1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhãn cầu là một hệ thống quang học cấu tạo rất tinh vi, trong đó
những thành phần quang học của hệ thống này có chiết suất khác nhau bao
gồm phim nước mắt, giác mạc, thể thủy tinh, dịch kính.Trên mắt chấn
thương và do các nguyên nhân khác mà một hoặc nhiều cấu trúc này không
còn nguyên vẹn sẽ dẫn đến sự khiếm khuyết trong hệ thống quang học
của nhãn cầu và chức năng thị giác suy giảm.
Trong trường hợp nhãn cầu không còn thể thủy tinh, đeo kính gọng,
đặt thể thủy tinh nhân tạo tiền phòng, hậu phòng là các phương pháp được
đề xuất nhằm khôi phục hệ thống quang học của nhãn cầu, trong đó đặt
thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng vào vị trí sinh lý của thể thủy tinh là rãnh
thể mi là mong muốn của các phẫu thuật viên. Thực tế cho thấy, trên
những bệnh nhân mất thể thủy tinh, không còn cấu trúc bao sau hoặc cấu
trúc bao sau không còn khả năng đỡ thể thủy tinh nhân tạo, phẫu thuật cố
định thể thủy tinh nhân tạo vào thành củng mạc với vị trí càng của thể thủy
tinh nhân tạo đặt trong rãnh thể mi,là vị trí gần với vị trí giải phẫu tự nhiên
của thể thủy tinh, giúp khôi phục cấu trúc sinh lý của nhãn cầu, do vậy cho
kết quả giải phẫu cũng như kết quả thị lực tốt nhất.
Rãnh thể mi là một cấu trúc của nhãn cầu không thể quan sát được
với các phương tiện khám bệnh thông thường như sinh hiển vi khám bệnh,
kính hiển vi gián tiếp, kính hiển vi phẫu thuật.
Đèn soi nội nhãn là một dụng cụ mới cho phép bác sỹ nhãn khoa
quan sát các cấu trúc bên trong nhãn cầu một cách chi tiết, đặc biệt là
những cấu trúc nằm ở vùng ngoại vi xa như võng mạc ngoại vi, pars
plana, thể mi và khe thể mi. Phương ti ện này là cách thức duy nhất để
2
tiếp cận các cấu trúc ở bán phần sau trong nh ững điều kiện đặc biệt như
trong các bệnh lý bán phần trước như giác mạc mờ đục, đồng tử co nhỏ,
bất thường thể thủy tinh, giúp phẫu thuật viên có thể quan sát và thực
hiện các phẫu thuật nội nhãn dễ dàng, chính xác hơn, nâng cao chất
lượ ng phẫu thuật và hiệu quả điều trị đối với bệnh nhân.
Vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu kết quả
của phẫu thuật cố định thể thủy tinh nhân tạo vào thành củng mạc
có sử dụng đèn soi nội nhãn” kết hợp kỹ thuật khâu dấu chỉ trong lòng
củng mạc nhằm nâng cao tính chính xác của phẫu thuật, hạn chế bi ến
chứng sau phẫu thuật t ừ đó nâng cao hiệu quả điều trị, tối ưu hóa thị lực
cho bệnh nhân với các mục tiêu sau:
1.
Mô tả đặc điểm lâm sàng của những mắt mất thể thủy tinh và
cấu trúc bao sau.
2.
Đánh giá kết quả của phẫu thuật cố định thể thủy tinh nhân tạo
vào thành củng mạc có sử dụng đèn soi nội nhãn.
3.
Phân tích các yếu tố liên quan đến kết quả phẫu thuật.
3
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm giải phẫu và sinh lý các cấu trúc giải phẫu của nhãn
cầu liên quan đến phẫu thuật, nguyên nhân mất bao sau của thể thủy
tinh
1.1.1. Thể thủy tinh
Thể thủy tinh một cấu trúc lồi 2 mặt nằm giữa mống mắt ở trước và
dịch kính ở sau. Mặt sau TTT cong hơn mặt trước. Ở người trưởng thành,
TTT có đường kính khoảng 10mm và dày 4mm. Cách xích đạo TTT một
khoảng 0,5mm là các tua thể mi của thể mi. Bao trước TTT dày hơn bao
sau và tăng chiều dày trong suốt cuộc đời. Ở xích đạo TTT, các dây chằng
cố định (dây Zinn), xuất phát từ thể mi, bám vào bao TTT theo một vùng
rộng 2,5mm. Các sợi dây chằng chia thành 2 phần, phần sau xuất phát từ
chỗ lõm của pars plana và phần trước xuất phát từ thung lũng giữa các tua
thể mi và từ các tua thể mi đến TTT.
Hình 1.1. Giải phẫu vi thể thủy tinh thể [1]
Chiết suất TTT thay đổi từ 1.406 ở vùng trung tâm đến 1.386 ở vùng
ngoại vi. Nguyên nhân là do những sợi tế bào gần bề mặt có chiết suất
khúc xạ thấp hơn những sợi nằm ở sâu, vì vậy làm giảm quang sai cầu và
5
tăng chất lượng tập trung ánh sáng. TTT ngăn cản phần lớn tia cực tím có
bước sóng dao động 300400nm. Những ánh sáng có bước sóng ngắn hơn
sẽ bị ngăn lại bởi giác mạc. Ánh sáng có mật độ tia cực tím cao có thể gây
tổn hại võng mạc, vì vậy TTT nhân tạo được thiết kế để ngăn chặn những
tia cực tím này [1]. Trên những người không có TTT (do nhiều nguyên nhân
khác nhau), tia cực tím sẽ đi vào nhãn cầu giống các ánh sáng có bước sóng
dài hơn như ánh sáng trắng, do vậy gây tổn hại cho các cấu trúc nội nhãn
[2].
1.1.2. Khe thể mi
1.1.2.1. Thể mi
Thể mi chạy vòng quanh mặt trong nhãn cầu và có hình tam giác ở
mặt cắt ngang. Cạnh trước của thể mi là cựa củng mạc, nằm lui về phía
sau vùng rìa khoảng 1,5mm ở kinh tuyến ngang và 2mm ở kinh tuyến dọc.
