MỞ ĐẦU
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường do các hoạt động sinh hoạt và sản xuất
của con người đã và đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Một trong các chương
trình đang được nhà nước quan tâm là nghiên cứu và đánh giá mức độ ô nhiễm thuộc lưu
vực một số hệ thống sông chính như: sông Đáy, sông Nhuệ, sông Cầu... để từ đó có các
biện pháp quản lí thích hợp.
Trong số các chỉ số ô nhiễm, ô nhiễm kim loại nặng là một trong những chỉ số
được quan tâm nhiều bởi độc tính và khả năng tích lũy sinh học của chúng. Để có thể
đánh giá một cách đầy đủ về mức độ ô nhiễm của các kim loại nặng ta không thể chỉ
dựa vào việc xác định hàm lượng của các kim loại hòa tan trong nước mà cần xác định
cả hàm lượng các kim loại trong trầm tích. Rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
trầm tích sông, hồ đều cho thấy hàm lượng của các kim loại trong trầm tích lớn hơn
nhiều so với trong nước.
Dưới một số điều kiện lí hóa nhất định các kim loại nặng từ trong nước có thể
tích lũy vào trầm tích đồng thời cũng có thể hòa tan ngược trở lại nước [65, 68]. Khả
năng hòa tan của kim loại trong mẫu trầm tích vào nước cũng như khả năng tích lũy sinh
học của nó phụ thuộc vào dạng tồn tại của kim loại trong trầm tích [69]. Vì vậy cần
thiết phải xác định cụ thể dạng tồn tại của các kim loại trong trầm tích mới có thể đưa
ra những đánh giá cụ thể và chính xác hơn về mức độ ô nhiễm và ảnh hưởng đến hệ
sinh thái của các kim loại nặng [48].
Một vấn đề đáng lưu ý nữa là hàm lượng của các kim loại trong mẫu trầm tích
phụ thuộc vào hàm lượng của các kim loại trong nước tại mỗi thời điểm. Do đó dựa
vào việc xác định hàm lượng của các kim loại tại các điểm khác nhau trên cùng một cột
trầm tích có thể giúp ta thấy được sự thay đổi về mức độ ô nhiễm kim loại nặng tại
khu vực nghiên cứu theo thời gian.
Để xác định dạng kim loại trong trầm tích, công đoạn quan trọng nhất là chiết
tách riêng từng dạng kim loại ra khỏi trầm tích. Đã có rất nhiều quy trình chiết được
1
đưa ra nhưng quy trình chiết liên tục của Tessier (Tessier et.al, 1979 [34]) được nhiều
tác giả lựa chọn sử dụng và cải tiến thêm phương pháp này. Theo quy trình chiết liên
tục của Tessier, kim loại trong trầm tích được chia làm 5 dạng là: dạng trao đổi, dạng
liên kết với cacbonat, dạng liên kết với sắt và mangan oxit, dạng liên kết với chất hữu
cơ và dạng cặn dư.
Lưu vực sông Cầu là một trong những lưu vực sông lớn và tập trung đông dân cư
sinh sống ở khu vực phía Bắc. Sông Cầu dài 288,5 km bắt nguồn từ núi Vạn On ở độ
cao 1175m thuộc huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Cạn chạy qua các tỉnh Bắc Cạn, Thái
Nguyên, Bắc Giang, Hà Nội, Bắc Ninh và đổ vào sông Thái Bình ở thị xã Phả Lại tỉnh
Hải Dương. Các khu vực sông Cầu chạy qua là những khu vực tập trung rất nhiều các
hoạt động sản xuất công nghiệp như: khai khoáng, luyện kim, mạ điện... Vì vậy tình
hình ô nhiễm nói chung và ô nhiễm kim loại nặng nói riêng đang ở mức báo động.
Trước tình hình đó chính phủ đã cho thành lập Ủy ban Bảo vệ môi trường lưu vực sông
Cầu vào tháng 1 năm 2008 để có những giải pháp đồng bộ quản lí và giảm thiểu ô
nhiễm trên hệ thống lưu vực sông Cầu. Mặt khác, trên hệ thống lưu vực sông Cầu, Thái
Nguyên là tỉnh mà ngành công nghiệp khai khoáng và luyện kim rất phát triển nên nguy
cơ ô nhiễm kim loại nặng là rất lớn.
Từ những vấn đề trình bày ở trên, chúng tôi đã chọn đề tài “ nghiên cứu xác định
dạng Cu, Pb, Zn và Cd trong một số cột trầm tích thuộc lưu vực sông Cầu ” với địa
bàn nghiên cứu chính là tỉnh Thái Nguyên theo các nhiệm vụ cụ thể là:
+ Xác định hàm lượng tổng và hàm lượng các dạng liên kết của các kim loại Cu,
Pb, Zn và Cd trong một số cột trầm tích thuộc lưu vực sông Cầu khu vực đi qua thành
phố Thái Nguyên.
+ Đánh giá sự thay đổi hàm lượng tổng và các dạng của các kim loại Cu, Pb ,Zn
và Cd theo chiều sâu của cột trầm tích và giữa các cột trầm tích.
+ Đánh giá mối tương quan về hàm lượng tổng và các dạng của các kim loại Cu,
Pb, Zn và Cd trong cùng 1 cột trầm tích và giữa các cột trầm tích với nhau.
+ Đánh giá mức độ ô nhiễm các kim loại Cu, Pb, Zn và Cd theo một số tiêu
chuẩn đánh giá ô nhiễm trầm tích.
Việc lấy mẫu trầm tích được chúng tôi trực tiếp tiến hành tại sông Cầu đoạn đi
qua thành phố Thái Nguyên vào tháng 7 năm 2012. Các công việc bảo quản mẫu trầm
tích, xử lí mẫu và phân tích hàm lượng tổng cũng như các dạng của các kim loại Cu,
2
Pb, Zn và Cd được thực hiện tại phòng Hóa Phân Tích – Viện Hóa Học – Viện Hàn Lâm
Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam.
Chương 1: TỔNG QUAN
1.1 Trầm tích và sự tích lũy kim loại trong trầm tích
1.1.1 Trầm tích và sự hình thành trầm tích
Trầm tích là các vật chất tự nhiên bị phá vỡ bởi các quá trình xói mòn hoặc do
thời tiết, sau đó được các dòng chảy vận chuyển đi và cuối cùng được tích tụ thành các
lớp trên bề mặt hoặc đáy của một khu vực chứa nước như ao, hồ, sông, suối, biển. Quá
trình hình thành trầm tích là một quá trình tích tụ và lắng đọng các chất cặn lơ lửng (bao
gồm cả các vật chất vô cơ và hữu cơ) để tạo nên các lớp trầm tích. Ao, hồ, sông, biển
tích lũy trầm tích thành các lớp theo thời gian. Vì vậy trầm tích là một hỗn hợp phức tạp
của các pha rắn bao gồm sét, silic oxit, chất hữu cơ, cacbonat và một quần thể các vi
khuẩn (Trần Nghi, 2003 [14]; [71] ).
Trầm tích là một trong những đối tượng thường được nghiên cứu để đánh giá và
xác định mức độ cũng như nguồn gây ô nhiễm kim loại nặng đối với môi trường nước
bởi hàm lượng kim loại trong trầm tích thường lớn hơn nhiều so với lớp nước phía trên
và có mối quan hệ chặt chẽ với hàm lượng của các ion kim loại tan trong nước. Các kim
loại trong nước có thể tích lũy đi vào trầm tích và ngược lại kim loại trong trầm tích ở
dạng di động có khả năng hòa tan ngược lại vào nước. Chính vì lí do đó nên trầm tích
được xem là một chỉ thị quan trọng dùng để nghiên cứu và đánh giá sự ô nhiễm môi
trường.
