về thơ và trường ca Thanh Thảo.
Năm 1990, Đông Hải với Khối vuông rubich và hình tượng tư duy thơ của Thanh Thảo nhận
định: “Thi sĩ là người xác lập những vòng tròn chuyển động bằng hình tượng tư duy muôn màu,
muôn vẻ. Và Thanh Thảo đã thành công qua khả năng tạo nên những“vòng quay” sáng tạo bằng
một cấu trúc thơ mới mẻ, đa dạng để tự khẳng định mình, khẳng định cuộc sống” [26, tr.102-105]
Ở Văn chương, cảm và luận (1998), Nguyễn Trọng Tạo cho rằng: “Thanh Thảo là nhà thơ trẻ
đã tạo được sự ứng xử đúng mực sau “mối tình đầu” của thơ chống Mỹ. Thơ Thanh Thảo không
lạnh, thậm chí nóng bỏng, là giọt cồn ở nồng độ cao. Thơ anh là “những tia chớp từ trời cao làm
hiện lung linh tất cả sự vật chung quanh ta” [83, tr.75]
Nguyễn Thụy Kha nhận xét trường ca viết về chiến tranh của Thanh Thảo: “Với cảm hứng giao
hưởng khoáng đạt, Thanh Thảo đã vẫy vùng ở thể loại đầy tính phức điệu này để viết nên sự thật về
cuộc chiến tranh” [43, tr.78]. “Viết về những khúc ca lính Việt, Thanh Thảo đã “thực sự cắm được
cái mốc trên chặng đường tìm kiếm đầy gian truân này” [43, tr.78]
Tác giả Bùi Công Hùng trong Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại (2000) đã nhận xét về
“tính giao hưởng, tính phức điệu” trong thơ Thanh Thảo. Ông cho rằng: “Thanh Thảo trong Những

người đi tới biển bằng tính giao hưởng, phức điệu đã bộc lộ sự sung sức của tâm hồn, của kĩ năng
thơ trên nhiều bậc thang khác nhau của sự biểu hiện, đồng thời nêu bật sự phong phú, đa dạng
trong nội tâm, trong đời sống của con người Việt Nam hiện đại” [42, tr.92]
Với bài nghiên cứu “Trường hợp Thanh Thảo” của tác giả Chu Văn Sơn được in trong “Văn
học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy” (Nxb Giáo dục, 2006) đã có công
đưa ra những luận điểm rất thuyết phục khi bàn về các sáng tác của Thanh Thảo. Ở phần nhận định
về nội dung, tác giả cho rằng tác phẩm của nhà thơ này “Lấp lánh chất người”. Thanh Thảo hay viết


về “những nghĩa quân, những ngọn nghĩa kì, những nhà thơ tiết nghĩa”. Về nghệ thuật, Chu Văn
Sơn cô đọng trong phạm trù “lửa và nước” trong cách triển khai chủ đề của Thanh Thảo… Về cấu
trúc, nhà thơ thường xây dựng cấu trúc tác phẩm một cách hỗn loạn xung quanh trục trật tự theo
kiểu “rubich- thơ” hoặc “giao hưởng thơ”. Bài viết này có cái nhìn độc đáo về tác phẩm của Thanh
Thảo, gợi ý cho hướng nghiên cứu phục vụ đề tài.
Trong cuốn Trò chuyện với 100 nhà văn (2006), nhận xét về thơ Thanh Thảo như sau: “Thơ
Thanh Thảo gần như dành cho người đọc, người xem hơn là cho người nghe” [63, tr.350] “Thơ
Thanh Thảo thật tới mức khô quánh và dữ dội, có khi khách quan tới mức lạnh lùng (….), đọc thơ
Thanh Thảo như đứng trước tháp Chàm” [63, tr.350]
Đến năm 2007, Nguyễn Việt Chiến trong Thanh Thảo còn những bài thơ lẻ đã ghi nhận
đóng góp của Thanh Thảo: “Thanh Thảo vẫn là một tài năng thơ đích thực với một trái tim luôn
nồng nhiệt, chân thành và bất bình trước mọi trả giá, bất công và bạo lực” [14, tr.75]. Nhận xét về
những cách tân nghệ thuật như sau: “Ông là một tài năng không chịu đựng nỗi những con đường
mòn cũ, quen thuộc trong thi ca. Bởi tính năng sáng tạo của con người thơ ông luôn bật lên những ý
tưởng, những khao khát khám phá” [14, tr.81]
Nguyễn Đỗ trong lời giới thiệu tập thơ song ngữ Việt- Anh Thanh Thảo 123 (2007) nhận xét
thơ anh là “tiếng nói đại diện cho cả một thế hệ nhận thức được sớm tính đa mặt (polyhedral) của
chiến tranh, cụ thể là chiến tranh chống Mỹ, tiếng nói đa thanh (polyphonic) của số phận con người
trong bất kì cuộc chiến nào.” [100, tr.7]
Nguyễn Trọng Tạo đến năm 2009 một lần nữa nhận xét: “Thanh Thảo là một tài thơ của thế
hệ tôi. Anh sớm thoát khỏi giọng điệu tiền chiến và tự thoát khỏi giọng thơ chống Mỹ của chính

mình để tìm đến một tư duy cách tân với bút pháp đồng hiện của tiểu thuyết hay giao hưởng phương
Tây mà rõ nhất là Khối vuông rubich giữa những năm 80 của thế kỉ trước”[63, tr.384] “càng đi vào
cách tân, thơ anh càng mất dần đi những ấm nồng cảm xúc, thậm chí đôi khi có cảm giác lạnh.
Nhưng cũng có thể cảm giác lạnh ấy là cảm giác lạnh của giọt cồn 90 độ rơi vào da thịt” [63,
tr.384]
Như vậy, các bài nghiên cứu đã khảo sát ở trên đã đề cập ít nhiều ở cả hai phương diện nội
dung và nghệ thuật trong thơ và trường ca Thanh Thảo. Khía cạnh nội dung, các tác giả đều ghi
nhận đóng góp đặc sắc của nhà thơ khi góp tiếng nói thâm trầm về chân dung thế hệ. Góc độ nghệ
thuật gây chú ý là một hồn thơ giàu suy tưởng, trí tuệ. Trên hết, Thanh Thảo luôn khát khao khám
phá, tìm tòi để cách tân trong sáng tác của mình. Tuy nhiên, các bài viết đều đưa ra nhận xét trên
căn cứ khảo sát một hoặc một số trường ca. Trường ca Thanh Thảo đến nay đã có 9 bản hoàn chỉnh
đã là một khẳng định cho sự nghiệp trường ca dài hơi của ông. Nghiên cứu Đặc điểm trường ca


