ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Dương Thanh Nga
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN
CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẶT TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội – Năm 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Dương Thanh Nga
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN
CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẶT TỈNH NGHỆ AN
CHUYÊN NGÀNH
: MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ
: 60 85 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS LƯU ĐỨC HẢI
Hà Nội – Năm 2012
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.
Lưu Đức Hải đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết khóa luận tốt
nghiệp.
Tôi chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Môi trường, Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên đã tận tình truyền đạt kiến thức trong 2 năm học tập.
Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho
quá trình nghiên cứu luận văn mà còn là hành trang quí báu để tôi bước vào đời
một cách vững chắc và tự tin. Xin chân thanh cam
̀
̉ ơn cac thây cô trong hôi đông
́
̀
̣
̀
châm luân văn đa cho tôi nh
́
̣
̃
ững đong gop quy bau đê hoan chinh luân văn nay.
́
́
́ ́ ̉
̀
̉
̣
̀
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tập thể Lãnh đạo, nhân viên Trung tâm
Quan trắc và Kỹ thuật Môi trường Nghệ An đã tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp
nguồn số liệu phong phú để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn này. Cảm ơn gia
đình đã luôn ở bên, giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành đề
tài.
Cuối cùng Tôi kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và thành công
trong sự nghiệp cao quý!
Vinh, ngày 25 tháng 12 năm 2012
Người thực hiện
Dương Thanh Nga
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH
MỞ ĐẦU
70% cơ thể con người là nước (não chứa 85% nước, xương 22%, cơ bắp
75%, máu 92%, dịch bao tử 95%, răng 10%...). Nước là nguồn tài nguyên rất quan
trọng đối với sự sống và phát triển của con người. Tuy nhiên, tài nguyên nước
mặt trên Thế giới vô cùng hạn chế. Nước được dùng trong các hoạt động nông
nghiệp, công nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường. Hầu hết các hoạt động
trên đều cần nước ngọt. 97% nước trên Trái Đất là nước biển, chỉ 3% còn lại là
nước ngọt nhưng gần hơn 2/3 lượng nước này tồn tại ở dạng băng hà tại hai cực
và băng tuyết trên các đỉnh núi cao[16]. Phần còn lại không đóng băng được tìm
thấy chủ yếu ở dạng nước ngầm (0,6%), và chỉ một tỷ lệ nhỏ tồn tại trên mặt
đất và trong không khí (0,03%).
Là quốc gia nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, tổng lượng mưa lớn,
Việt Nam có nguồn tài nguyên nước mặt phong phú. Tổng lượng dòng chảy
trong năm đạt 835,5Km3, lượng nước bình quân 9210 m3/nguời/năm, cao hơn so
với trung bình thế giới. Tuy nhiên, tài nguyên nước mặt của chúng ta hiện đang
chịu tác động mạnh mẽ bởi các hoạt động của con người dẫn đến cạn kiệt và ô
nhiễm nguồn nước.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Nghệ An, vị thế của tài
nguyên nước mặt ngày càng được nâng cao và coi trọng. Theo chỉ tiêu đánh giá
của Hội tài nguyên nước Quốc tế (IWRA), Nghệ An được xếp vào khu vực đủ
nước sử dụng. Chất lượng nước mặt ngày càng trở thành vấn đề quan tâm của
các cấp các ngành cũng như cộng đồng dân cư hưởng lợi từ nguồn tài nguyên
này. Hiện tại trên địa bàn tỉnh Nghệ An, công tác điều tra cơ bản về tài nguyên
nước cũng như khả năng tiếp nhận của các nguồn nước bắt đầu được tiến hành
tại một số huyện. Báo cáo tổng quan về hiện trạng chất lượng nước mặt trên địa
bàn tỉnh Nghệ An phục vụ công tác quản lý nhà nước, cũng như cung cấp thông
tin đến cộng đồng hiện chưa được thực hiện. Từ nhu cầu thực tế đó, tác giả
luận văn đã chọn đề tài “Đánh giá hiện trạng và phân tích diễn biến chất lượng
7
nước mặt trên địa bàn tỉnh Nghệ An” giai đoạn 2010 2012 , đề xuất một số giải
pháp bảo vệ chất lượng nước mặt trên địa bàn.