Nơi tận hết của thể mi tiếp nối với vùng ora serrata, cách vùng rìa 7,58mm
phía thái dương, 6,5 7mm phía mũi, 7mm phía dưới và phía trên. Đây cũng
gần tương ứng với vị trí bám của các cơ trực. Ở phía trước và phía ngoài,
thể mi tạo nên phần sau của góc tiền phòng. Mống mắt bám vào mặt trước
và trong của thể mi. Ở phía trong, thể mi nằm tự do và hơi ở phía trước
xích đạo thể thủy tinh. Ở phía ngoài, nó liền kề với củng mạc với sự có
mặt của khoang thượng hắc mạc ngăn cách giữa 2 cấu trúc này. Mặt trong
của thể mi tiếp xúc với dịch kính. Khoang trống được tạo bởi mặt sau của
mống mắt và mặt trước trong chỗ lồi ra của tua thể mi được gọi là rãnh
thể mi, hơi hướng ra trước.
1.1.2.2. Khe thể mi
Khe thể mi được tạo nên bởi mặt sau chân mống mắt từ vị trí xuất
phát ở thể mi. Khe này được giới hạn ở phía sau bởi các tua thể mi và ở
6
phía trong bởi dây chằng Zinn và hai mặt của thể thủy tinh ở vị trí xích đạo
[3]. Các yếu tố giải phẫu này làm cho khe thể mi trở thành một vị trí phù
hợp để đặt càng của thể thủy tinh nhân tạo. Cho dù vị trí lý tưởng để đặt
thể thủy tinh nhân tạo là trong túi bao, nhưng điều này không thể thực hiện
được nếu nhãn cầu không còn cấu trúc bao hoặc hệ thống dây chằng Zinn
tổn thương rộng, không đủ chắc chắn để nâng đỡ thể thủy tinh nhân tạo,
ví dụ như trong hội chứng giả bong bao.
Hình 1.2. Giải phẫu khe thể mi[4]
Năm 1993, Orgul S.I và cộng sự đã sử dụng siêu âm xác định chính xác
ranh giới khe thể mi trên mắt tử thi, nghiên cứu được thực hiện trên tổng
số 44 mắt, kết quả thu được ghi nhận trục nhãn cầu trung bình trong
nghiên cứu là 22,87 ± 0,86mm, đường kính khe thể mi dao động 10,56 –
11,90 mm, trong đó đường kính trung bình khe thể mi tại kinh tuyến ngang
là 11,08 ± 0,37mm, kinh tuyến đứng 11,39 ± 0,42mm, sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê. Chiều dài trục nhãn cầu có tương quan tuyến tính thuận
với đường kính khe thể mi. Đường kính thể mi rất dao động phù hợp nhiều
nhóm kích thước nhãn cầu khác nhau, nhãn cầu có trục ngắn hơn thì đường
kính thể mi nhỏ hơn [4].
Blum và cộng sự (1997) đã nghiên cứu sự thay đổi giải phẫu khe thể
mi liên quan đến tuổi trên nhóm 64 mắt tử thi của người từ 40 đến 80 tuổi.
7
Kết quả nghiên cứu cho thấy những đường kính đo được từ bên ngoài nhãn
cầu không có tương quan với độ tuổi. Ngược lại, theo tuổi kích thước thể
thủy tinh tăng dần và đường kính khe thể mi giảm dần ở các kinh tuyến.
Cụ thể đường kính đứng giảm từ 12,02 ± 0,12mm xuống còn 10,71 ±
0,91mm; đường kính ngang giảm từ 11,36 ± 0,21mm xuống còn 10,33 ±
0,67mm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở tất cả các nhóm tuổi. Nhóm tác
giả đi đến kết luận ngoài hiểu biết đã được ghi nhận về sự khác biệt giữa
đường kính kinh tuyến đứng và kinh tuyến ngang thì tuổi cũng là một yếu
tố cần cân nhắc để lựa chọn thể thủy tinh nhân tạo có kích thước phù hợp
khi thực hiện phẫu thuật cố định thể thủy tinh nhân tạo vào củng mạc [5].
Để xác định mối tương quan giữa khoảng cách vùng rìa củng giác mạc
với đường kính tiền phòng và đường kính khe thể mi trên những mắt còn
thể thủy tinh, Werner L và cộng sự (2004) đo các chỉ số trên 22 mắt tử thi ở
kinh tuyến 612 giờ (nhóm 1) và 39 giờ (nhóm 2). Kết quả cho thấy có mối
tương quan tuyến tính chặt chẽ giữa khoảng cách vùng rìa củng giác mạc
và đường kính tiền phòng ở nhóm 1 (kinh tuyến 612 giờ), nhưng không có
liên quan tuyến tính ở nhóm 2 (kinh tuyến 39 giờ). Hơn nữa không tìm ra
mối liên quan giữa khoảng cách vùng rìa và đường kính thể mi ở cả hai
kinh tuyến. Từ đó các tác giả đi đến kết luận rằng việc ước lượng kích
thước khe thể mi thông qua đo rìa củng mạc là không đầy đủ vì chỉ với kích
thước vùng rìa đơn độc thì không đủ để tính toán kích thước khe thể mi [6].
Rãnh thể mi là một vùng vô mạch và khi càng thể thủy tinh nhân tạo
tựa vào đây thì thường ổn định tại vị trí này do cấu trúc vòng quanh mặt
trong nhãn cầu của rãnh. Duffey và cộng sự (1989) khi nghiên cứu cấu trúc
giải phẫu trên mắt của tử thi đã cho thấy khoảng cách trung bình giữa rãnh
thể mi so với vùng rìa giác mạc khoảng 0,94mm tính theo kinh tuyến đứng
8
và 0,5mm tính theo kinh tuyến ngang [7].
Kết quả này được khẳng định trong một nghiên cứu được thực hiện
bởi Kim KH và cộng sự (2008). Tác giả sử dụng máy siêu âm sinh hiển vi
(UBM) với độ phân giải cao để nghiên cứu mối tương quan giữa đường
kính khe thể mi với các số đo sinh học khác nhau của nhãn cầu như độ
cong giác mạc, khoảng cách rìa củng mạc, độ sâu tiền phòng trên 34 mắt
của 17 người bình thường không mắc các bệnh về mắt. Kết quả cho thấy
đường kính khe thể mi trung bình có tương quan tuyến tính nghịch chặt chẽ
với
độ
cong
giác
m ạc
(r = 0,865), trong khi đó độ sâu tiền phòng có tương quan tuyến tính thuận
nhưng không chặt chẽ, còn khoảng cách rìa củng mạc lại không có tương
quan tuyến tính với đường kính khe thể mi [8].