Thanh Thảo là việc làm cần thiết mong góp phần đem lại cái nhìn toàn cảnh và khu biệt về những
sáng tác trường ca của một cây bút đã có nhiều đóng góp.
6. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi có những hướng tiếp cận tư liệu để triển khai như sau:
Trước hết, tìm đọc tất cả các trường ca của Thanh Thảo cho đến nay
Thứ hai, tìm các bài viết, các công trình nghiên cứu bàn về thể loại trường ca nói chung và
trường ca Thanh Thảo nói riêng; các bài viết của chính tác giả thổ lộ xung quanh việc sáng tác
trường ca của mình.
Thứ ba, khảo sát từng trường ca để khái quát những đặc điểm tiêu biểu.
Thứ tư, phân tích những đặc điểm được nhận định qua khảo sát.
Thứ năm, so sánh với một số tác giả viết cùng thể loại, cùng thời.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng chủ yếu
các phương pháp sau:
Phương pháp loại hình: Đây là phương pháp cần thiết khi căn cứ vào đặc trưng thể loại để tìm
hiểu trường ca Thanh Thảo, nhất là khi tác giả và tác phẩm có vị trí nhất định trong giai đoạn thể
loại được xác lập chính thức trong nền văn học nước nhà.

Phương pháp so sánh: Là phương pháp không thể thiếu để chúng tôi làm rõ nét đặc sắc của
trường ca Thanh Thảo và những đóng góp tích cực về thể loại của nhà thơ.
Phương pháp lịch sử: Để tìm hiểu sự vận động, thay đổi của trường ca Thanh Thảo.
Bên cạnh đó, phương pháp thống kê cũng được sử dụng để đưa ra những số liệu minh họa, tạo
sức thuyết phục cho các luận điểm được đưa ra.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tôi ngoài phần dẫn nhập và kết luận gồm có ba chương:
Chương 1: Cảm hứng trung tâm trong trường ca Thanh Thảo
Chương 2: Hình tượng nhân vật trung tâm trong trường ca Thanh Thảo
Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật trong trường ca Thanh Thảo


Chương 1: CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG TRƯỜNG CA THANH THẢO
Người xưa quan niệm làm thơ phải xuất phát từ hứng. Nguyễn Quýnh cho rằng: “Người như
sông biển, chữ như nước, hứng thì như gió. Gió thổi tới sông biển cho nên nước lay động làm thành
gợn, thành sóng, thành ba đào… người làm thơ không thể không có gió vậy… hứng đến khiến người
ta bật ra thơ” [60, tr.103]. Cảm hứng là một trong những nội dung quan trọng khi nghiên cứu tác
phẩm văn học. Trong các sáng tác, nó được thể hiện ở nhiều dạng khác nhau nhưng ta thường chỉ
gặp sự biểu hiện rõ nét cảm hứng ở những tác giả thực sự có tài năng.
Thanh Thảo là một nhà thơ có tài. Trong các sáng tác trường ca của ông ta nhận thấy có hai dòng
cảm hứng trung tâm là cảm hứng sử thi và cảm hứng đời tư thế sự.
1.1.Cảm hứng sử thi trong trường ca Thanh Thảo
Cảm hứng được người sáng tác hiểu như sau: “Sự thực mà nói cảm hứng chính là thời điểm mà
sức sống bên trong đã tích tụ ấp ủ lên men sáng tạo thời điểm mà ngọn lửa kì diệu của thơ ca bùng
cháy. Không có cảm hứng thì ngòi bút không trơn mực” [106, tr.49].
Có thể nói, cảm hứng sử thi là một vấn đề trung tâm của văn học kháng chiến chống Mỹ,
thậm chí có nhà nghiên cứu còn cho rằng đó là một đặc điểm của phong cách thời đại chống Mỹ
(Nguyễn Khắc Sính). Điều này không phải không có lí khi thực tế cuộc chiến đấu đòi hỏi các văn
nghệ sĩ phải phản ánh cho được không khí thời đại mà quan trọng hơn là từ đó các tác phẩm có
động lực như “hồi kèn xung trận” đoàn kết toàn dân tộc một lòng đấu tranh vì độc lập.

Các tác phẩm sử thi cổ đại mà xa xưa nhất là Iliat, Ôđixê của người Hy Lạp cổ hay sử thi
Đăm San của dân tộc Êđê có kết hợp với các hình thức diễn xướng thì mục đích để thuật lại những
sự kiện quan trọng của quá khứ liên quan đến vận mệnh cộng đồng, dân tộc, thể hiện niềm tự hào và
là bài học cho thế hệ sau. Bởi thế ý thức cộng đồng rất được đề cao. Khi đó, quan điểm cá nhân
đồng nhất với quan điểm nhân dân “không tách mình ra ngoài sự kiện đó” (theo cách nói của
Bêlinxki).
Cảm hứng sử thi (ở tầm bao quát) trước đến nay được các nhà nghiên cứu đồng tình ở đặc
điểm lớn là: Tác phẩm sử thi thường không quan tâm đến những vấn đề của đời sống cá nhân, riêng
tư hay sinh hoạt thế sự; mà chủ yếu hướng vào những vấn đề hệ trọng của dân tộc và thời đại, vận
mệnh đất nước và nhân dân. Nhiều tác phẩm đã trực tiếp thể hiện hình ảnh nhân dân trong quá trình
thức tỉnh cách mạng và hình ảnh cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại. Nhân vật trung tâm là những con
người sử thi tiêu biểu cho khát vọng và ý chí chiến đấu, quyết thắng của cả dân tộc, tiêu biểu cho
chủ nghĩa anh hùng thời đại. Nhân vật được xây dựng theo bút pháp lý tưởng hoá của sử thi: những
anh hùng mang tầm vóc sử thi đại diện cho cả cộng đồng. E.G.Ruđneva khi căn cứ vào tính chất và
đặc trưng của nó thì gọi là cảm hứng anh hùng, theo ông, nó “biểu hiện xu hướng của nghệ sĩ muốn


thể hiện cái cao cả của con người làm nên chiến công vì sự nghiệp chung, muốn khẳng định tính
cách của con người đó trong ý thức xã hội, khẳng định cái đạo đức sẵn sàng lập chiến công.” [65,
tr.151].
Sự nghiệp sáng tác trường ca của Thanh Thảo đến nay đã ra mắt chín bản trường ca (mới đây
tác giả mới cho in toàn tập). Trường ca của ông đều sáng tác khi đất nước đã thống nhất nhưng qua
quá trình tìm hiểu chúng tôi vẫn khẳng định rằng, cảm hứng sử thi vẫn là một dấu ấn đậm nét trong
các sáng tác của ông.
1.1.1. Cảm hứng về lịch sử
Có thể thấy rằng, cảm hứng sử thi trong văn học trước 1975, đặc biệt ở giai đoạn kháng
chiến chống Mỹ được thể hiện khá đậm nét. Thực tế lịch sử lúc đó đã hình thành một nền văn học
“sử thi hóa” hết sức khỏe khoắn. Đó là nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu: “Hoàn
cảnh lịch sử, cuộc sống, tâm lí tinh thần, tư tưởng thời đại chi phối một cách chặt chẽ, chi tiết, chi
phối đến từng con chữ của người nghệ sĩ” [118, tr.128]. Nền văn học đó không phải của những số