1.1.2 Các nguồn tích lũy kim loại vào trầm tích
Sự tích lũy kim loại vào trầm tích đến từ hai nguồn là nguồn nhân tạo và nguồn
tự nhiên.
3
Nguồn tự nhiên gồm các kim loại nằm trong thành phần của đất đá xâm nhập
vào môi trường nước và trầm tích thông qua các quá trình tự nhiên như: phong hóa, xói
mòn, rửa trôi (Ip Crman 2007 [46]).
Nguồn nhân tạo là các nguồn ô nhiễm từ các hoạt động sinh hoạt và sản xuất
của con người như: nước thải sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp, y tế. Các kim loại
này sau khi đi vào nước sẽ tích lũy vào trầm tích cũng như các sinh vật thủy sinh.
1.1.3 Cơ chế và các yếu tố ảnh hưởng đến sự tích lũy kim loại vào trầm tích
Các kim loại tích lũy vào trầm tích có thể xuất phát từ nguồn tự nhiên hoặc nhân
tạo. Sự tích lũy của các kim loại vào trầm tích có thể xảy ra theo 3 cơ chế sau:
1. Sự hấp phụ hóa lý từ nước.
2. Sự hấp thu sinh học bởi các sinh vật hoặc các chất hữu cơ.
3. Sự tích lũy vật lí của các hạt vật chất bởi quá trình lắng đọng trầm tích.
Sự tích lũy kim loại vào trầm tích phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: các điều
kiện thủy văn, môi trường, pH, thành phần vi sinh vật, kết cấu của trầm tích, khả năng
trao đổi ion… nhất là sự hấp phụ hóa lý và hấp thu sinh học.
Sự hấp phụ hóa lý các kim loại trực tiếp từ nước được thực hiện nhờ các quá
trình hấp phụ các kim loại lên trên bề mặt của các hạt keo, các quá trình trao đổi ion,
các phản ứng tạo phức của các kim loại nặng với các hợp chất hữu cơ hoặc do các
phản ứng hóa học xảy ra làm thay đổi trạng thái oxi hóa của các nguyên tố hay tạo
thành các hợp chất ít tan như muối sunfua. Quá trình hấp phụ hóa lí phụ thuộc rất nhiều
vào các điều kiện như: pH của nước, kích thước của các hạt keo, hàm lượng các chất
hữu cơ và quần thể vi sinh vật [65].
Sự hấp thu sinh học chủ yếu do quá trình hấp thu kim loại của các sinh vật trong
nước, phản ứng tạo phức của các kim loại với các hợp chất hữu cơ, các hoạt động sinh
hóa của hệ vi sinh vật trong trầm tích [42, 68].
1.1.4 Các dạng tồn tại của kim loại trong trầm tích.
Theo Tessier [33], kim loại trong mẫu trầm tích và mẫu đất tồn tại ở 5 dạng chủ
yếu sau:
4
+ Dạng trao đổi: Kim loại trong dạng này liên kết với các hạt keo trong trầm
tích (sét, hydrat của oxit săt, oxit mangan, axit humic) bằng lực hấp phụ yếu. Sự thay đổi
lực ion của nước sẽ ảnh hưởng đến khả năng hấp phụ hoặc giải hấp các kim loại này
dẫn đến sự giải phóng hoặc tích lũy kim loại tại bề mặt tiếp xúc của nước và trầm
tích. Chính vì vậy kim loại trong trầm tích ở dạng này rất linh động có thể dễ dàng giải
phóng ngược trở lại môi trường nước.
+ Dạng liên kết với cácbonat: Các kim loại tồn tại ở dạng kết tủa muối
cacbonat. Các kim loại tồn tại ở dạng này rất nhạy cảm với sự thay đổi của pH, khi pH
giảm các kim loại ở dạng này sẽ được giải phóng.
+ Dạng liên kết với FeMn oxit: Ở dạng liên kết này kim loại được hấp phụ
trên bề mặt của FeMn oxi hydroxit và không bền trong điều kiện khử, bởi vì trong điều
kiện khử trạng thái oxi hóa của sắt và mangan sẽ bị thay đổi, dẫn đến các kim loại
trong trầm tích sẽ được giải phóng vào pha nước.
+ Dạng liên kết với hữu cơ: Các kim loại ở dạng liên kết với hữu cơ sẽ không
bền trong điều kiện oxi hóa, Khi bị oxi hóa các chất cơ sẽ phân hủy và các kim loại sẽ
được giải phóng vào pha nước.
+ Dạng cặn dư: Phần này chứa các khoáng chất bền vững tồn tại trong tự nhiên
có thể giữ các vết kim loại trong nền cấu trúc của chúng, hoặc một số kết tủa bền khó
tan của các kim loại như PbS, HgS... Do vậy khi kim loại tồn tại trong phân đoạn này
sẽ không thể hòa tan vào nước trong các điều kiện như trên.
1.1.5 Kim loại nặng và nguồn tích lũy một số kim loại nặng trong trầm tích
Kim loại nặng là các kim loại có khối lượng riêng lớn hơn 5 g/cm 3, nhưng thông
thường ta dùng để chỉ những kim loại độc hại và gây ô nhiễm môi trường. Trong trầm
tích, kim loại nặng có thể tồn tại ở các dạng khác nhau, có khả năng tích lũy trong trầm
tích, khả năng tích lũy sinh học và độc tính khác nhau [30]. Trong giới hạn của đề tài,
chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu bốn kim loại nặng là: đồng, chì, kẽm và cadimi.
1.1.5.1 Kim loại đồng
5
Đồng là một nguyên tố thiết yếu đối với cơ thể động thực vật và con người. Đối
với cơ thể con người, đồng cần thiết cho các quá trình chuyến hóa sắt, lipit và rất cần
thiết cho hoạt động của hệ thần kinh, hệ miễn dịch... Tuy nhiên, khi cơ thể chúng ta
tích tụ đồng với một lượng lớn sẽ gây nguy hiểm. Khi hàm lượng đồng trong cơ thể
người từ 60 – 100 mg/kg thể trọng có thể gây ra tình trạng nôn mửa. Khi hàm lượng là
10g/kg thể trọng có thể gây tử vong. Nồng độ đồng giới hạn trong nước uống đối với
con người là 2 mg/lit.
Đồng cũng là một trong số kim loại có rất nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực
công nghiệp khác nhau như: chế tạo dây dẫn điện, các hợp kim có độ chống mài mòn
cao, chế tạo sơn, thuốc trừ sâu…
Ở pH lớn hơn 6 ion Cu2+ có thể kết tủa dưới dạng hidroxit, oxit, hidroxi
cacbonat. Đồng cũng tạo được phức rất bền với chất mùn. Đặc biệt trong môi trường
khử Cu2+ rất dễ kết hợp với ion S 2 để tạo kết tủa CuS rất bền. Chính vì vậy mà khả
năng tích lũy sinh học của kim loại đồng trong trầm tích nhỏ và dạng tồn tại chủ yếu
của đồng trong trầm tích là ở dạng cặn dư [15, 18, 23].
Nguồn tích lũy của kim loại đồng trong tự nhiên đến từ 2 nguồn là nguồn tự
nhiên và nguồn nhân tạo. Trong tự nhiên, hàm lượng trung bình của đồng trong vỏ trái
đất vào khoảng 50 ppm và chủ yếu tồn tại dưới dạng một số khoáng chất như: azurit
(2CuCO3Cu(OH)2); malachit (CuCO3Cu(OH)2); các sulfua như: chalcopyrit (CuFeS2),
bornit (Cu5FeS4), covellit (CuS), chalcocit (Cu2S) và các ôxít như cuprit (Cu2O)... Trong đó
nhiều nhất là các quặng sunfua tương đối bền. Vì vậy khả năng rửa trôi của của kim
loại đồng là tương đối nhỏ [23].