Davis RM và cộng sự (1991) thực hiện một nghiên cứu trên mắt tử thi,
đo được đường kính khe thể mi trung bình là 11 ± 0.37 mm, hơi nhỏ hơn
đường kính giác mạc trung bình (11.32 ± 0.29 mm) trên cùng những mắt đó.
Các tác giả đo được khoảng cách từ khe thể mi đến vùng rìa giác mạc ở
thành ngoài nhãn cầu khoảng 0,9mm, chỉ số này rất có ý nghĩa trong phẫu
thuật cố định TTTNT vào củng mạc [9].
Sự không đồng đều của vùng khe thể mi cũng được nhắc đến, đặc
biệt sự hẹp lại của khe thể mi ở một số vị trí nhất định là do sự cuộn lại
của các tua thể mi về phía mặt sau mống mắt [ 10, 11]. Điều này có thể có
nguồn gốc từ sự phát triển không hoàn toàn của các tua thể mi từ ngoại vi
mống mắt và có thể khiến càng TTT nhân tạo bị lạc chỗ, gây ra thủng
mống mắt hoặc tổn thương thể mi trong quá trình phẫu thuật. Những lo
ngại này đã dẫn đến quyết định dùng TTT nhân tạo với tổng đường kính
nhỏ hơn để tránh gây tổn thương màng bồ đào, thậm chí tắc mạch.
9
1.1.2.3. Mô bệnh học khe thể mi sau phẫu thuật
Năm 1981, Hoffer K.J là người đầu tiên tiến hành nghiên cứu về giải
phẫu bệnh học vùng khe thể mi được cài đặt thể thủy tinh nhân tạo cứng
có càng hình chữ J đã tồn tại 11 tháng trên mắt của một tử thi sau 5 giờ bị
tử vong không rõ nguyên nhân nhằm phản bác những quan điểm mà các tác
giả có chủ trương đặt thể thủy tinh nhân tạo trong túi bao cho rằng đặt thể
thủy tinh nhân tạo vào khe thể mi có thể gây biến chứng về nhãn áp kéo dài
do càng cứng tựa trên một mô là màng bồ đào dễ nhạy cảm. Kết quả cho
thấy khe thể mi nơi mà càng thể thủy tinh nhân tạo được tựa lên cũng như
những vùng còn lại như mống mắt, chân mống mắt, nếp thể mi, biểu mô
sắc tố màng bồ đào, không thấy sự thay đổi về cấu trúc cũng như những
vùng liên quan xa như góc tiền phòng, giác mạc, võng mạc,thị thần kinh,
đều không tìm thấy một bằng chứng nào về những phản ứng viêm nhiễm
cấp và mãn tính hay bất cứ một bất thường nào về giải phẫu có liên quan
đến vị trí của càng đã tồn tại suốt 1 1 tháng sau phẫu thuật. T ừ nghiên cứu
này, tác giả đã đưa ra những nhận xét việc đặt thể thủy tinh nhân tạo
hậu phòng mà càng nằm trong khe th ể mi là an toàn và dễ dàng hơn so
với vị trí trong túi bao đối với những trường hợp khó có thể thực hiện
được những thao tác đặt đượ c trong túi bao khi đồng tử không giãn, hoặc
dây Zinn bị đứt nhiều, hoặc những mắt không còn cấu trúc bao sau. Tác
giả còn cho rằng khi mà toàn bộ thể thủy tinh nhân tạo đượ c nằm trong
một bao mạch vùng khe thể mi có thể là điều có lợi nếu tất cả các thao
tác trong lúc phẫu thuật hoàn toàn không gặp phải bất kỳ một trắc tr ở
nào [12 ],[13 ].
Tương tự, Reynolds J.D (1882), Lubniewski A.J (1990) khi nghiên cứu
mô bệnh học trên mắt tử thi của bệnh nhân được đặt thể thủy tinh nhân
10
tạo hậu phòng có càng nằm ở khe thể mi nhận thấy không có hiện tượng
viêm ở vùng mống mắt thể mi, cũng như hiện tượng xơ hoá tăng sinh xung
quanh càng và biến dạng mống mắt thể mi [14].
1.1.3. Đặc điểm mắt mất thể thủy tinh và mất cấu trúc bao sau của
thể thủy tinh do các nguyên nhân
1.1.3.1 Đặc điểm chung mắt mất thể thủy tinh và mất cấu trúc bao sau
của thể thủy tinh
Viễn thị cao: khi mắt không còn TTT, lực khúc xạ còn lại của mắt
chỉ còn lại lực khúc xạ của giác mạc, khi đó mắt sẽ bị viễn thị rất cao
Mất khả năng điều tiết: khả năng điều tiết của mắt nhờ vào sự
biến đổi độ cong của hai mặt bao trước, sau của TTT để nhìn rõ vật, khi
không còn TTT, mắt sẽ mất khả năng này.
TTT có vai trò như một phim lọc các tia ngoại tím, các tia hồng ngoại,
khi không có TTT mắt sẽ có rối loạn về màu sắt, thường nghiêng về màu
tím[1].
Loạn thị: thường là hậu quả của phẫu thuật lấy TTT, tổn thương
sẹo giác mạc sau chấn thương.
Biến đổi hình ảnh của võng mạc: Do một mắt có TTT, mắt kia không
có TTT nên độ phóng đại của hình ảnh sẽ khác nhau giữa hai mắt, do vậy
hình ảnh trên võng mạc của hai mắt sẽ khác nhau và sẽ không còn thị giác hai
mắt.
- Trên những bệnh nhân đã phẫu thuật lấy TTT, tua mi có xu hướng co
lại và xoay về phía trước nên rãnh thể mi thường hẹp lại. Khi nhãn cầu mở
hoặc nhãn áp thấp, rãnh thể mi thường bị xẹp, các tua mi tiếp xúc trực tiếp
với mặt sau mống mắt. Thậm chí khi kim đã xuyên chính xác nào rãnh thì
11
khả năng xuyên qua tua mi cũng rất cao. Khi đặt chỉ cố định TTT nhân tạo,
để TTT nhân tạo sau phẫu thuật nằm trong rãnh thể mi, quá trình đặt chỉ
phải được thực hiện khi nhãn cầu phải hoàn toàn kín và phải sử dụng TTT
nhân tạo có kính thước phù hợp. Nghiên cứu của Althaus và cộng sự đã chỉ
ra TTT nhân tạo với đường kính 12mm, thường có vị trí ổn định hơn TTT
nhân tạo đường kính 13,5mm. TTT nhân tạo có càng cứng, kích thước rộng
thường đẩy tựa vào rãnh thể mi nên có thể gây lệch TTT nhân tạo [15].