phận cá nhân mà là tiếng nói của cả một cộng đồng dân tộc trước thử thách quyết liệt: Tổ quốc còn
hay mất. Đây là văn học của sự kiện lịch sử, của số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân
vật trung tâm là những con người gắn bó số phận mình với số phận đất nước và kết tinh những
phẩm chất cao quý của cộng đồng. Người cầm bút nhân danh cộng đồng mà ngưỡng mộ, ngợi ca
người anh hùng với những chiến công chói lọi. Khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng
mạn. Trong mất mát, gian khổ, tâm hồn con người vẫn luôn hướng về lí tưởng, tương lai với sự lạc
quan, tin tưởng:
Xuân ơi xuân em mới đến dăm năm
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội
(Tố Hữu- Bài ca mùa xuân năm 1961)
Cảm hứng lãng mạn không chỉ sôi nổi trong thơ mà còn cả trong văn xuôi. Từ tiểu thuyết,
truyện ngắn đến bút kí, tuỳ bút đến kịch bản sân khấu đều rất giàu chất thơ. Hướng vận động của cốt
truyện, số phận nhân vật, dòng cảm nghĩ của tác giả hầu như đều đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian
khổ đến niềm vui, từ hiện tại đến tương lai đầy hứa hẹn. Ở thể loại văn xuôi, những tác phẩm tiêu
biểu là Xung kích, Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), tập truyện Tây bắc (Tô Hoài), Đất nước đứng lên,
Rừng xà nu (Nguyên Ngọc- Nguyễn Trung Thành), Người mẹ cầm súng, Những đứa con trong gia
đình (Nguyễn Thi), Họ sống và chiến đấu (Nguyễn Khải)… Các nhà thơ tiêu biểu cho đặc trưng
này là Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Chính Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh
Xuân… Hình tượng thơ luôn mang tầm khái quát, thể hiện sức mạnh của nhân dân, niềm tin vào


cách mạng, vào ngày toàn thắng của dân tộc. Vì thế, hình tượng Tổ Quốc, người anh hùng được
ngợi ca giòn giã:
Thơ ta ơi! hãy cất cao tiếng hót
Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta!
(Tố Hữu- Mùa thu mới)
Đất nước
Của những dòng sông
Gọi tên nghe mát rượi tâm hồn
(Nam Hà- Chúng con chiến đấu)

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
(Lê Anh Xuân- Dáng đứng Việt Nam)
Cho nên, đúng như tác giả Trước đèn… thơ nhận xét: “toàn bộ thơ chống Mỹ là khúc hát
“giọng cao”, trong đó mỗi con người và giọng điệu riêng tư của họ hòa trung trong khúc hát
“giọng cao” của thời đại” [56, tr.31].
Tuy vậy, cảm hứng sử thi không có nghĩa là cái nhìn ở mọi tác giả hay tác phẩm đều “là dàn
hợp xướng” giống nhau; trái lại mỗi cây bút có tài đều đánh dấu một diện mạo riêng trong sáng tác
của mình. Thanh Thảo là một cây bút thơ như vậy, đặc biệt ở thể loại trường ca.
Trước tiên, phải khẳng định rằng trường ca hiện đại là một kiểu tác phẩm trữ tình dành nhiều
ưu thế khi tác giả muốn thể hiện cảm hứng sử thi. Dung lượng đồ sộ của nó trong việc không hạn
chế số lượng câu thơ, không quy định chặt chẽ thể thơ “Trường ca- một kiến trúc tổng hợp của thơ
ca” (Thu Bồn) đã là một lựa chọn lí tưởng để nhà thơ tha hồ đào sâu từ cảm hứng về lịch sử.
Tiếp xúc với hệ thống trường ca Thanh Thảo, điều chúng tôi nhận thấy trước tiên ở nhà thơ
là khả năng khái quát sự kiện đã ghi dấu trong hành trình lịch sử giữ nước của dân tộc ta.
Nếu như trong kháng chiến chống Mỹ “xu hướng gắn bó với các sự kiện lịch sử, những chiến
công oanh liệt của quân và dân ta, những gương anh hùng dũng cảm trong chiến tranh… yêu cầu
phản ảnh chân thật, hùng hồn những biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến
tranh…, đã làm hình thành một nền văn học “sử thi hóa” hết sức khỏe khoắn, lạc quan, đầy tính
lãng mạn cách mạng, luôn luôn có xu hướng vươn đến những tầm khái quát kì vĩ” [56, tr.12] thì thời
gian hòa bình đủ để nhà thơ bình tâm nhìn lại lịch sử. Vì thế, cảm hứng sử thi tuy vẫn hiện diện như
một quán tính của nền văn học sau 75 nhưng đã có những sắc thái khác. Với Thanh Thảo, trên con
đường thơ của mình, ông vẫn ngưỡng vọng về quá khứ oai hùng của dân tộc vừa tự hào, vừa nhận


thức. Trong toàn bộ sáng tác trường ca của ông đến nay có tới năm tác phẩm lấy cảm hứng trực tiếp
từ sự kiện lịch sử của dân tộc. Đó là hành trình thế hệ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ở trường ca
Những người đi tới biển; là sự kiện Mỹ Lai được biết đến trong vụ tàn sát đẫm máu, vô nhân đạo