Nguồn tích lũy nhân tạo đồng vào trầm tích xuất phát chủ yếu từ các hoạt động
sản xuất đặc biệt là từ các ngành công nghiệp luyện kim và mạ điện. Theo một số
nghiên cứu, hàm lượng kim loại đồng trong nước thải của các nhà máy mạ điện có thể
lên đến 200 ppm.
1.1.5.2 Kim loại chì
Chì là một nguyên tố có độc tính cao đối với con người và động vật. Khi xâm
nhập vào cơ thể kim loại chì kết hợp với một số enzim làm rối loạn hoạt động của cơ
6
thể. Khi nồng độ chì trong máu lớn hơn 50 μg/dl sẽ gây ra ra nguy cơ mắc chứng thiếu
máu, thiếu sắc tố da, hồng cầu kém bền vững. Khi nồng độ chì trong máu lớn hơn 80
μg/dl sẽ gây ra các bệnh về thần kinh với các biểu hiện như mất điều hòa, giảm ý thức,
vận động khó khăn, hôn mê và co giật [19, 20].
Ở pH cao kim loại chì trở nên ít tan do dễ tạo phức với các hợp chất hữu cơ, kết
tủa dưới dạng oxit, hidroxit và liên kết với oxit và silica của đất sét vì vậy ở pH cao kim
loại chì có khả năng tích lũy sinh học thấp. Nhưng ở pH thấp hơn thì khả năng tích lũy
sinh học của chì tăng dần.
Trong tự nhiên hàm lượng Pb trong vỏ trái đất khoảng 17 ppm. Chì thường được
tìm thấy ở dạng quặng cùng với kẽm, bạc, và (phổ biến nhất) đồng, và được thu hồi
cùng với các kim loại này. Trong tự nhiên, khoáng chì chủ yếu là galena (PbS) ngoài ra
còn có một số dạng khoáng chứa chì khác như cerussite (PbCO3) và anglesite (PbSO4)
[15, 18, 22].
Trong công nghiệp, kim loại chì được sử dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau
như: công nghiệp chế tạo ắc quy, sơn, nhựa, luyện kim. Vì vậy nguồn phát thải chì
nhân tạo chủ yếu từ các hoạt động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp như:
công nghiệp luyện kim, ắc quy, sơn, nhựa và các làng nghề tái chế chì, tái chế nhựa...
1.1.5.3 Kim loại kẽm
Kẽm là một nguyên tố vi lượng rất cần thiết đối với con người và động thực
vật. Kẽm hiện diện trong hầu hết các bộ phận cơ thể con người. Kẽm cần thiết cho thị
lực, giúp cơ thể chống lại bệnh tật, chống nhiễm trùng và cần thiết cho các hoạt động
sinh dục và sinh sản... Tuy nhiên khi hàm lượng kẽm trong cơ thể lớn quá có thể tạo ra
các tác dụng ngược lại gây ra các bệnh như ngộ độc thần kinh, và hệ miễn nhiễm [20,
21].
Trong công nghiệp, kim loại kẽm có rất nhiều ứng dụng đặc biệt trong lĩnh vực
luyện kim, công nghiệp mạ và sản xuất pin điện...
Trong môi trường nước ở pH thấp Zn có độ linh động vừa phải do chủ yếu tồn
tại ở pha liên kết yếu với sét và mùn. Ở pH lớn hơn độ linh động của kẽm giảm đi do
tồn tại ở các pha liên kết với oxit, aluminosilicat và mùn. Ngoài ra trong môi trường khử,
7
sự linh động của kim loại kẽm cũng bị giảm đi do tạo thành muối ZnS ít tan [ 15, 18,
24, 29].
Trong vỏ trái đất hàm lượng kim loại kẽm vào khoảng 75 ppm. Sphalerit (ZnS)
là loại quặng kẽm quan trọng nhất. Nguồn tích lũy kẽm trong trầm tích ngoài nguồn tự
nhiên còn phải kể đến một nguồn rất quan trọng là các nước thải từ các nhà máy luyện
kim và mạ điện và khai khoáng [25].
1.1.5.4 Kim loại Cadimi
Cadimi cũng là một kim loại có nhiều ứng dụng trong công nghiệp. Một số ứng
dụng chính của cadimi là chế tạo hợp kim có nhiệt độ nóng chảy thấp, sử dụng trong
mạ điện, chế tạo vật liệu bán dẫn, chất tạo màu... Tuy nhiên cadimi lại là kim loại rất
độc hại đối với cơ thể người ngay cả ở nồng độ rất thấp bởi vì cadimi có khả năng tích
lũy sinh học rất cao. Khi xâm nhập vào cơ thể nó can thiệp vào các quá trình sinh học,
các enzim liên quan đến kẽm, magie và canxi, gây tổn thương đến gan, thận, gây nên
bệnh loãng xương và bệnh ung thư [20].
Trong tự nhiên, hàm lượng cadimi trung bình khoảng 0,1 ppm. Quặng cadimi rất
hiếm và chủ yếu tồn tại ở dạng CdS có lẫn trong quặng một số kim loại như Zn, Cu,
Pb [25].
Trong trầm tích sông ngòi, hàm lượng cadimi có thể cao hơn nhiều lên đến 9 ppm
[6]. Nguồn phát thải ô nhiễm Cd đối với trầm tích sông ngòi chủ yếu là nguồn nhân tạo,
xuất phát từ nước thải từ các ngành công nghiệp dựa trên một số ứng dụng của Cd như:
lớp mạ bảo vệ thép, chất ổn định trong PVC, chất tạo màu trong plastic và thủy tinh, và
trong hợp phần của nhiều hợp kim.
1.2 Phân tích dạng kim loại trong trầm tích
1.2.1 Khái niệm về phân tích dạng
Thuật ngữ “dạng”, theo Fillip M. tack và Marc G. Verloo [40], là sự nhận dạng và
định lượng các dạng, các hình thức hay các pha khác nhau mà trong đó kim loại tồn tại
Trong thực tế, độ linh động và hoạt tính sinh học cũng như khả năng tích lũy sinh
học của kim loại phụ thuộc vào dạng tồn tại bao gồm dạng hóa học ( trạng thái oxi
hóa, điện tích, trạng thái hóa trị và liên kết) và dạng vật lí (trạng thái vật lí, kích thước
8
hạt... ). Chẳng hạn crôm ở dạng Cr(III) không độc nhưng ở dạng Cr(VI) rất độc. Trong
các dạng của asen thì As(III) có độc tính cao gấp khoảng 50 lần As(V), asen ở dạng hợp
chất vô cơ độc hơn ở dạng hợp chất hữu cơ. Trong trầm tích, các kim loại tồn tại ở
dạng linh động dễ dàng có thể giải phóng vào nước dẫn đến nguy cơ gia tăng sự hấp
thụ các kim loại này vào cơ thể con người thông qua chuỗi thức ăn. Trong khi đó các
kim loại tồn tại ở dạng cặn dư rất khó hòa tan vào nước nên rất ít ảnh hưởng đến sức
khỏe con người [31, 40]. Vì vậy cần thiết phải xác định cụ thể hàm lượng của các kim
loại ở từng dạng tồn tại cụ thể của nó.