1.1.3.2. Nguyên nhân gây mất thể thủy tinh và mất cấu trúc bao sau
Chấn thương
Thể thủy tinh có thể bị chấn thương dưới tác động lực của rất nhiều
nguyên nhân khác nhau như nguyên nhân vật lý, điện, nhiệt, hóa chất. Chấn
thương đụng dập và chấn thương xuyên là hai nguyên nhân chấn thương
chính gây tổn thương bao TTT dẫn đến hậu quả không chỉ đục TTT mà còn
có những phản ứng kèm theo như phản ứng chất nhân gây viêm màng bồ
đào, thậm chí gây tăng nhãn áp. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chấn
thương đụng dập là nguyên nhân chủ yếu gây tổn thương bao TTT [16].
Trong chấn thương xuyên, bao TTT thường bị tổn thương do tác động
trực tiếp của vật gây chấn thương [17]. Ngoài ra vết thương xuyên nhãn
cầu làm liên thông môi trường mắt với bên ngoài gây hiện tượng phòi các
tổ chức nội nhãn, rối loạn các môi trường trong suốt, đặc biệt tạo nên các
sẹo giác mạc gây ảnh hưởng đến trục thị giác, phá hủy các cấu trúc nội
nhãn, tổn thương mống mắt ảnh hưởng đến đồng tử méo, giãn ảnh hưởng
đến thị lực, hoặc gây nhiễm khuẩn càng làm trầm trọng hơn tổn thương
bao sau.
Dù chấn thương bao sau TTT do nguyên nhân chấn thương đụng dập
hay chấn thương xuyên thì sau chấn thương bao rách càng ngày càng có xu
12
hướng mở rộng do sự co kéo của dây Zinn, của tổ chức nội nhãn cũng như
sự chun giãn của bản thân bao TTT, hơn nữa vết rách bao TTT còn có xu
hướng rách rộng hơn nữa trong quá trình phẫu thuật gây thoát dịch kính.
Như vậy việc đặt TTT nhân tạo có thể gặp vấn đề do cấu trúc bao không
đủ khả năng đỡ TTT nhân tạo [18].
Biến chứng của phẫu thuật đục thể thủy tinh
Trong phẫu thuật lấy TTT trong bao phẫu thuật viên lấy toàn bộ TTT
đục do vậy mắt sau phẫu thuật không còn cấu trúc bao sau. Cũng như vậy
trong phẫu thuật lấy TTT đục ngoài bao, bao TTT có thể mất hoàn toàn do
tác động lực trực tiếp trong quá trình phẫu thuật hoặc do bệnh lý đục cực
sau của TTT [19]. Bao sau TTT có thể bị rách trong bất kỳ giai đoạn nào
của quá trình phẫu thuật TTT đục bằng phương pháp tán nhuyễn nhân
TTT.
Bệnh đục thể thủy tinh bẩm sinh, bệnh yếu dây Zinn
Nguyên nhân hay gặp những bệnh có tính chất di truyền gây yếu dây
Zinn dẫn đến lệch TTT như hội chứng Marfan, có tính chất gia đình, hội
chứng lệch TTT vô căn, hội chứng homocystin niệu, rất may mắn các hội
chứng này có tỷ lệ mắc thấp. Một nguyên nhân thương gặp gây yếu dây
Zinn đó là hội chứng giả bong bao, tỷ lệ chính xác của bệnh này còn chưa
được biết [20].
Nhiều nguyên nhân khác cũng có thể gây yếu dây Zinn như viêm màng
bồ đào mãn tính, đục TTT quá chín, lồi mắt trâu do bệnh glôcôm bẩm sinh,
cận thị cao. Ngoài ra, bơm dầu silicone nội nhãn lâu ngày cũng có thể làm
thoái hóa dây Zinn [21].
1.2. Ứng dụng đèn soi nội nhãn trong nhãn khoa
1.2.1. Lịch sử đèn soi nội nhãn
13
Từ những năm đầu thế kỷ 20, các phẫu thuật viên đã sử dụng các
phương tiện có hình ảnh trong phẫu thuật nhãn khoa. Năm 1934, Thorpe sử
dụng ống kính Galilean để lấy dị vật trong nội nhãn bằng panh với đường
mở nhãn cầu khoảng 6mm [22]. Năm 1981, Norris và Cleaseby sử dụng hình
ảnh đem lại từ đũa thủy tinh đường kính 1,7mm trong phẫu thuật cắt dịch
kính, lấy dị vật nội nhãn và làm sinh thiết nội nhãn [23].
Tiếp theo sự ra đời của đầu laser nội nhãn xuyên qua củng mạc, năm
1985 Shield chế tạo đầu laser nội nhãn với đũa thủy tinh có đường kính
1,7mm cho mục đích laser thể mi trên những bệnh nhân bị glôcôm nguyên
phát. Sự sáng chế các loại đầu đèn soi nội nhãn mềm và cứng được các tác
giả sáng chế trong 6 năm tiếp theo. Năm 1990, bác sỹ Leon công bố những
hình ảnh ứng dụng đèn soi nội nhãn trong phẫu thuật nhãn khoa vi phẫu
cũng như ứng dụng của đèn soi nội nhãn trong phẫu thuật bán phần trước
và bán phần sau nhãn cầu [24].
Năm 1991, sự ra đời của đầu laser nội nhãn 20G (0,89mm đường kính
đánh dấu bước đột phá, sự phát triển kết hợp đèn soi nội nhãn và laser nội
nhãn đã mở rộng ứng dụng của phẫu thuật nội soi nhãn cầu [25]. Ngày nay,
những tiến bộ trong phát triển hệ thống quang học đã giải quyết được vấn
đề liên quan đến kích thước của đầu đèn soi nội nhãn, hình ảnh nội nhãn
với chất lượng tốt, độ phân giải cao được ghi lại với đầu đèn soi nội nhãn
có đường kính nhỏ hơn 1mm. Sự tích hợp laser trong cùng một đường dẫn
của đèn nội soi nhãn càng làm tăng tính ứng dụng của thiết bị này, cho phép
phát triển những phẫu thuật mới, an toàn, hiệu quả.