của kẻ thù với 504 thường dân vô tội vào ngày 16 tháng 3 năm 1968 trong Trẻ con ở Sơn Mỹ; là
cuộc khởi nghĩa Ba Tơ của người tù căng an trí trong kháng chiến chống Pháp 1945 trong Bùng nổ
của mùa xuân; là cuộc khởi nghĩa của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đứng lên chống Pháp
trong Những nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tất cả đều là những sự kiện viết nên những trang sử vừa đau
thương, vừa oai hùng của dân tộc ta trong công cuộc đấu tranh gìn giữ quê hương xứ sở. Những sự
kiện lịch sử đó cũng là điểm tựa để chủ thể trữ tình khơi nguồn cảm hứng cho những bản trường ca
vừa giàu tình cảm, vừa đậm chất trí tuệ của nhà thơ.
Hoàn thành sau ngày toàn thắng chưa được bao lâu (năm 1977) nhưng trường ca Những
người đi tới biển đã đúc kết cả một cuộc chiến tranh 30 năm dài đằng đẵng của dân tộc để tới ngày
“đi tới biển”. Với kết cấu ba chương gồm mười hai khúc và một phần vĩ thanh, bản trường ca là
niềm tự hào và cũng những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con đường đi đến chiến thắng của
dân tộc. Ở trường ca này, cảm xúc của nhà thơ song hành với con đường gian lao mà đầy bi tráng
của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ta bắt gặp trong bản trường ca dài ngót 1250 câu
này nhiều hình ảnh, nhiều cảnh sinh hoạt, chiến đấu của các chiến sĩ, của những số phận cá nhân
trong đời sống chiến đấu chống kẻ thù xâm lược là đế quốc Mỹ. Qua đây, người đọc thế hệ đương
thời có dịp nhận thức lại quá khứ, còn người đọc thế hệ sau hiểu rõ hơn tâm hồn, suy nghĩ của nhân
dân ta trong những ngày tháng đầy bi tráng.
Viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, trường ca Thu Bồn tái hiện không khí gay gắt, ngùn
ngụt lửa chiến tranh:
Mây đen đè nặng trăng không sáng
Loang lổ trời đêm máu tím bầm
Rặng núi nặng nề ôm mây ngủ
Nghe vẳng phương xa tiếng sấm gầm
(Thu Bồn- Bài ca chim Chơ rao)
Sự ác liệt của cuộc chiến không được Thanh Thảo mô tả trực tiếp như vậy mà chủ yếu được
khắc họa qua đời sống chiến đấu của các chiến sĩ. Trường Sơn hùng vĩ nhưng là những nhọc nhằn
khôn cùng với người ra trận. Không phải “đường ra trận mùa này đẹp lắm” mà là:
Trường Sơn thác bay trong mây
đá tai mèo xô ngang ngực
(Những người đi tới biển)

Nếu Trần Mạnh Hảo vẫn nhìn đoàn quân ra trận với niềm tự hào xen chút lãng mạn:


Thế hệ chúng con đi như gió thổi
Áo quân phục xanh đồng sắc với chân trời
thì Thanh Thảo lại nhìn cuộc chiến bằng con mắt “thư kí thời đại”. Đường ra chiến trường ngoài
phút giây sống chết với kẻ thù còn là điều kiện chiến đấu khắc nghiệt mà người lính thường xuyên
phải đối mặt. Đó là mùa mưa dữ dội của Trường Sơn, là đàn vắt xanh đói máu, là lưng gùi nặng trĩu
bấm chặt bàn chân:
Năm ấy mùa mưa rừng đưa lưng chịu cả bầu trời
đàn vắt xanh chuyển lào xào sau lá
chúng tôi gùi thâu đêm
chân dép đạp lối mòn vệt lân tinh mờ nhạt
(Những người đi tới biển)
Bằng sự trải nghiệm nghiêm túc, Thanh Thảo viết những câu thơ đậm chất hiện thực:
Hùng ơi tao đã qua đây
dòng thư ai khắc bằng mũi dao găm

hàng chục vạn bức thư như thế
cây Trường Sơn giấu trong từng thớ gỗ
những bức thư truyền qua tháng qua năm
là thông điệp của một thời gian khổ
(Những người đi tới biển)
Với chi tiết có một không hai từ “hàng chục vạn bức thư” đặc biệt khắc trên thân cây dọc con
đường Trường Sơn huyền thoại đủ hiểu rằng dân tộc ta đã phải cam lòng đưa hàng vạn người con ra
mặt trận mà không ít trong số đó đã dừng lại “mãi mãi tuổi hai mươi” ở nơi rừng thiêng nước độc:
Ngày dân tộc tụ về đường số Một
lòng không nguôi thương những cánh rừng này
nơi hàng vạn đứa con nằm lưng đèo cuối dốc
dọc theo lối mòn chìm khuất dưới tầng cây

(Những người đi tới biển)
Thanh Thảo nhìn vào cuộc chiến ở khía cạnh hiện thực trần trụi, khốc liệt. Ngòi bút nhà thơ
không lảng tránh mà trái lại, là sự đối mặt, nhưng nhờ đó người đọc cảm nhận chân thực sự ác liệt
và tàn khốc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Cảm hứng về cuộc chiến tranh chống Mỹ được Thanh Thảo tiếp tục trở lại trong trường ca
Trẻ con ở Sơn Mỹ hoàn thành năm 1978. Tác phẩm là kết quả sau hơn một tháng tác giả đi thực tế
sống cùng bà con Sơn Mỹ và hai năm nghiền ngẫm để cho ra đời tác phẩm. Ở trường ca này, nhà


thơ không tái hiện quá khứ đau thương, hiện thực tội ác để nuôi chí căm thù. Bằng tâm thế của một
người con quê hương Quảng Ngãi, Thanh Thảo sống nỗi đau thảm sát, đau nỗi đau mất mát của
người còn sống, và trên hết là sự thấu hiểu cuộc sống của những người dân bước ra khỏi cuộc chiến
với vô cùng đau thương và nghèo khó nhưng những con người khắc khổ ấy vẫn nhìn quá khứ tàn
khốc bằng cái nhìn hàn gắn của hy vọng và tương lai. Tiêu đề Trẻ con ở Sơn Mỹ là một ẩn dụ giàu ý
nghĩa: cuộc sống từ mảnh đất máu sẽ bắt đầu từ những đứa trẻ và vì thế hệ trẻ:
Và trẻ thơ cười khóc
và trẻ thơ chạy chơi
hát đồng ca trong lớp
hát đơn ca ngoài đời
bên máu người ngã xuống
nở căng những vồng khoai
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Công việc đầu tiên của người lính trở về sau cuộc chiến là vun xới một màu xanh, màu xanh
của hoà bình, bình yên và hy vọng:
Anh sẽ bắt đầu trở lại
trồng một cây dương non
gỡ hết mìn dưới nền nhà mình
đời sống cứ trào lên phía trước
anh sẽ nhớ sẽ quên
như mọi người trong cuộc

(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Nếu tình yêu quê hương thường xuất phát từ những ấn tượng tốt đẹp thì tình thương quê lại
bắt nguồn từ những gian khổ, thiệt thòi mà quê hương phải chịu. Thanh Thảo rưng rưng cảm động
hiểu ra tấm lòng đáng quý ấy của những người con Sơn Mỹ:
Múc từng gầu nước tưới mạ khô
những giếng sâu lắm phen chừng muốn cạn
tôi mới hiểu vì sao lúa chín
vì sao những bầy chim không bỏ được nơi này
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Suy cho cùng, con người ta trải qua bao gian khó, đau khổ, hy sinh cũng vì bình yên cuộc
sống, vì hoà bình chứ không phải để ôm ấp đau thương, nuôi lòng thù hận. Khai thác cảm hứng từ
lịch sử nhưng không hề xa vời với tâm tư con người, trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ của Thanh Thảo
xứng đáng được xếp vào những trường ca hay của văn học Việt Nam hiện đại.