Theo tác giả Tessier, kim loại trong mẫu trầm tích và mẫu đất tồn tại ở 5 dạng
chủ yếu là: dạng trao đổi, dạng liên kết với cácbonat, dạng liên kết với FeMn oxit,
dạng liên kết với hữu cơ, dạng cặn dư. Vấn đề đặt ra ở đây là phải tìm ra các dung
môi và các điều kiện thích hợp để có thể chiết riêng từng dạng kim loại. Có nhiều
phương pháp khác nhau đã được đưa ra để chiết riêng từng dạng kim loại như: chiết
một giai đoạn, chiết liên tục, sử dụng nhựa trao đổi ion... Trong đó, phương pháp chiết
liên tục được áp dụng phổ biến nhất do những ưu điểm của nó.
1.2.2 Các quy trình chiết liên tục
Có rất nhiều quy trình chiết liên tục được các tác giả khác nhau đưa ra để phân
tích dạng kim loại trong trầm tích. Dưới đây là một số quy trình tiêu biểu.
* Quy trình chiết liên tục của Tessier:
Đây là quy trình được nhiều tác giả khác nhau sử dụng để xác định hàm lượng
kim loại trong đất và trầm tích. Các điều kiện cụ thể của quy trình chiết liên tục
Tessier được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.1 Quy trình chiết liên tục của Tessier (1979)[33]
Dạng kim loại
Trao đổi (F1)
Điều kiện chiết (1 gam mẫu)
+ 8 ml MgCl2 1M (pH = 7), khuấy liên tục trong 1 giờ
+ hoặc 8 ml NaOAc 1M (pH = 8,2), khuấy liên tục trong 1 giờ
Liên kết với
8 ml NaOAc 1M (pH = 5 với HOAc), khuấy liên tục trong 5 giờ
9
cacbonat (F2)
ở nhiệt độ phòng
Liên kết với Fe + 20 ml Na2S2O3 0,3M + Natricitrat 0,175M + axit citric 0,025M
Mn oxit (F3)
+ hoặc 20 ml NH2OH.HCl 0,04M trong CH3COOH 25%, 96
30C, thuy thoảng khuấy trong 6 giờ
Liên kết với
(1) 3ml HNO3 0,02M + 5ml H2O2 30% (pH = 2 với HNO3), 85
hữu cơ (F4)
20C, khuấy 2 giờ
(2) thêm 3 ml H2O2 30% (pH = 2 với HNO 3) 85 20C, khuấy 3
giờ
(3) sau khi làm nguội thêm 5 ml NH4OAc 3,2 M trong HNO3
20% và pha loãng thành 20 ml, khuấy liên tục trong 30 phút
Cặn dư (F5)
(1) HClO4 (2 ml) + HF (10 ml) đun đến gần cạn
(2) HClO4 (1 ml) + HF (10 ml) đun đến gần cạn
(3) HClO4 (1 ml)
(4) hòa tan bằng HCl 12N sau đó định mức thành 25 ml
* Quy trình chiết liên tục của Ủy ban tham chiếu cộng đồng (Community
Bureau of Reference procedure, BCR):
Quy trình này gần tương tự như quy trình của Tessier nhưng dạng trao đổi và
dạng cacbonat được gộp chung lại thành một dạng
Bảng 1.2 Quy trình chiết liên tục của BCR (1993) [32]
Dạng kim loại
Điều kiện chiết (1 gam mẫu)
Trao đổi và liên kết 40 ml HOAc 0,11M, 22±50C, khuấy liên tục 16 giờ
với cacbonat
Liên kết với FeMn 40 ml NH2OH.HCl 0,1M (pH = 2 với HNO 3), 22±50C,
oxit
Liên kết với hữu cơ
khuấy liên tục 16 giờ
(1) 10 ml H2O2 8,8M (pH = 23), t0 phòng, khuấy liên tục
trong 1 giờ
(2) 10 ml H2O2 (pH = 23),850C, đun 1 giờ đến thể tích 3
ml
10
(3) 10 ml H2O2 (pH = 23),850C, đun 1 giờ đến thể tích 1
ml
(4) 50 ml NH4OAc 1M (pH = 2 với HNO3) 22±50C, khuấy
liên tục 16 giờ
HF + HNO3 + HClO4
Cặn dư
* Quy trình chiết ngắn của Maiz:
Tác giả Maiz đã đưa ra quy trình chiết ngắn chỉ có 3 dạng và nhận thấy rằng kết
quả của nó tương quan tốt với quy trình chiết của Tessier
Bảng 1.3 Quy trình chiết ngắn của Maiz (2000) [45]
Dạng kim loại
Trao đổi (hay di động)
Điều kiện chiết (3 gam mẫu)
10 ml CaCl2 0,01M, t0 phòng, thỉnh toảng khuấy
Có tiềm năng di động
trong 2 giờ
2ml hh: DTPA(1) 0,005M + CaCl2 0,01M + TEA(2)
0,1M (pH = 7,3), t0 phòng, 4 giờ
Cặn dư
Cường thủy + HF
(1): DTPA: pentetic axit hay dietylen triamin pentaaxetic axit
(2): TEA: trietanolamin
* Quy trình chiết của Hiệp hội Địa chất Canada (GCS):
Quy trình chiết liên tục của GCS phân chia dạng kim loại liên kết với FeMn oxit
thành 2 dạng là dạng liên kết với Fe oxihydroxit vô định hình và dạng kim loại nằm
trong cấu trúc tinh thể của oxit. Do đó số dạng kim loại tăng từ 5 lên 6. Quy trình này
được Benitez và Dubois đưa ra trên cơ sở cải tiến quy trình của Tessier nhờ vậy mà thời
gian chiết được giảm đi đáng kể.
Bảng 1.4 Quy trình chiết liên tục của Hiệp hội Địa chất Canada (GCS) (1999) [51]
Dạng kim loại
Điều kiện chiết (0,5 gam mẫu)
Dạng di Trao đổi (F1)
(1) 30 ml NaNO3 0,1M; 250C; 1,5 giờ
động
(2) 30 ml NaNO3 0,1M; 250C; 1,5 giờ
Liên kết với
(1) 30 ml NaOAc 1M (pH = 5 với HOAc); 25 0C;
11
cacbonat (F2)
1,5 giờ
(2) 30 ml NaOAc 1M (pH = 5 với HOAc); 25 0C;
1,5 giờ
Liên kết với hữu (1) 30 ml Na4P2O7; 250C; 1,5 giờ
Dạng có
tiềm
năng di
động
cơ (F3)
(2) 30 ml Na4P2O7; 250C; 1,5 giờ
Liên kết với
(1) 30 ml NH2OH.HCl 0,25M trong HCl 0,05M;
oxihydroxit vô định 600C; 1,5 giờ
hình (F4)
(2) 30 ml NH2OH.HCl 0,25M trong HCl 0,05M;
600C; 1,5 giờ
Nằm trong cấu (1) 30 ml NH2OH.HCl 1M trong HOAc 25%;
trúc tinh thể oxit 900C; 1,5 giờ
(F5)
(2) 30 ml NH2OH.HCl 1M trong HOAc 25%;
900C; 1,5 giờ
Cặn dư (F6)
HF:HNO3:HCl
Nói chung hầu hết các quy trình chiết liên tục đều dựa trên quy trình chiết của
Tessier nhưng có những cải tiến để phù hợp với các đối tượng phân tích khác nhau để
làm tăng độ chính xác của kết quả phân tích và giảm thời gian chiết. Các cải tiến này
đều chủ yếu tập trung vào việc thay đổi loại, thể tích dung môi chiết và thời gian chiết.