Năm 2011, đèn soi nội nhãn 23 gauge đã được thiết kế để phù hợp với
troca 23 gauge. Thiết bị này cho độ phân giải 6000 pixels với trường quan
sát 90 độ và nguồn sáng Xenon 300 Watt [26].
1.2.2. Ứng dụng của đèn nội soi nhãn
14
1.2.2.1. Chỉ định của đèn soi nội nhãn
* Bệnh lý cần can thiệp bán phần sau nhãn cầu có kè các tổn thương cản
trở sự quan sát bằng thấu kính hiển vi không tiếp xúc[27].
+ Phù giác mạc, đục giác mạc
+ Các tổn thương liên quan giác mạc, mống măt, tiền phòng: dính
mống mắt, hội chứng giác mạc, mống mắt, xuất huyết tiền phòng
+ Mắt đã phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo nhân tạo kẹt mống
mắt, các biến đổi do thể thủy tinh nhân tạo.
+ Các bệnh lý thể thủy tinh: đục thể thủy tinh, đục dưới bao sau thể
thủy tinh do cortisone
+ Các bất thường trong phẫu thuật: Khí trong tiền phòng, lệch thể
thủy tinh, lệch thể thủy tinh nhân tạo.
* Điều trị các bệnh lý nhãn cầu
+ Bong võng mạc nguyên phát có rách võng mạc chu biên
Trong bong võng mạc nguyên phát, một yếu tố dẫn đến thất bại sau
phẫu thuật là không phát hiện hết các vết rách võng mạc trước phẫu
thuật, vết rách nhỏ khu trú ở võng mạc chu biên thường khó phát hiện,
việc sử dụng đèn soi nội nhãn cho phép phẫu thuật viên quan sát toàn bộ
võng mạc để phát hiện những vết rách võng mạc chu biên, góp phần tăng
tỷ lệ thành công sau phẫu thuật.
+ Chấn thương
Trong những chấn thương xuyên nặng, đèn soi nội nhãn cho phép
phẫu thuật viên qua sát các cấu trúc nội nhãn, mặc dù môi trường nội nhãn
bị cản trở quan sát bởi rất nhiều các yếu tố như xuất huyết dịch kính, tổn
thương giác mạc… Đèn soi nội nhãn giúp phát hiện và xử trí hết các vết
thương võng mạc nặng do chấn thương [28], [29].
15
+ Viêm nội nhãn.
Trong viêm nội nhãn, cắt dịch kính sử dụng đèn soi nội nhãn là chỉ
định bắt buộc. Đồng tử nhỏ, dính đồng tử, các tổn thương, các tế bào viêm
lắng đọng vào mặt sau giác mạc gây mờ đục giác mạc, dính mống mắt,
viêm mủ TTT là các yếu tố mà phẫu thuât viên bắt buộc phải sử dụng đèn
soi nội nhãn để giảm thiểu các biến chứng trong phẫu thuật [28], [30].
+ Chấn thương rách củng mạc có kẹt dịch kính.
Khi bong võng mạc mà có kẹt dịch kính hoặc kẹt võng mạc vào vết
rách củng mạc do chấn thương hoặc trocar, việc ấn củng mạc để quan sát
kỹ tổn thương qua sinh hiển vi là rất nguy hiểm. Trong những trường hợp
này giải phóng dịch kính hoặc võng mạc bị kẹt dưới đèn soi nội nhãn
không cần ấn độn củng mạc giúp cho phẫu thuật an toàn [28], [29].
+ Giác mạc nhỏ
Giác mạc nhỏ là một bất thường có tính chất di truyền của nhãn cầu,
trong những trường hợp sẹo giác mạc, đèn soi nội nhãn có lợi cho phẫu
thuật viên có thể quan sát của các tổn thương cấu trúc nội nhãn như bong
võng mạc.
+ Không có thể thủy tinh, lệch thể hủy tinh nhân tạo
Trên những mắt không còn cấu trúc bao sau và TTT, mắt bị lệch TTT
nhân tạo, phẫu thuật cố định TTT nhân tạo tại rãnh thể mi là một lựa chọn
tối ưu. Đèn soi nội nhãn cung cấp hình ảnh chi tiết rãnh thể mi, cho phép
phẫu thuật viên xác định chính xác vị trí đặt chỉ để cố định càng TTT nhân
tạo, tăng khả năng thành công phẫu thuật, giảm thiểu các biến chứng, tối
ưu hóa thị lực cho bệnh nhân.
+ Glôcôm khó điều trị
Glôcôm khó điều trị có thể gặp nhiều hình thái như glôcôm tân
mạch, glôcôm đã phẫu thuật nhiều lần, glôcôm sau chấn thương hoặc sau
các phẫu thuật nội nhãn mà nhãn áp không điều chỉnh cần được laser quang
16
đông thể mi để làm giảm tiết thủy dịch, hạ nhãn áp. Phẫu thuật này có thể
được thực hiện bằng laser Diode quang đông thể mi hoặc laser nội nhãn.
Trong trường hợp này phẫu thuật viên quan sát rõ ràng các tua thể mi, chùm
dẫn tia laser và hiệu ứng laser trên các tua thể mi. Do vậy có thể định
lượng liều điều trị phù hợp cho phép đạt hiệu quả hạ nhãn áp đến mức
mong muốn [31],[32].
1.2.2.1. Ứng dụng đèn soi nội nhãn trong cố định thể thủy tinh nhân tạo
thành củng mạc
Đèn soi nội nhãn được ứng dụng trong phẫu thuật bán phần sau nhờ 2
ưu điểm: Thứ nhất, thiết bị này cho phép quan sát bán phần sau khi có bất
thường ở bán phần trước gây che lấp tầm nhìn phía sau như sẹo đục giác
mạc, xuất huyết tiền phòng, co đồng tử, đục thủy tinh thể hay đục bao
thủy tinh thể… Thứ hai là đèn soi nội nhãn có khả năng quan sát được các
cấu trúc nội nhãn mà các thiết bị khác không làm được, như mặt sau mống
mắt, rãnh thể mi, thể mi, vùng pars plana và võng mạc ở ngoại vi xa [33].