Chính Thanh Thảo đã có lần nói: “Thể loại anh hùng ca thường gắn với những thời điểm
trọng đại của lịch sử, nó trước tiên là kết quả của sự lựa chọn tư tưởng của nhà thơ, nó luôn cực
đoan trong sự khách quan, nó là lịch sử được hát lên, là văn xuôi được trào lên như phun thạch núi
lửa.” [99, tr.82]. Tiếng hát ấy tiếp tục được Thanh Thảo cất lên trong trường ca Những nghĩa sĩ Cần
Giuộc (1980), Bùng nổ mùa xuân (1982) viết về cuộc kháng chiến chống Pháp. Cùng với Trẻ con ở
Sơn Mỹ, bộ ba trường ca này in chung với tên gọi Những ngọn sóng mặt trời đã vinh dự nhận giải
thưởng thơ của Ban Văn học quốc phòng- Hội nhà văn Việt Nam 1995.
Nội dung bao trùm của hai tác phẩm là sự lí giải ngọn nguồn đi đến chiến thắng của dân tộc
trong việc khẳng định sức mạnh quần chúng nhân dân. Trường ca Những nghĩa sĩ Cần Giuộc thấm
đẫm chất sử thi về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân ta trong ngày đầu chống Pháp. Không khí
ngày đầu bọn thực dân xâm lược bờ cõi được Thanh Thảo tái hiện bằng những câu thơ đầy hình ảnh
sống động:
Những nòng đại bác đen ngòm há hoác
chĩa thẳng vào thịt da ta
những gã Tây dương trên boong tàu nhốn nháo

...
bùm! bùm! bùm! bùm!
nơi tàu sắt khạc vào những quả đạn sắt đầu tiên
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Thờ ơ với vận nước, triều đình bạc nhược vẫn ung dung hưởng thụ những xa hoa vật chất đối lập
với đời sống lầm than trăm họ:
Vua rung đùi uống rượu bình thơ
gạo lên giá mùa màng thất bát
trăm họ đói bỏ quê nhà lưu lạc
những lăng tẩm phô trương sự bất tử ngu đần
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Trong tình cảnh đó, những người nông dân đã tự nguyện đứng lên đánh giặc:
Thôi triều đình đừng lén lút thưởng ban
không ai tặng huân chương cho cây bình bát
nước có giặc thì ta đánh giặc
cần chi phải lắm lời
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)


Không cần thứ lí thuyết cao siêu, không biết đến định nghĩa lí tưởng; chân lí của người nông dân
chân chân đất vô cùng giản dị: “nước có giặc thì ta đánh giặc”. Suy nghĩ ấy mộc mạc, chân thật mà
cao quý như chính tâm hồn muôn đời của người nông dân Việt Nam.
Nếu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu tạc vào văn học một tượng đài bất
hủ về người nông dân thì trường ca Những nghĩa sĩ Cần Giuộc của Thanh Thảo đã thấu hiểu tận
cùng tâm hồn họ, ghi nhận công lao mở đất, khai mở trang đầu trong cuốn sử hiện đại chống thực
dân đế quốc.
Ở Bùng nổ của mùa xuân cảm hứng lịch sử gắn liền với cuộc nổi dậy của những người tù
căng an trí Ba Tơ Quảng ngãi- quê hương của chính nhà thơ. Lần đầu tiên, ngay tại nhà tù giặc, lá
cờ Việt Minh được phất cao trong sự run sợ của kẻ thù. Bản trường ca với cấu trúc giao hưởng trọn
vẹn đã khái quát lịch sử yêu nước từ những ngày đầu gian khó để tìm đến cách mạng, nung nấu ý

chí cho đến ngày thành sức mạnh bùng nổ:
Mắt ta khô vì lửa
tay ta hừng lên vì gió
ngực ta rung mối hận truyền đời
đánh thằng Tây
(Bùng nổ của mùa xuân)
Nguyễn Văn Dân đã nhận xét có lí rằng: ngoài sự thôi thúc của nhận thức sáng tạo của nhà
thơ thì “trường ca ra đời là do yêu cầu của lịch sử” và “lịch sử giữ nước hào hùng của dân tộc đã
thôi thúc sự ra đời của một loạt trường ca sau 1975” [Đối thoại về trường ca Việt Nam hiện đại,
nguồn vanhocquenha.vn]. Quả vậy, cảm hứng về lịch sử là hạt giống mà Thanh Thảo lựa chọn để
gieo vãi trên cánh đồng trường ca bất tận của mình mà trái chín thu đuợc là tư tưỏng về nhân dân
mang chiều sâu ý nghĩa của nhà thơ.
1.1.2. Tư tưởng nhân dân
Trường ca là thể loại giúp nhà thơ thể hiện tình cảm lớn lao trước hiện thực cách mạng của
dân tộc và thời đại. Với cảm hứng sử thi, nhà thơ ưa suy ngẫm như Thanh Thảo lại tìm về tư tưởng
nhân dân.
Tư tưởng nghệ thuật là tứ thơ lớn của trường ca: “Tư tưởng trong trường ca là một hệ thống
nhận thức, bao quát một khu vực lớn trong ý thức của người viết trước cuộc sống... Tư tưởng bao
giờ cũng là kết quả của những quan sát, những chiêm nghiệm kết hợp với những suy tưởng” [57,
tr.121]. Như vậy, tư tưởng trong trường ca được biểu hiện thành một hệ thống các quan điểm của
nhà thơ về một khái niệm có nội hàm rộng. Muốn vậy nó phải xuất phát từ tình cảm nồng nhiệt, từ
sự nghiền ngẫm chín muồi của nhà thơ. Xác định được tư tưởng nghệ thuật giúp người viết lựa chọn


kết cấu, ngôn ngữ, biểu tượng và giọng điệu phù hợp. Tư tưởng cũng thể hiện tài năng người làm
thơ: “Cảm xúc từ trái tim- Tư tưởng sáng trong đầu” (Nguyễn Đức Mậu)
Trong lí tưởng của người Hy Lạp cổ đại, chưa xuất hiện tư tưởng về nhân vật quần chúng.
Nhân vật Uylitxơ trong trường ca sử thi Iliat và Ô-đi-xê của Hômerơ chỉ là hình ảnh lí tưởng về
người anh hùng trong mơ ước của nhân dân. Nhân vật lí tưởng ấy được tưới lên một thứ nước thánh
(Uylitxơ trí tuệ "sánh với thần linh", dũng cảm, mưu trí, có nghị lực phi thường, giàu lòng yêu