Rất nhiều tác giả như G.Glosinska [42], J.Zerbe [49], P.O.Oviasogie [61], Md.Abull
Kashem [53], Vũ Đức Lợi [6,7]... đã thay thế MgCl 2 1M trong bước chiết dạng trao đổi
(F1) bằng NH4OAc hoặc NaOAc (pH=5) bằng NH4OAc (pH = 5). Mục đích của việc
thay thế này sẽ làm giảm tính mặn (nồng độ các ion kim loại ) trong dung dịch chiết
nhờ đó sẽ làm tăng độ chính xác trong kết quả phân tích hàm lượng kim loại trong dịch
chiết bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS). Trong giai đoạn chiết dạng liên
kết với cacbonat ( F2), các tác giả trên đã tăng lượng thuốc thử từ 2 ml lên 20 ml để làm
giảm sự thay đổi pH của dung dịch trong quá trình chiết.
12
Bảng 1.5 Quy trình chiết liên tục của J.Zerbe (1999) [49]
Dạng kim loại
Trao đổi (F1)
Điều kiện chiết (1 gam mẫu)
10 ml CH3COONH4 (pH=7), t0 phòng, khuấy liên tục
trong 1 giờ
Liên kết với cacbonat 20 ml CH3COONH4 1M (pH = 5 với HOAc), khuấy
liên tục trong 5 giờ, t0 phòng
(F2)
Liên kết với FeMn oxit 20 ml NH2OH.HCl 0,04M trong HOAc 25%, 950C,
khuấy 6 giờ
(F3)
Liên kết với hữu cơ (1) 5 ml HNO3 0,02M + 5 ml H2O2 30% (pH= 2 với
HNO3), 850C, khuấy 2 giờ
(F4)
(2) thêm 3 ml H2O2 30% (pH = 2 với HNO3), 850C,
khuấy 3 giờ
(3) làm nguội, thêm 10 ml CH3COONH4 3,2M trong
HNO3 20% khuấy 30 phút, t0 phòng
Bảng 1.6 quy trình chiết liên tục cải tiến Tessier ( Vũ Đức Lợi, 2010) [6]
Dạng kim loại
Điều kiện chiết (1 gam mẫu)
Trao đổi (F1)
10 ml CH3COONH4 1M (pH=7), t0 phòng, lắc liên tục
trong 1 giờ
Liên kết với cacbonat 20 ml CH3COONH4 1M (pH = 5 với HOAc), lắc liên
(F2)
tục trong 5 giờ, to phòng
Liên kết với FeMn oxit 20 ml NH2OH.HCl 0,04M trong HOAc 25%, lắc liên
(F3)
tục 5 giờ, toC phòng
Liên kết với hữu cơ 10 ml CH3COONH4 3,2M trong HNO3 20 %, lắc 30
(F4)
phút, toC phòng
Cặn dư (F5)
Nước cường thủy
13
1.3 Một số chỉ số và tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trầm tích
Hiện nay, nước ta vẫn chưa có tiêu chuẩn đánh giá về chất lượng trầm tích.
Chính vì vậy, trong luận văn chúng tôi đã sử dụng một số chỉ số và tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng trầm tích của nước ngoài. Để đánh giá chất lượng trầm tích, nhiều tác giả
đã đưa ra các tiêu chí và tiêu chuẩn khác nhau, nhưng chủ yếu đều tập trung đánh giá
chất lượng trầm tích dựa vào hàm lượng tổng của các kim loại nặng và thành phần
phần trăm dạng linh động (F1, F2). Dưới đây, chúng tôi giới thiệu một số chỉ số và tiêu
chuẩn đánh giá trầm tích hay dùng.
1.3.1 Chỉ số tích lũy địa chất (Geoaccumulation Index : Igeo)
Igeo là chỉ số dùng để đánh giá sự ô nhiễm bằng cách so sánh hàm lượng tổng kim
loại có trong mẫu với giá trị nền của kim loại đó (Juan Liu, 2010 [48]). Chỉ số này
được đưa ra bởi Muller P.J và Suess E [55] và có công thức tính như sau:
C
I geo log n
1,5 B
Trong đó:
Cn: hàm lượng kim loại trong mẫu
Bn: giá trị nền của kim loại trong vỏ Trái đất (Hamilton, 2000 [44])
1,5: hệ số được đưa ra để giảm thiểu tác động của những thay đổi có
thể xảy ra đối với giá trị nền do những biến đổi về thạch học trong trầm tích.
Hàm lượng nền của các kim loại Cu, Pb, Zn và Cd được thể hiện trong bảng
sau.
Bảng 1.7 Giá trị hàm lượng các kim loại trong vỏ Trái đất (Hamilton, 2000 [44])
Kim loại
Cu
Pb
Zn
Cd
Hàm lượng (mg/kg)
55
15
70
0,1
Mức độ ô nhiễm trầm tích dựa theo chỉ số Igeo được phân loại như sau:
Bảng 1.8 Phân loại mức độ ô nhiễm dựa vào Igeo (Muller P.J và Suess E, 1979 [55])
14
Phân loại
Giá trị Igeo
Mức độ ô nhiễm
0
Igeo ≤ 0
Không
1
0 ≤ Igeo ≤ 1
Không trung bình
2
1 ≤ Igeo ≤ 2
Trung bình
3
2 ≤ Igeo ≤ 3
Trung bình nặng
4
3 ≤ Igeo ≤ 4
Nặng
5
4 ≤ Igeo ≤ 5
Nặng rất nghiêm trọng
6
5 ≤ Igeo
Rất nghiêm trọng
Hàm lượng nền chỉ là giá trị hàm lượng trung bình bình của các kim loại trong vỏ
trái đất. Thực tế, ở các địa điểm khác nhau hàm lượng kim loại trong đất, đá có thể rất
khác nhau. Vì vậy, việc đánh giá ô nhiễm trầm tích theo chỉ số này chỉ nên xem là một
chỉ số tham khảo thêm.
1.3.2 Chỉ số đánh giá mức độ rủi ro RAC (Risk Assessment Code)
Chỉ số đánh giá rủi ro RAC (Risk Assessment Code) là thông số để đánh giá khả
năng kim loại trong trầm tích giải phóng vào nước, đi vào chuỗi thức ăn và dẫn đến
nguy cơ tích lũy các kim loại nặng trong cơ thể con người (Rath et.al, 2009 [64]). Trong
trầm tích, ở dạng trao đổi (F1) và dạng cacbonat (F2) kim loại liên kết tương đối yếu
với trầm tích do đó dễ giải phóng vào nước và đi vào chuỗi thức ăn. Vì vậy chỉ số RAC
được tính theo tổng phần trăm của dạng trao đổi và cacbonat.
Tiêu chuẩn đánh giá mức độ ô nhiễm dựa vào chỉ số RAC được trình bày trong
bảng sau:
Bảng 1.9 Tiêu chuẩn đánh giá mức độ rủi ro theo chỉ số RAC
STT
Mức độ rủi ro
RAC (%) (dạng
F1+ F2)
1
Không
< 1
2
Thấp
110
3
Trung bình
1130
4
Cao
3150
15
5
Rất cao
lớn hơn 50
RAC là chỉ số đánh giá chất lượng trầm tích rất quan trọng, thể hiện rõ khả năng
gây ảnh hưởng thực tế đến sức khỏe con người của các kim loại nặng trong trầm tích.
Trong các tiêu chuẩn đánh giá trầm tích trên, mỗi tiêu chuẩn thể hiện một khía
cạnh đánh giá ô nhiễm trầm tích. Vì vậy, để có thể đánh giá một cách toàn diện về
chất lượng trầm tích, chúng ta nên kết hợp cả 2 cách đánh giá trầm tích theo hàm lượng
tổng và theo thành phần phần trăm các dạng của kim loại trong trầm tích.
1.3.3 Tiêu chuẩn đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại trong trầm tích theo hàm lượng
tổng kim loại của Mỹ và Canada
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng 2 tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm kim loại nặng
trong trầm tích theo hàm lượng tổng là tiêu chuẩn của Canada (2002) và tiêu chuẩn của
Mỹ U.S EPA (1997).