Rãnh thể mi là vùng phía trong của mắt giới hạn nằm gi ữa phía sau
của mống mắt và vùng pars plicata. Rãnh thể mi là một vùng vô mạch và
khi càng TTT nhân tạo tựa vào đây thì TTT nhân tạo thường ổn định tại
vị trí này do cấu trúc hình vòng quanh mặt trong nhãn cầu của rãnh.
Duffey và cộng sự (1989) khi nghiên cứu cấu trúc giải phẫu trên mắt của
tử thi đã cho thấy khoảng cách trung bình giữa rãnh thể mi so với vùng
rìa giác mạc khoảng 0,94mm tính theo kinh tuyến đứng và 0,5mm tính
theo kinh tuyến ngang [ 34 ], [35 ].
Trong phương pháp cố định TTT nhân tạo thành củng mạc sử dụng kỹ
thuật xuyên kim từ ngoài nhãn cầu vào trong nhãn cầu, việc xuyên kim
đúng rãnh thể mi phụ thuộc rất nhiều vào vị trí lựa chọn khi xuyên kim.
Ngoài sự lựa chọn khoảng cách tính từ vùng rìa, độ nghiêng của kim khi
chọc vào nội nhãn, biến đổi giải phẫu trên những mắt đã lấy TTT cũng
17
đóng vai trò quan trọng trong việc đặt được chính xác kim vào rãnh thể mi
hay không.
Belluci và cộng sự (1995) sử dụng siêu âm bán phần trước đánh giá vị
trí càng TTT nhân tạo sau phẫu thuật trên 18 mắt của 12 bệnh nhân cho thấy,
trong số 18 càng TTT nhân tạo với vị trí đặt chỉ cố định từ 23mm sau vùng
rìa thì có 16 càng có vị trí ở sau rãnh thể mi [36], [37], khi vị trí chỉ cố định
giảm bớt khoảng cách so với vùng rìa từ 1,52mm, có 6 càng TTT nhân tạo
trong rãnh thể mi, 6 càng TTT có vị trí ở pars plana. Điều này cho thấy sự
khó khăn trong lựa chọn vị trí xuyên kim từ phía ngoài nhãn cầu để đúng rãnh
thể mi.
Horiguchi và cộng sự (1993) sử dụng nguồn sáng soi nội nhãn để quan
sát vị trí của rãnh thể mi. Nguồn sáng được đưa vào trong mắt qua đường
vào vùng pars plana hoặc qua đường rạch giác mạc rìa, tác giả quan sát rãnh
thể mi thông qua vùng sáng xuất hiện gần vùng rìa trên nền tối của thể mi
[38]. Sau khi xác định được vị trí rãnh thể mi, phẫu thuật viên mới xuyên
kim từ ngoài nhãn cầu vào trong nhãn cầu để cố định càng TTT nhân tạo.
Như vậy mới có thể đảm bảo phần nào càng TTT nhân tạo sẽ nằm trong
khe thể mi.
Đèn soi nội nhãn là một phát minh quan trọng trong lĩnh vực nhãn
khoa. Trong phẫu thuật cố định TTT nhân tạo vào thành củng mạc để điều
trị những mắt không còn thể thủy tinh và cấu trúc bao sau, đèn soi nội nhãn
cho phép quan sát rõ rãnh thể mi, giúp đặt chỉ chính xác vào vị trí này. Tuy
nhiên phẫu thuật này đòi hỏi phải có đầy đủ phương tiện, phẫu thuật viên
phải có kinh nghiệm do đây là một kỹ thuật khó, đòi hỏi phẫu thuật viên
phải sử dụng hai tay trong quá trình phẫu thuật.
Đèn soi nội nhãn cầu có sự kết hợp giữa nguồn sáng và ống kính trong
cùng một đường dẫn do vậy phẫu thuật viên có thể quan sát được tất cả
các cấu trúc nội nhãn trong quầng ánh sáng chiếu được [39, 40]. Do vậy,
18
đèn soi nội nhãn cho phép phẫu thuật viên có thể quan sát các phần cấu trúc
nội nhãn mà không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như sẹo giác mạc, sự
cản trở của bờ thể thủy tinh nhân tạo, đục bao thể thủy tinh, đục dịch kính,
giúp phẫu thuật viên tiếp tục phẫu thuật một cách linh hoạt, chính xác và
an toàn. Tuy nhiên kỹ thuật sử dụng đèn soi nội nhãn không dễ dàng để
thực hiện, trừ khi phẫu thuật viên đã thành thạo việc sử dụng đèn soi nội
nhãn để quan sát võng mạc, lúc này phẫu thuật viên có thể quan sát được
những vùng mong muốn. Ví dụ, phẫu thuật bóc màng trước võng mạc sử
dụng đèn soi nội nhãn có thể gặp khó khăn vì không có hình ảnh nổi. Phẫu
thuật viên phải có cảm giác tốt về vị trí chính xác của các dụng cụ trong
mắt. Khả năng này chỉ có được khi đã có nền tảng cơ bản về lý thuyết và
thực hành lâm sàng tốt.
Trên thực tế, rất nhiều tình huống đòi hỏi phẫu thuật viên phải quan
sát được những gì đang diễn ra xung quanh vị trí mình đang thao tác, hơn là
chỉ tập trung một phẫu trường nhỏ với hình ảnh nổi. Trừ những phẫu
thuật đơn giản được thực hiện trong thời gian ngắn, những phẫu thuật kéo
dài thường dẫn đến sự mờ đục của các môi trường trong suốt làm giảm
chất lượng của hình ảnh 3 chiều. Trong trường hợp này, hệ thống quang
học không tiếp xúc với trường quan sát rộng không làm tăng chất lượng
hình ảnh 3 chiều. Bên cạnh đó, hệ thống quan sát sử dụng thấu kính tiếp
xúc cồng kềnh và khó sử dụng hơn. Những thao tác được thực hiện ở võng
mạc chu biên, đặc biệt khi đồng tử giãn không tốt hoặc đồng tử co nhỏ thì
ít có khả năng có được hình ảnh 3 chiều với hệ thống sinh hiển vi phẫu
thuật.
19
Hình 1.3. Hình ảnh thể mi và khe thể mi dưới đèn soi nội nhãn [40]
* Sử dụng đèn soi nội nhãn trong cố định thể thủy tinh nhân tạo vào rãnh thể
mi.