thương, độ lượng, thủy chung...) làm cho lung linh nhưng lại xa vời, thiếu chân thực. Đó là những
nhân vật "ngoại hiện"- tức là có sự thống nhất giữa bản chất thật và sự biểu hiện ra bên ngoài, như
Bakhtin nhận xét: "Ở con người ấy chẳng có gì phải tìm tòi, ức đoán, không thể lột mặt nạ nó" [ 7,
tr.68].
Trong nền văn học hiện đại nước ta, đặc biệt là văn học cách mạng, tư tưởng nhân dân không
mới. Tuy nhiên, tư tưởng ấy đã được nội cảm qua đường kênh người nghệ sĩ mà mỗi nghệ sĩ là môt
vũ trụ riêng. Nhân dân trong thơ Tố Hữu là hình ảnh người dân công tải đạn, anh bộ đội, mẹ Suốt,
vị lãnh tụ kính yêu. Trong văn xuôi Nguyên Ngọc là những cá nhân ưu tú của đất Tây Nguyên khoẻ
khoắn từ thể chất đến tinh thần dẫn dắt cộng đồng đến với cách mạng... Ở thể loại trường ca hiện
đại, Nguyễn Khoa Điềm trong Mặt đường khát vọng tìm về với nguồn mạch văn hoá dân tộc để
khẳng định “Đất nước này là đất nước của nhân dân”
Tư tưởng về nhân dân trong trường ca Thanh Thảo trước hết thể hiện qua hệ thống nhân vật
phong phú trải dài theo lịch sử dân tộc. Họ là những nông dân nghèo tứ xứ phiêu dạt xuống vùng
đất phía nam khẩn hoang, là những anh hùng vị nghĩa như Nguyễn Trung Trực, Trương Định, là
nhà thơ tiết nghĩa Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, là người du kích Ba Tơ, là chiến sĩ cách mạng
tù đầy, là người mẹ, người chị, người em, đồng đội trong kháng chiến, là thế hệ thanh niên giàu
nhiệt huyết trong kháng chiến chống Mỹ, những người được gọi tên và những người vô danh, những
người còn sống, người đã khuất...
Trong cái nhìn của Thanh Thảo, nhân dân là những con người bình dị trong cuộc sống đời
thường, cuộc sống hoà hợp với tự nhiên:
Họ sống lẫn mặt trời bóng tối
cảm hết các mùa thay đổi trên da
qua dòng sông nghe giọng nói rừng già
trông sắc mây tính ngày mưa nắng
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Nếu tầng lớp vua quan tham vọng xa hoa ngay cả khi đã chết qua những lăng tẩm kiên cố thì
trong suy nghĩ người dân bình thường, cả lúc từ giã cõi trần cũng hết lòng nghĩ cho người còn sống:
Người già chết lại về gò núi ở



Để đất bằng cho con cháu sinh sôi
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Hình ảnh nhân dân hiện thân ngay trong hành động dũng cảm của những em nhỏ:
Em bé này đã che đạn cho tôi
từ buổi sáng tôi chưa về Sơn Mỹ
em bé này đã che đạn cho anh
dẫu suốt đời chỉ một lần anh cầu mong che chở
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Nhà thơ hiểu rằng, không ai khác, chính nhân dân là ngọn nguồn sức mạnh. Những ngày đầu
chứng kiến cảnh giặc Pháp đổ bộ thay vì chuẩn bị đối phó với giặc, người đứng đầu là vua lại "rung
đùi uống rượu làm thơ", tự ru ngủ mình trong lí lẽ "giang san ta bền vững tựa vạc đồng", cách đối
phó với giặc chỉ là sự thỏa hiệp ngu ngốc và bất lực:
Thôi các khanh hãy cho trẫm yên
hãy làm văn tế cho kẻ đã bỏ mình
hãy phát chẩn cho vợ con họ
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Khi Tổ quốc nguy nan, chỉ có những người dân ngày thường hiền lành chất phác, những con
người đa số không được áp chế những "lớp từ chương xác ướp", những người "đã sống mỗi ngày
vài bữa cơm không no đủ" lại là người hiểu rõ phải làm gì. Chính họ dám đứng lên đầu tiên cầm vũ
khí thô sơ đánh giặc từ những ngày đầu Pháp đổ bộ xâm phạm bờ cõi:
Nếu không có các anh
rút lưỡi dao phay trong bếp nhà mình
chặt ngọn tầm vông trong vườn nhà mình
lao thẳng vào chúng nó
...
Nếu không có các anh
ngã xuống như muôn ngàn đợt sóng
dải đất này sẽ trôi dạt về đâu?
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Tư tưởng về nhân dân giúp Thanh Thảo hiểu rằng, sức mạnh nhân dân là sức mạnh tiềm ẩn,

quật cường, sức mạnh của ý chí xoá sổ ý đồ huỷ diệt của quân thù bằng bom đạn tối tân:
Chúng nó làm sao giết được
những hạt thóc vùi trong đất
lại hiện lên giữa những lưỡi cuốc cùn


trên lượn sóng phù sa mới đắp
trong ngọn gió cuối mùa cay nghiệt
cần vọt kêu kẽo kẹt suốt đêm dài
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Bằng hình ảnh sóng giàu sắc độ biểu trưng, tác giả khẳng định sức mạnh muôn đời của nhân dân ta:
Những cuộc đời như sóng
lớp lớp lặng chìm lớp lớp trào lên
(Những người đi tới biển)
Đồng tình với Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo cũng đặt niềm tin vào sức mạnh kiên cường
của nhân dân:
Nhân dân sống nhân dân làm lụng
Áo vá vai lòng thơm thảo lành nguyên
Nhân dân căm hờn như núi dựng chông
Nhân dân yêu thương đồng dâng gạo trắng
Bom đạn từ trời cao ném xuống
Nhân dân từ ruột đất trồi lên
(Con đường của những vì sao- Nguyễn Trọng Tạo)
Tìm về nguồn mạch truyền thống anh hùng của nhân dân cũng chính là đã giúp cho thế hệ
thanh niên chống Mỹ nhận ra con đường đi đúng đắn của mình, đó là con đường hòa vào biển lớn
nhân dân, đúng như Bùi Công Hùng nhận xét: "Chính những chiêm nghiệm bên trong này làm nên
sự tổng kết bề sâu về lịch sử, về qua trình nhận thức của cả một thế hệ, một thời đại" [40, tr.125]
Trường ca Những người đi tới biển tổng kết hành trình dài của dân tộc đi đến thắng lợi cũng
là hành trình tư tưởng của cái tôi thế hệ tự nguyện lên đường cầm súng chiến đấu vì độc lập dân tộc.
Vẫn biết rằng cuộc đời mỗi con người là quý giá nhưng Tổ quốc thiêng liêng đã qua bao thế hệ nhân

dân gìn giữ thì không có lí gì lại từ bỏ để mặc cho đế quốc giày xéo nên con đường đúng là con
đường ra đi:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươI thì còn chi cho Tổ quốc?
(Những người đi tới biển)
Đằng sau lời bộc bạch chân thành ấy là tấm lòng yêu nước tha thiết, sự trưởng thành vững
vàng trong suy nghĩ của một thế hệ thanh niên đã góp phần làm nên những trang sử vàng của thời
đại. Đi suốt chặng đường chống Mỹ của dân tộc, bằng trái tim nhạy cảm, nhà thơ nhận ra tầng sâu
triết lí về nhân dân:


Và cứ thế nhân dân thường ít nói
như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
(Những người đi tới biển)
Tư tưởng về nhân dân với Thanh Thảo không cao siêu xa lạ mà gần gũi từ những gì ta đã biết
và vẫn thấy:
Khi các thần tiên đã an nghỉ tận trời
nhân dân tôi khởi lên tự phù sa vất vả
tự điệu múa hồn nhiên trên vách đá
người mang gươm đi mở nước đến bây giờ
(Những người đi tới biển)
Nếu cái tôi trong thơ Mới buồn u trong cuộc đời thực, quẩn quanh tìm lối thoát nhưng không
biết ra đường nào, đành tìm cách thoát tục vào cõi mộng, cõi say, lên cung trăng hay quá bước tận
cõi thiên thai mà vẫn cô đơn hoang lạnh thì cái tôi trữ tình trong trường ca Thanh Thảo đã tìm ra lẽ
sống cho cuộc đời mình:
Chưa dò tới khoảng sâu đời bạn
mỗi đời riêng suối chảy lẻ dòng

nếu không tụ lại thành sông lớn
thì bao giờ thấy biển mênh mông
(Bùng nổ của mùa xuân)
Hoà mình vào nhân dân, đem cuộc đời mình thực hiện lí tưởng của nhân dân chính là khi cái
tôi nhà thơ tìm thấy chân trời rộng mở. Nhà thơ nguyện như hạt muối nhỏ nhoi mang trong mình vị
mặn mòi biển cả nhân dân- đó là niềm hạnh phúc:
Cho tới khi tôi hoà nhập cùng người...
khi đó tôi thành hạt muối nhỏ nhoi
đọng mặt trời tan trong nước
đi lại dễ dàng giữa hai bờ sống chết
lấp lánh lặng im ca hát mặn mòi
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Nhân dân chính là nơi cái tôi trữ tình luôn tìm thấy cho mình những giá trị cuộc sống, là
niềm an ủi tâm hồn nhà thơ:
Tôi đã thấy
trong tia chớp


vẻ rạng rỡ tình yêu
trong mắt nhìn sâu thẳm tựa mùa thu
ánh dịu dàng làm ta muốn khóc
đi mãi suốt đời mà không sao hiểu hết
sau mỗi khúc quanh lại gặp con đường
(Bùng nổ của mùa xuân)
Tư tưởng về nhân dân, không đóng khung trong ý nghĩa đã được khám phá, với Thanh Thảo,
tìm về nhân dân sẽ vẫn còn là mục đích cuộc đời và nghệ thuật của mình vì đúng như nhà thơ thổ lộ:
Những người tôi quen biết
những người tôi chưa một lần gặp mặt
mỗi cuộc đời như quyển sách mở ra
không tài nào ta đọc xong trang chót

(Những người đi tới biển)
Như vậy, cảm hứng sử thi trong trường ca Thanh Thảo được viết nên từ sự trải nghiệm thực
tế và những suy tư đầy chất trí tuệ. Tầm vóc anh hùng của dân tộc được nhận ra không phải một
chiều phiến diện của cảm xúc lãng mạn cách mạng mà ở cái nhìn chiều sâu biện chứng, đúng như
nhận xét: “Những trường ca thành công nhất là những trường ca thể hiện sinh động hiện thực- lịch
sử và hiện thực- tâm trạng, giàu kịch tính nội tại, đạt đến những suy tư sâu sắc về Tổ quốc và Nhân
dân” [40, tr.125]
1.2. Cảm hứng đời tư, thế sự trong trường ca Thanh Thảo
Văn học nghệ thuật luôn đòi hỏi sự làm mới chính mình. Một tác giả dù gặt hái thành công
bao nhiêu với đứa con tinh thần cũng không nên đi mãi vào con đường mòn do mình tạo ra. Vì vậy,
tìm tòi, sáng tạo để tự đổi mới là một yêu cầu luôn đặt ra với mỗi nghệ sĩ: "Văn chương suy cho
cùng là việc tạo ra bản sắc độc đáo của từng ngòi bút, tiếng nói riêng độc đáo của từng nghệ sĩ"
[56, tr.28-29].
Trên hành trình thơ ca của mình, Thanh Thảo không dừng lại ở cảm hứng sử thi. Tiếp tục
gieo mùa gặt mới còn là cảm hứng đời tư, thế sự với các trường ca được sáng tác ở thời gian sau
này.
Suy cho cùng, tác phẩm ra đời cũng nhằm hướng đến một đối tượng độc giả cụ thể. Sự thay
đổi vừa để phù hợp với yêu cầu nội tại bản thân tác giả nhưng đồng thời cũng để đáp ứng nhu cầu
nhận thức, thẩm mỹ của thời kì mới. Nhiều nhà nghiên cứu thường nhắc đến giọng điệu nhất quán
"sử thi hóa" trong những tác phẩm văn học trước 75; thậm chí sau này còn có ý "chê" là không thật
với tâm tư, tình cảm con người; có phần phủ nhận giá trị hoặc có chăng chỉ công nhận chút ít thành


tựu văn học sử thi mà không nghĩ rằng, có những lúc con người ta cần khiêm nhường cái tôi để
nâng cái ta lên, đến lúc đó văn học mới đạt được mục đích vì con người.
Ai cũng biết rằng, một dân tộc vừa đi qua hai cuộc kháng chiến kéo dài thì thời gian sau ngày
giải phóng để hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục những ngang trái vô lí trong đời sống xã
hội ở giai đoạn cái cũ chưa hẳn bị loại bỏ, cái mới chưa kịp định hình thật là những chuỗi ngày đầy
khó khăn. Thơ ca lại càng nhạy cảm với những vấn đề xã hội đó. Vì thế, xu hướng đời thường thế
sự là một đặc điểm của văn học nước nhà sau 75: "Không còn chỉ tập trung ca ngợi cuộc chiến đấu