Bảng 1.10 Tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm kim loại nặng trong trầm tích theo hàm lượng
tổng (mg/kg) của Canada (2002) [35]
Mức độ ô nhiễm
Cu
Pb
Zn
Cd
Yếu
18,7
32
124
0,676
Trung bình
28,1
48
186
1,014
Mạnh
37,4
64
248
1,352
Rất mạnh
56,1
96
372
2,028
Mức gây ảnh hưởng
108
112
271
4.21
Bảng 1.11 Tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm kim loại nặng trong trầm tích theo hàm lượng
tổng (mg/kg) của Mỹ (US EPA (1997) [68])
Mức độ ô nhiễm
Cu
Pb
Zn
Không ô nhiễm
< 25
< 40
< 90
Ô nhiễm nhẹ
2550
4060
90200
lớn hơn
50
lớn hơn
60
lớn hơn 200
Ô nhiễm nghiêm trọng
16
Cd
lớn hơn 6
1.4 Một số phương pháp hiện đại phân tích lượng vết kim loại .
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, ngày nay có rất nhiều phương
pháp công cụ khác nhau để phân tích lượng vết kim loại như: phương pháp quang phổ
phân tử UVVIS, phương pháp quang phổ nguyên tử (hấp thụ, phát xạ và huỳnh quang),
phổ khối lượng (MS), phương pháp điện hóa… Tuy nhiên với những đặc tính ưu việt
về độ nhạy, độ chọn lọc, độ chính xác, giới hạn phát hiện và sự đơn giản trong vận
hành, phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) là phương pháp được áp dụng rộng
rãi để phân tích kim loại trong nhiều đối tượng phân tích khác nhau. Chính vì vậy, trong
đề tài chúng tôi đã áp dụng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) để phân tích
hàm lượng của các kim loại Zn, Cu, Pb, Cd trong một số cột trầm tích sông Cầu trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên.
1.4.1 Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) [4, 13]
1.4.1.1 Nguyên tắc
Các nguyên tử ở trạng thái khí ở mức năng lượng cơ bản E0 có thể hấp thụ một
số bước sóng nhất định và đặc trưng cho nguyên tố hóa học để nhảy lên mức năng
lượng cao hơn. Khi chiếu qua đám hơi nguyên tử kim loại một chùm sáng đơn sắc có
bước sóng thích hợp một phần chùm sáng sẽ bị hấp thụ. Dựa vào độ hấp thụ ta có thể
xác định được hàm lượng của kim loại cần xác định trong đám hơi đó.
Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử có độ chọn lọc rất cao và có giới hạn phát
hiện có thể tới cỡ µg/kg vì vậy nó được xem là một phương pháp tiêu chuẩn để xác
định hàm lượng các ion kim loại.
Thực hiện phép đo AAS để xác định các một nguyên tố thường thực hiện theo
các bước sau:
1. Chuyển mẫu phân tích thành dạng dung dịch đồng thể.
2. Hóa hơi dung dịch phân tích.
3. Nguyên tử hóa chất phân tích. Có 4 kỹ thuật nguyên tử hóa trong AAS đó
là: kỹ thuật ngọn lửa (FAAS); kỹ thuật không ngọn lửa (GFAAS); kỹ thuật
Hydrua hóa; kỹ thuật nguyên tử hóa mẫu rắn và bột.
4. Chiếu chùm sáng có bước sóng đặc trưng qua đám hơi nguyên tử.
17
5. Thu phổ, phân giải và chọn một bước sóng xác định để đo và đo Aλ.
6. Ghi lại kết quả đo Aλ.
Cường độ của vạch phổ hấp thụ phụ thuộc vào nồng độ của nguyên tố đó trong
dung dịch phân tích. Trong một khoảng giới hạn nồng độ nhất định (vùng tuyến tính) thì
cường độ vạch phổ phụ thuộc tuyến tính bậc nhất vào nồng độ. Vì vậy dựa vào cường
độ vạch phổ ta có thể xác định được nồng độ của các kim loại trong dung dịch phân
tích.
1.4.1.2 Trang thiết bị của máy đo AAS
Hệ thống máy AAS gồm các bộ phận chủ yếu sau:
1. Nguồn cung cấp chùm tia sáng đơn sắc của nguyên tố cần phân tích, có thể là một
trong số các nguồn sau: đèn Catốt rỗng (Hollow Cathod Lamp : HCL), đèn phóng điện
không điện cực (Electrodeless Disharge Lamp: EDL), nguồn đèn phổ liên tục biến điệu
(lượng tử hoá).
2. Hệ thống trang bị để hoá hơi và nguyên tử hoá mẫu, có thể là:
+ Theo kỹ thuật Ngọn lửa (phép đo FAAS).
+ Theo kỹ thuật Không ngọn lửa (Phép đo GFAAS).
+ Theo kỹ thuật hóa hơi lạnh (CVAAS).
3. Máy quang phổ (thu phổ, phân giải, ghi và chọn vạch phổ λ để đo độ hấp thụ Aλ).
4. Bộ phận ghi nhận tín hiệu đo, xử lý và chỉ thị kết quả.
Hiện nay các hệ AAS trang bị hoàn chỉnh còn có thêm một số bộ phận:
5. Hệ thống tự động bơm mẫu (AutoSampler).
6. Hệ thống hoá hơi lạnh (Kỹ thuật Hydrua hoá).
7. Trang bị nguyên tử hoá mẫu rắn và mẫu bột.
18
Hình 1.1 Sơ đồ cấu tạo hệ thống máy AAS
1.4.1.3 Các kỹ thuật nguyên tử hóa
1.4.1.3.1 Kỹ thuật ngọn lửa (FAAS)
Nguyên tắc: dùng năng lượng nhiệt của ngọn lửa đèn khí để hóa hơi và nguyên
tử hóa mẫu phân tích tạo thành các nguyên tử tự do. Vì thế mọi quá trình xảy ra trong
khi nguyên tử hóa phụ thuộc vào tính chất và đặc điểm của ngọn lửa trong đó nhiệt độ
ngọn lửa là yếu tố quyết định.
Đèn khí được đốt bởi một hỗn hợp gồm 1 chất oxi hóa và một khí nhiên liệu.Ví
dụ như: hh không khí + axetilen (toC có thể đến 2500oC); N2O + axetilen (toC có thể đến
2950oC), không khí + propan (toC có thể đến 2200oC).
1.4.1.3.1 Kỹ thuật không ngọn lửa (GFAAS)
Nguyên tắc: Dùng năng lượng nhiệt của dòng điện có cường độ cao (300500
A) để đốt nóng tức khắc cuvet Graphite chứa mẫu phân tích, thực hiện nguyên tử hoá
(NTH) mẫu phân tích trong cuvet (hay trong thuyền Ta đặt trong cuvét graphit để loại
trừ sự hình thành hợp chất cacbua kim loại của chất phân tích).
Kỹ thuật GFAAS do
tạo được ngọn lửa có nhiệt độ cao và ổn định vì vậy nó có độ nhạy rất cao gấp hàng
trăm đến hàng ngàn lần phương pháp ngọn lửa ( giới hạn phát hiện cỡ ppb).
1.4.2 Phương pháp phổ phát xạ nguyên tử (AES) [13]
19
Cơ sở lí thuyết của phương pháp này dựa trên hiện tượng các nguyên tử ở trạng
thái khí khi bị kích thích nó thấp thụ năng lượng chuyển lên mức năng lượng cao Em sau
đó nó phát ra các tia phát xạ có bước sóng xác định đặc trưng cho nguyên tử của mỗi
nguyên tố để trở về trạng thái năng lượng cơ bản E0.