Những tiến bộ của đèn soi nội nhãn trong những năm của thập kỷ 90
đã cho phép phẫu thuật viên quan sát được những vùng không quan sát
được nằm phía sau mống mắt đặc biệt vùng rãnh thể mi, đánh giá một cách
chính xác những nguyên nhân dẫn đến lệch TTT nhân tạo sau phẫu thuật.
Năm 2009, Carvalho và cộng sự công bố kỹ thuật sử dụng đèn soi nội nhãn
trong phẫu thuật cố định TTTNT vào thành củng mạc (Finger Crafted
Technique). Trong kỹ thuật, một tay phẫu thuật viên cầm đèn soi nội nhãn
quan sát rãnh thể mi, tay kia dùng kim xuyên qua củng mạc sát rìa vào nhãn
cầu tại rãnh thể mi, đèn soi nội nhãn cho phép phẫu thuật viên biết chính
xác kim có xuyên qua đúng rãnh thể mi hay không, đồng thời kiểm soát tốt
các biến chứng có thể xảy ra trong phẫu thuật như xuất huyết, bong hắc
mạc [41].
20
Hình 1.4: Xuyên chỉ qua kim 30G và đầu nội soi vào nhãn cầu [41]
Hình 1.5: Các bước dấu nút chỉ cố định trong lòng củng mạc[41]
1.3. Các phương pháp điều trị bệnh nhân không có thể thủy tinh
không còn cấu trúc bao sau
Có rất nhiều phương pháp phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo trên
những mắt không có thủy tinh thể không còn cấu trúc bao sau như: đặt thể
thủy tinh nhân tạo tiền phòng, thể thủy tinh nhân tạo tựa góc tiền phòng,
21
đặt thể thuye tinh nhân tạo tiền phòng cố định mống mắt, đặt thể thủy
tinh nhân tạo hậu phòng cố định mống mắt, đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu
phòng cố định củng mạc [42].
Bảng 1.1: Ưu và nhược điểm của các phương pháp đặt TTT nhân tạo
Phương pháp
Ưu điểm
Đặt TTT nhân tạo Kỹ thuật đơn giản
Nhược điểm
Tổn thương mống mắt
tiền phòng
Thời gian phẫu thuật ngắn
Tổn thương tế bào nội mô
Không có biến chứng lộ chỉ
kéo dài, tổn thương hàng
Hạn chế nguy cơ chảy máu
rào máu dịch
Tổn thương góc tiền phòng,
Đặt TTT nhân tạo Kỹ thuật đơn giản
tăng nhãn áp
Tổn thương mống mắt
tiền phòng cố định Thời gian phẫu thuật ngắn
Tổn thương tế bào nội mô
mống mắt
Không có biến chứng lộ chỉ
kéo dài, tổn thương hàng
Đặt TTT nhân tạo
Hạn chế nguy cơ chảy máu
Vị trí gần với vị trí giải phẫu
rào máu dịch
Tổn thương mống mắt
hậu phòng khâu
của TTT
mống mắt
Vị trí TTT nhân tạo nằm cách xa
Thể thủy tinh nhân
tế bào nội mô
Vị trí gần với vị trí giải phẫu
Thời gian phẫu thuật kéo
tạo hậu phòng cố
của TTT
dài
định củng mạc
Không làm tổn thương mống
Nguy cơ xuất huyết nội
mắt
nhãn
Vị trí TTT nhân tạo nằm cách xa Nguy cơ bong võng mạc
tế bào nội mô
Nguy cơ viêm nội nhãn
Nguy cơ lộ chỉ cố định
1.3.1. Đặt thể thủy tinh nhân tạo tiền phòng
Vào những năm thập kỷ 1980, TTT nhân tạo tiền phòng nhân cứng là
phương pháp được lựa chọn rất phổ biến trong phẫu thuật đặt TTT nhân
22
tạo trên mắt không có TTT, phương pháp này đã bộc lộ rất nhiều biến
chứng như: mất tế bào nội mô mất bù, phù hoàng điểm dạng nang, dính
góc tiền phòng, nghẽn góc tiền phòng, tăng nhãn áp, xuất huyết tiền phòng
[42].
1.3.2. Đặt thủy tinh thể nhân tạo hậu phòng
Phương pháp đặt TTT nhân tạo hậu phòng dường như ít làm tổn
thương tế bào nội mô giác mạc, tổn thương góc tiền phòng hơn so với TTT
nhân tạo tiền phòng. Các biến chứng như nghẽn đồng tử, viêm màng bồ
đào, hội chứng xuất huyết tiền phòng ít xuất hiện trên những bệnh nhân
đặt TTT nhân tạo hậu phòng [43]. Trong một nghiên cứu 17 mắt có biến
chứng nghẽn đồng tử trên bệnh nhân đặt TTT nhân tạo nội nhãn, 16 mắt
đặt TTT nhân tạo tiền phòng,
1 mắt đặt TTT nhân tạo hậu phòng [44]. Vị trí của TTT nhân tạo tại rãnh
thể mi gần với vị trí giải phẫu của TTT nhất, và ổn định nhất, TTT nhân
tạo hậu phòng là một rào cản ngăn cản sự di chuyển của các thành phần
bán phần sau ra trước cũng như trước ra sau làm giảm đáng kể các biến
chứng như phù hoàng điểm dạng nang, bong võng mạc, tổn thương tế bào
nội mô. Một biến chứng nguy hiểm nhất của TTT nhân tạo hậu phòng đó
là xuất huyết hắc mạc, nguyên nhân thường do thời gian phẫu thuật quá
lâu hoặc do không kiểm soát được áp lực nội nhãn trong phẫu thuật không
tốt như trong những trường hợp phối hợp cố định TTT nhân tạo hậu phòng
củng mạc và ghép giác mạc xuyên. Các nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ biến chứng
xuất huyết hắc mạc trong những trường hợp phối hợp cố định TTT nhân
tạo hậu phòng với ghép giác mạc xuyên từ 0% đến 2,2% [45].