của dân tộc vừa qua, nhà thơ suy ngẫm về cuộc sống thường nhật đầy lo toan, khó khăn với một nội
tâm đầy băn khoăn, chen lẫn ánh sáng và bóng tối, "chập chờn bất định" giữa hiện tại và tương
lai…" [56, tr.26]. Có thể nói, cảm hứng thế sự xuất hiện rõ rệt trong thơ từ nửa đầu thập niên 80 của
thế kỉ XX như một cơn giông lớn tích tụ nhiều trăn trở, u uất cho cơn bão Đổi Mới, thực sự "cởi
trói" cho văn học sau Đại hội Đảng lần thứ VI. Tuy vậy, nhắc đến trường ca với ưu thế ở dung
lượng lớn thì các tác giả ít bắt đầu bằng cảm hứng thế sự. Ở Thanh Thảo lại khác, sự hấp dẫn người
đọc còn ở những trường với cảm hứng đời tư, thế sự lấp lánh chất trí tuệ của ông.
1.2.1.Cảm hứng đời tư- Nỗi ám ảnh đời lính và sự suy tư của nhà thơ
“Nhà thơ không thể giấu mình, trong thơ anh ta phải đối diện với chính bản thân” [70, tr.71].
In dấu trong trường ca Thanh Thảo còn là một Thanh Thảo từng khoác trên mình màu xanh áo lính
và Thanh Thảo nhà thơ.
Ở trường ca hiện đại thường thiên về yếu tố trữ tình hơn tự sự, Thanh Thảo cũng vậy, yếu tố
trữ tình được nhà thơ đắc dụng trong việc bày tỏ cái tôi cá nhân. Từ trường ca đầu Những người đi
tới biển đến trường ca mới xuất bản năm 2009 Metro, ta thấy, chưa bao giờ nhà thơ nguôi ngoai về
một thời từng là lính. Với ông đó là một quãng đời đầy gian khổ nhưng vô cùng giá trị để rồi sau
này, trong cuộc sống hiện đại với nhiều xô bồ được- mất, nhà thơ lại hoài niệm về nó như là một
chỗ dựa tinh thần, một niềm an ủi.
Đọc trường ca Khối vuông ru bích không hiểu sao cứ khiến ta hình dung ra một cách tượng
hình hình ảnh một người đàn ông ngồi trong căn phòng trống không, mắt nhìn chăm chú vào khối
vuông ru bích không ngừng được xoay đi, xoay lại trên tay. Từ khối vuông đa màu sắc ấy, kí ức anh
hiện về những mảng không liền mạch. Những ô màu sáng và tối đan xen nhau, cả những màu âm u
và huyền bí… từ quá khứ chinh chiến. Màu sáng lóe lên khi nghĩ về một anh họa sĩ chưa kịp biết tên
cho nhóm sốt rét nhà thơ mấy lạng đường, để rồi; "Mười hai năm sau, thìa đường anh cho vẫn ngọt
trong cổ tôi". Làn gió mát lành thổi qua kí ức khi nghĩ tới một anh y tá Hải Ba khiêm nhường như
con gái, là người đầu tiên tác giả chép tặng thơ, và cũng là người đầu tiên tin vào khả năng làm thơ
của tác giả. Chưa kịp định hình lâu, thoáng màu xám lại hiện ra qua hình ảnh một tay trạm trưởng


hách dịch; một tay dẫn quân thúc những người lính đang sốt rét vật vã phải vượt trạm; một người
đồng đội ích kỉ: "Có anh chàng tên là Sanh, ngoài bốn mươi tuổi, chuyên ngủ khi mọi người dọn

bãi, lấy nước, nấu cơm… chuyên xơi của người khác. Cho đến điểm tập kết, khi chúng tôi cạn sạch
lương thảo thì anh vẫn trữ trong bòng hơn nửa kí bột ngọt, mấy kí đường. Sau đó chừng nửa năm,
anh ta đi chiêu hồi." (Khối vuông ru bích). Thì ra là vậy, giọng thơ lạnh như không nhưng sao chua
chát. Không phải ai cứ khoác trên người màu xanh áo lính thì đều là "đồng chí", trong trường hợp
này, sự ích kỉ cá nhân đã chiến thắng. Những câu thơ văn xuôi không cầu kì nhưng Thanh Thảo đã
dựng được đầy đủ tính cách của một bộ phận con người ở thời nào cũng có mà không kém hoàn
chỉnh như một nhân vật điển hình trong tiểu thuyết. Nhân vật trữ tình trong trường ca nhận ra rằng:
"Với tôi, thử thách ác liệt nhất trên Trường Sơn không phải là bom đạn hay sốt rét mà là ý nghĩ: ở
đây, chính nơi này sao vẫn còn người ác?" (Khối vuông ru bích). Sự đối lập ô màu trở nên gay gắt
khi vòng xoáy ý nghĩ chợt bừng lên khi nghĩ về một người lính bị tâm thần gặp ai cũng ôm chầm
vui vẻ tay bắt mặt mừng, tỏ ý sẵn sàng chữa hộ súng, để nhân vật trữ tình ngộ ra rằng: "Những
người tốt, dù lúc bị điên, hoàn toàn không làm chủ được mình, vẫn còn những biểu hiện của lòng
tốt. Nó là cái gì sâu xa, dai dẳng hơn ta tưởng" (Khối vuông ru bích). Màu nào khó phai trong kí ức
khi chủ thể trữ tình nghĩ tới những đồng đội vô danh nhưng sự hy sinh thầm lặng của họ làm ta rưng
rưng hiểu ra giá trị hồn thiêng Tổ quốc: "Tôi xoay những ô vuông. Bài hát "Những người bạn chết".
Tấm tăng xám quấn thân hình bạn. Không một chút lễ nghi. Đất bên bạn nằm bên ngoài biên giới.
Một lần nữa, đất rơi xuống. Không phải đất, mà là Tổ quốc, lặng lẽ phủ lên thi hài người lính trẻ".
(Khối vuông ru bích).
Bắt đầu khởi hành vào 21 giờ ngày 11 tháng 4 năm 2009 và kết thúc lúc 16 giờ 50 ngày 16
tháng 4 năm 2009, trường ca Metro là hành trình xuyên thấu kí ức của nhà thơ. Cuộc hành trình chỉ
diễn ra trong 6 ngày nhưng đó là sự dồn nén cao độ, thổn thức như một sự trả nợ với quá khứ
Trường Sơn, với bạn bè, đồng đội.
Người lính tuổi 20 năm nào giờ đây tóc đã phai màu ở cái tuổi 63 nhưng kí ức Thanh Thảo
chưa bao giờ nguội lạnh về một con đường đã trở thành biểu tượng cho sự kiên trì, bền bỉ của dân
tộc một thời- đường Trường Sơn. Với cá nhân nhà thơ, con đường gắn với những ám ảnh về sự vất
vả: "ba tháng trên Trường Sơn mới được húp bát canh rau muống đã đời". Nỗi cực nhọc luôn đè
nặng người chiến sĩ ngay cả trong giấc ngủ:
Nhiều đêm nằm mơ vã mồ hôi
thấy trước mặt mình núi dựng đứng
(Metro)

Dường như, những ám ảnh không chỉ chịu nằm yên ở tầng tiềm thức, thời gian càng trôi xa,
nó lại càng chui sâu, lặn mãi vào vô thức, dồn nén, tích tụ không tài nào bứt bỏ đi được nên cứ trở đi


×