Các bước thực hiện khi phân tích một nguyên tố theo phương pháp AES:
1. Hóa hơi mẫu phân tích.
2. Nguyên tử hóa chất phân tích.
3. Kích thích nguyên tử bằng năng lượng thích hợp để chuyển lên mức năng
lượng cao. Các nguyên tử kích thích sẽ phát ra các tia phát xạ.
4. Thu toàn bộ phổ và phân giải thành từng tia.
5. Ghi lại phổ phát xạ.
6. Đánh giá định tính và định lượng ion kim loại.
Phổ AES là phổ vạch và có nhiều vạch hơn so nên độ nhạy kém hơn so với phổ
AAS. Những vạch phổ đặc trưng của AES trùng với AAS.
1.4.3 Phương pháp phổ huỳnh quang nguyên tử [8, 13]
Cơ sở của phương pháp phổ huỳnh quang nguyên tử dựa trên hiện tượng một số
nguyên tử khi bị kích thích bởi các bức xạ nó hấp thu năng lượng chuyển lên mức năng
lượng cao sau đó ngay lập tức nó bị suy biến và trở về mức năng lượng cơ bản đồng
thời phát ra các bức xạ huỳnh quang đặc trưng cho từng nguyên tố.
Phổ huỳnh quang nguyên tử cũng là phổ vạch tương tự như phổ phát xạ nguyên
tử nhưng có số vạch ít hơn vì vậy nó có tính chất chọn lọc hơn phổ phát xạ nguyên tử.
1.4.4 Các phương pháp điện hóa [4]
1.4.4.1 Phương pháp cực phổ
Cơ sở của phương pháp cực phổ dựa trên việc biểu diễn sự phụ thuộc của
cường độ dòng điện vào thế điện cực của điện cực khi làm việc gọi là đường dòng thế
hay đường cong VolAmpe. Dựa vào đường những đặc trưng của đường cong Vol
Ampe có thể xác định định tính (dựa vào thế bán sóng) và định lượng (dựa vào chiều cao
sóng). Các phương pháp cực phổ cổ điển có độ nhạy thấp 104 đến 105 và độ chọn lọc
cũng không cao do đường cong cực phổ của các chất điện hoạt trồng lên nhau làm cho
20
phổ đồ có dạng bậc thang. Hiện nay, nhờ một số cải tiến đã nâng cao độ nhạy của
phương pháp có thể đạt cỡ 109 g/g.
1.4.4.2 Phương pháp vonampe hòa tan
Nguyên tắc của phương pháp gồm 3 giai đoạn chính:
+ Làm giàu chất điện hóa lên trên bề mặt điện cực dưới dạng kết tủa kim loại
hoặc hợp chất khó tan bằng cách điện phân dung dịch ở những điều kiện thích hợp
+ Giai đoạn nghỉ: ngừng khuấy và điện phân để chất phân tích phân bố đều trên
bề mặt điện cực
+ Giai đoạn hòa tan điện hóa: hòa tan kết tủa bằng cách phân cực điện cực chỉ thị
theo chiều ngược lại và ghi đường cong VonAmpe hòa tan.
Phương pháp vonampe hòa tan có ưu điểm là độ chọn lọc, độ nhạy cao; độ lặp
lại và độ chính xác tốt, giới hạn phát hiện có thể đạt cỡ 108 đến 1010M.
1.4.5 Phương pháp phổ khối lượng ICPMS [12]
Trong plasma ICP (ngọn lửa ICP), khi thể sol khí mẫu được dẫn vào, các chất
mẫu sẽ hoá hơi, rồi bị phân ly thành các nguyên tử tự do ở trạng thái khí. Trong Plasma
ICP năng lượng cao (nhiệt độ 6000 8000oC), các nguyên tử sẽ bị ion hoá, tạo ra đám hơi
ion bậc I (Me+). Đó là các ion của nguyên tố trong mẫu phân tích có điện tích +1 và số
khối m/Z. Các ion này sẽ được đưa vào buồng phân giải phổ để phân ly chúng thành
phổ dựa vào giá trị m/Z.
Phổ ICPMS có độ nhạy cao hơn nhiều so với các phương pháp phổ hấp thụ và
phát xạ nguyên tử. Giới hạn phát hiện của nó có thể đạt tới cỡ ppt. Đồng thời phổ ICP
MS có độ ổn định cao, độ lặp lại tốt và vùng tuyến tính rộng. Chính vì vậy phương
pháp phổ ICPMS ngày càng được chú ý sử dụng rộng rãi.
1.5 Một số công trình nghiên cứu xác định các dạng kim lọai nặng trong mẫu trầm
tích
Những năm gần đây, ô nhiễm môi trường đã và đang là vấn đề nhức nhối của
toàn xã hội. Đã có rất nhiều các công trình công bố về phân tích dạng của kim loại
trong mẫu trầm tích cả trong và ngoài nước. Trong hầu hết các công trình đó quy trình
chiết được sử dụng nhiều nhất là quy trình chiết liên tục cải tiến của Tessier [36, 38,
21
39, 58, 62, 63, 67] và quy trình của BCR còn phương pháp để xác định nồng độ các kim
loại trong dịch chiết chủ yếu là dùng phương pháp AAS, ICPMS...
Tác giả Vũ Đức Lợi cùng các cộng sự (2010) [6] đã phân tích dạng của một số
kim loại nặng trong trầm tích lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy trên cơ sở sử dụng quy
trình chiết liên tục cải tiến Tessier và dùng phương pháp AAS để xác định hàm lượng
kim loại trong dịch chiết. Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng tổng của các kim loại
là: Zn: 88,2 – 559,2 mg/kg; Cu: 25 – 95 mg/kg; Pb: 25,7 – 91,7 mg/kg; Ni: 34,69 – 81
mg/kg; Cd: 0,406 – 9,071 mg/kg. Các nguyên tố Cu, Ni, Pb chủ yếu tồn tại ở các dạng
liên kết bền F4, F5. Riêng Cd và Zn chủ yếu tồn tại ở các pha F1, F2 thể hiện nguy cơ
lan truyền ô nhiễm và khả năng tích lũy sinh học của hai nguyên tố này.
Tác giả Vũ Đức Lợi, Nguyễn Thị Vân (2011) [7] đã phân tích dạng các kim loại
Cu, Pb, Zn trong một số cột trầm tích hồ Trị An cũng sử dụng quy trình chiết liên tục
cải tiên Tessier và phương pháp AAS. Kết quả thu được cụ thể như sau:
+ với kim loại Cu dạng F1: 0,01 – 0,98 mg/kg; F2: 0,140 – 1,940 mg/kg; F3: 0,78
8,9 mg/kg; F4: 0,47 – 3,58 mg/kg; F5: 13,025 – 42,7 mg/kg.
+ với kim loại Pb dạng F1: 0,023 – 0,35 mg/kg; F2: 1,3 – 7,8 mg/kg; F3: 2,4 – 14
mg/kg; F5: 10,75 – 32,75 mg/kg.
+ với kim loại Zn dạng F1: 0,33 – 4,15 mg/kg; F2: 0,98 – 4,62 mg/kg; F3: 4,84 –
18,74 mg/kg; F4: 1,84 – 12,96; F5: 39,75 – 100,75 mg/kg.
Qua kết quả tính toán cho thấy các kim loại Cu, Pb, Zn chủ yếu tồn tại ở các
dạng bền F3, F4 và F5. Đồng thời trên cơ sở so sánh với một số tiêu chuẩn về đánh giá
mức độ ô nhiễm của trầm tích các tác giả đã kết luận mức độ ô nhiễm trầm tích trong
lòng hồ Trị An mới chỉ ở mức độ nhẹ đến trung bình.