23
Chỉ định đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng
Chỉ định đặt TTT nhân tạo hậu phòng phụ thuộc vào kinh nghiệm
cũng như quan điểm của phẫu thuật viên, nhìn chung TTT nhân tạo hậu
phòng được ưa thích và chỉ định rộng rãi do tính ưu việt của vị trí TTT nhân
tạo sau phẫu thuật. Tuy nhiên chỉ định tuyệt đối TTT nhân tạo hậu phòng
trong những trường hợp sau [46]:
Bệnh nhân có bệnh glôcôm, đái tháo đường
Bệnh giác mạc gutata, giác mạc có số lượng tế bào nội mô
thấp
Dính góc tiền phòng
Mắt có tiền sử hoặc nghi ngờ có phù hoàng điểm dạng nang
Bệnh nhân trẻ tuổi
Chống chỉ định đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng
Chống chỉ định đặt TTT nhân tạo hậu phòng thường trên những bệnh
nhân có liên quan đến yếu tố chảy máu bao gồm: Bệnh nhân cao huyết áp,
bệnh mạch máu vùng rìa, bệnh đa hồng cầu [46].
1.3.2.1. Đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng cố định mống mắt
Mc Cannel, năm 1976 đã mô tả phương pháp khâu cố định càng TTT
nhân tạo vào mặt sau mống mắt [47]. Năm 2004, Chang đã thay đổi kỹ
thuật và sử dụng Siepser dấu nốt chỉ nhằm tránh sự co kéo mống mắt
nhưng kỹ thuật này cần sử dụng kéo Vannas để cắt chỉ nên cần mở rộng
mép mổ để đưa kéo vào nội nhãn [48].
Kỹ thuật cố định TTT nhân tạo vào mống mắt dường như có lợi thế
hơn phương pháp cố định TTT nhân tạo hậu phòng vào củng mạc trên một
vài phương diện như kỹ thuật đơn giản, thời gian phẫu thuật ngắn, tránh
được các biến chứng do kỹ thuật cố định TTT nhân tạo hậu phòng củng
24
mạc gây ra như xuất huyết nội nhãn, lộ chỉ cố định sau phẫu thuật. Tuy
nhiên do TTT nhân tạo cố định vào mống mắt nên càng của TTT nhân tạo
nằm tự do giữa mống mắt và thân thể mi nên gây ra rất nhiều biến chứng
xảy ra sau phẫu thuật như biến dạng mống mắt, thoái hóa mống mắt, phản
ứng viêm màng bồ đào, hội chứng phân rã sắc tố mống mắt và giảm sự
phản xạ của đồng tử gây cản trở khi cần kiểm tra bán phần sau [43].
1.3.2.2. Cố định thể thủy tinh nhân tạo vào thành củng mạc
Năm 1986, Malbran và cộng sự là người đầu tiên mô tả kỹ thuật cố
định TTT nhân tạo vào củng mạc [49]. Trong phương pháp này, TTT nhân
tạo đặt vào rãnh thể mi, gần với vị trí giải phẫu của TTT, cách xa mặt sau
giác mạc và tránh tổn thương vùng bè. Đồng thời nó tạo bức tường ngăn
dịch kính từ sau dồn về phía trước nên hạn chế biến chứng bong võng
mạc, phù hoàng điểm dạng nang [50]. Năm 2003, Hội nhãn khoa Mỹ đã
tổng kết các phương pháp đặt TTT nhân tạo trên những bệnh nhân không
có TTT và kết luận: đặt TTT nhân tạo cố định củng mạc là phương pháp
an toàn và hiệu quả.
* Lựa chọn thể thủy tinh nhân tạo cố định củng mạc
Cố định TTT nhân tạo thành củng mạc làm giảm nguy cơ tổn thương
mống mắt, thoái hóa mống mắt cũng như phù hoàng điểm dạng nang so với
TTT nhân tạo cố định mống mắt, TTT nhân tạo hậu phòng nên có thiết kế
phần quang học của TTT nhân tạo không có cạnh sắc, trơn bóng để tránh
nguy có chà sát vào tế bào biểu mô mống mắt và thể mi. Các tác giả
khuyến cáo TTT nhân tạo hậu phòng cần hội tụ các đặc điểm sau:
Tổng đường kính TTT nhân tạo phải từ 12.5 đến 13mm: không cần
thiết đường kính TTT nhân tạo quá dài trong khi đường kính rãnh thể mi
chỉ khoảng 11mm.
25
Đường kính phần quang học của TTT nhân tạo phải từ 6mm hoặc
rộng hơn: biến chứng lệch tâm TTT nhân tạo xảy ra khoảng 5 đến 10% số
mắt sau phẫu thuật, nếu phần quang học TTT nhân tạo lớn sẽ hạn chế
biện chứng này.
Càng TTT nhân tạo: Góc giữa càng và phần quang học của TTT nhân
tạo khoảng 10 độ giúp cho TTT nhân tạo sau khi cố định có vị trí gần với vị
trí giải phẫu của TTT, nên có lỗ trên càng TTT nhân tạo cho phép xuyên chỉ
treo qua đó cố định chỉ treo và TTT nhân tạo, để hạn chế biến chứng tuột
chỉ, di chuyển vị trí cố định từ đó TTT nhân tạo ổn định hơn giảm nguy cơ
lệch tâm TTT nhân tạo. Trước khi có thiết kế TTT nhân tạo như trên ra
đời, nhiều phẫu thuật viên đã dùng lực làm dẹt càng TTT nhân tạo để tránh
tuột chỉ sau phẫu thuật.
Các mẫu TTT nhân tạo hậu phòng thường được sử dụng: Alcon
CZ70BD (Alcon, Fort Worth, Texas), Bausch and Lomb 6190B (Bausch and
Lomb, San Dimas, California), Pharmacia U152S (Amo, Santa Ana,
California) có một lỗ trên càng TTT nhân tạo. Ngoài ra còn một số thiết kế
TTT nhân tạo hậu phòng còn có 2 lỗ trên càng TTT nhân tạo như: The
Opsia (Chauvin Opsia, France) được sử dụng trong đáp ứng các thay đổi về
kỹ thuật tạo vạt Lewis của Cordoves và cộng sự. Các mẫu TTT nhân tạo
hậu phòng cố định pars plana đòi hỏi phải có tổng đường kính ít nhất
17mm, và đường kính phần quang học ít nhất 7mm.
* Tính công suất thể thủy tinh nhân tạo cố định củng mạc
Trong nhiều năm, công thức tính toán công suất thủy tinh thể hồi quy
SRK I, II vẫn được nhiều tác giả sử dụng. Hiện nay, nhiều công thức được
áp dụng như SRKT, HofferQ, Holladay I, II được sử dụng trong các