M. Horsfaal JR và A.I. Spiff (2001) [54] đã nghiên cứu sự phân bố hàm lượng
tổng và dạng của các kim loại Pb, Zn, Cd, Co, Cu, Ni trong mẫu trầm tích sông New
Calabar sử dụng quy trình chiết liên tục Tessier (1979) và xác định hàm lượng kim loại
bằng phương pháp AAS. Kết quả thu được hàm lượng tổng của các kim loại Pb: 41,6
mg/kg; Zn: 31,6 mg/kg; Cd: 12,8 mg/kg; Cu: 25,5 mg/kg. Ở d ạng trao đổi các kim loại
có hàm lượng lớn là Co (19,42 %), Ni (12,67 %) và Cd (5 %); ở dạng F2 có hàm lượng
22
lớn là Cd (53 %), Zn (31,08 %), Pb (17,08 %). Từ kết quả này cho thấy nguy cơ lan
truyền ô nhiễm của các kim loại nặng trên từ trầm tích vào nước sông và có thể dẫn
đến sự tích lũy sinh học cho các động vật thủy sinh và con người.
G. Glosinska và cộng sự (2005) [42] đã phân tích dạng các kim loại Cd, Cr, Cu,
Fe, Mn, Ni, Pb và Zn trong mẫu trầm tích bề mặt dọc theo trung lưu sông Odra, sử dụng
quy trình chiết cải tiến Tessier. Kết quả phân tích cho thấy kim loại có phần trăm ở
dạng linh động (F1 và F2) cao là Ni (59 %) và Cu ( 35 %). Ngoài ra còn có sự tương
quan tốt giữa hàm lượng các nguyên tố Zn, Mn và Cd ở dạng F1, F2 với dạng F5.
1.6 Khu vực nghiên cứu
1.6.1 Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội lưu vực sông Cầu
1.6.1.1 Điều kiện tự nhiên [26]
Hình 1.2 Bản đồ lưu vực sông Cầu
23
Lưu vực sông Cầu là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt Nam, có vị trí địa
lý đặc biệt, đa dạng và phong phú về tài nguyên cũng như về lịch sử phát triển kinh tế
xã hội của các tỉnh nằm trong lưu vực của nó. Lưu vực sông Cầu có diện tích 6.030km3
là một phần của Lưu vực sông Hồng – Thái Bình (chiếm khoảng 8% diện tích Lưu vực
sông Hồng – Thái Bình trong lãnh thổ Việt Nam). Lưu vực có tổng chiều dài các nhánh
sông khoảng 1.600km. Sông Cầu dài 288,5 km bắt nguồn từ núi Vạn On ở độ cao
1175m thuộc huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Cạn chạy qua các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Bắc Giang, Hà Nội, Bắc Ninh và đổ vào sông Thái Bình ở thị xã Phả Lại tỉnh Hải
Dương. Lưu vực bao gồm gần như toàn bộ các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên và một phần
các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Hải Dương và Hà Nội ( huyện Đông Anh,
Sóc Sơn).
Lưu vực sông Cầu có cả 3 vùng sinh thái: đồng bằng, trung du và miền núi. Địa hình
chung của lưu vực theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Mạng lưới sông suối trong lưu
vực sông Cầu tương đối phát triển. Các nhánh sông chính phân phối đều dọc theo dòng
chính, nhưng các sông nhánh tương đối lớn đều nằm ở phía hữu ngạn lưu vực, như các
sông: Chợ Chu, Đu, Công, Cà Lồ…Trong toàn lưu vực có 68 sông suối có độ dài từ 10
km trở lên.
Tổng lượng nước trên Lưu vực sông Cầu khoảng 4,5 tỷ m 3/năm. Dòng chảy các
sông thuộc Lưu vực sôngCầu được phân biệt thành hai mùa rõ rệt là mùa lũ và mùa khô.
Mùa lũ thường bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 10.
Trong lưu vực có vườn quốc gia Ba Bể và vườn quốc gia Tam Đảo, khu bảo tồn
thiên nhiên Kim Hỷ và các khu văn hóa lịch sử môi trường với giá trị sinh thái cao. Lưu
vực sông Cầu khá giầu các nguồn tài nguyên thiên nhiên: tài nguyên rừng đa dạng, tài
nguyên nước dồi dào, tài nguyên khoáng sản phong phú... Độ che phủ của rừng trong
lưu vực sông Cầu được đánh giá là trung bình, đạt khoảng 45%. Tuy nhiên, rừng bị phá
hủy mạnh mẽ cùng những hoạt động phát triển kinh tế, xã hội khác như công nghiệp,
khai thác mỏ, làng nghề thủ công và hoạt động nông nghiệp gây áp lực lớn lên môi
trường trong lưu vực.
1.6.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội [26]
24
Lưu vực sôngCầu là một vùng tập trung khá đông dân cư, theo số liệu thống kê
và tính toán từ niên giám các tỉnh năm 2007, tổng dân số trên lưu vực sông Cầu là
2.939.838 người thuộc 44 dân tộc khác nhau, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh. Mật độ
dân số bình quân trên lưu vực 487 người/km2. Số dân ở nông thôn chiếm tỷ lệ rất lớn
80,01% (2.354.543 người) trong khi đó dân thành thị chỉ khoảng 585,3 nghìn người
chiếm 19,91%. Dân số tập trung đông ở vùng đồng bằng.
Với các thế mạnh về điều kiện tự nhiên, các hoạt động sản xuất kinh tế trên địa
bàn các tỉnh thuộc lưu vực sông Cầu diễn ra rất mạnh mẽ trên các lĩnh vực nông – lâm
ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề. Những hoạt động sản
xuất và sinh hoạt này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường lưu vực sông.
Trên địa bàn lưu vực sông Cầu tập trung rất nhiều các mỏ khai thác khoáng sản
lớn như khai thác than, vàng, sắt, thiếc, kẽm, chì ở các tỉnh Bắc Cạn và Thái nguyên.
Các hoạt động khai thác khoáng sản nhiều năm nay do chưa được quản lí chặt chẽ đã
dẫn đến hiện tượng ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước trong khu vực.
Trên lưu vực sông Cầu còn tập trung rất nhiều khu công nghiệp và chế xuất lớn
như: các khu công nghiệp luyện kim ở Thái Nguyên, các khu công nghiệp lớn ở Bắc
Ninh, Hải Dương. Đồng thời trong khu vực trên còn tập trung rất nhiều các làng nghề
tiểu thủ công nghiệp như: chế biến giấy ở Bắc Giang, Bắc Ninh; luyện và tái chế kim
loại ở Bắc Ninh, Thài Nguyên... Các hoạt động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp trên đã thải vào hệ thống sông Cầu một lượng lớn các chất thải độc hại chứa
nhiều các kim loại nặng
Trên địa bàn lưu vực sông Cầu còn tập trung rất nhiều đô thị, các trung tâm y tế
lớn nhỏ khác nhau mà hầu hết chưa có hệ thống xử lí rác và nước thải sinh hoạt, y tế
đồng bộ cũng góp phần làm cho tình hình ô nhiễm trên hệ thống sông Cầu thêm trầm
trọng.
Tóm lại do các hoạt động sinh hoạt và sản xuất chưa được quản lí chặt chẽ đã
thải ra một lượng lớn chất thải hầu hết chưa qua xứ lí vào hệ thống sông, khiến cho
sông Cầu đang đứng trước tình trạng báo động về ô nhiễm môi trường nguồn nước đặc
biệt là ô nhiễm các chất hữu cơ độc hại, các kim loại nặng như Cu, Fe, Zn, Pb, Cd...
25