Chương 1 TỔNG QUAN
1.1.
Tổng quan về đánh giá và phân tích diễn biến chất lượng nước
Hiện trạng môi trường của khu vực hoặc quốc gia là trạng thái môi
trường được thể hiện chủ yếu trên 3 phương diện: hiện trạng môi trường tự
nhiên, hiện trạng kinh tế xã hội tác động lên môi trường và các giải pháp bảo
vệ môi trường đã thực hiện.
Đánh giá hiện trạng môi trường cung cấp một bức tranh tổng thể về tình
trạng của môi trường và tài nguyên thiên nhiên, tác động của các hoạt động của
con người đến tình trạng môi trường cũng như các mối quan hệ của chúng đến
sức khỏe và phúc lợi kinh tế của con người.
Đánh giá hiện trạng môi trường nước là bộ phận của đánh giá hiện trạng
môi trường, cung cấp bức tranh tổng thể về hiện trạng môi trường nước và tác
động của con người đến hiện trạng đó; cũng như các mối quan hệ của chúng
đến sức khỏe và phúc lợi kinh tế của con người; đồng thời phân tích diễn biến
chất lượng nước.
1.2.
Tổng quan về môi trường nước mặt
1.2.1. Định nghĩa nước mặt
Nước mặt là một dạng tài nguyên nước. “ Nước mặt là nước tồn tại trên
mặt đất liền và hải đảo” [2].
Nước mặt là nước trong sông, hồ hoặc nước ngọt trong vùng đất ngập
nước. Nước mặt được bổ sung một cách tự nhiên bởi nước mưa và chúng mất đi
khi chảy vào đại dương, bốc hơi và thấm xuống đất.
1.2.2. Các dạng tồn tại của nước mặt
Các dạng tồn tại chủ yếu của nước mặt trên thế giới là:
Nước băng tuyết trên các vùng núi cao và địa cực
8
Nước hồ
Nước đầm lầy
Nước sông, suối
1.2.3. Trữ lượng nước mặt
Trữ lượng nước hồ hiện nay vẫn chưa có số liệu thống kê đầy đủ. Ước
tính sơ bộ trên toàn thế giới có 2,8 triệu hồ tự nhiên , trong đó145 hồ có có diện
tích mặt nước trên 100 Km2, chiếm 95% tổng khối lượng nước, trong đó có 56%
là các hồ nước ngọt. Ngoài ra, trên lục địa còn có trên 10.000 hồ nhân tạo có sức
chứa 5000 Km3 (1,78%)nhằm chứa nước phục vụ cho nhu cầu của con người[16].
Bảng : Đặc trưng một số hồ nhân tạo lớn trên thế giới[16]
Tên hồ
Dung tích
(Km3)
Vị trí
Diện tích
(Km2)
Sông
Châu, Nước
Odenfols và Vicloria
Nil
Châu Phi
205
76000
Bratxk
Angara
CHLB Nga
169,3
5470
Cariba
Zambez
i
Dămbia và Rodedia Nam
160,4
4450
Naxer
Nit
Xuđăng, Ai Cập
157,0
5120
Volta
Volta
Gana
148,0
8480
Ở Việt Nam, hầu hết các hồ chứa đều được xây dựng cho nhiều mục đích
khác nhau như phòng chống lũ lụt, tưới tiêu, thủy điện, cấp nước và các mục tiêu
9
quản lý lưu lượng dòng chảy khác. Cả nước có khoảng 3.600 hồ chứa, trong đó
chưa đến 15% là các hồ cỡ vừa và lớn (dung lượng trên 1 triệu m 3 hoặc có độ
cao lớn hơn 10m).
Bảng : Một số hồ chứa ở Việt Nam[16]
Hồ chứa
Diện tích lưu vực Dung tích
(km2)
(106. M3)
Hòa Bình
51.700
9.450
Thủy
điện
(MW)
1.920
Thác Bà
6.100
2.940
108
Trị An
14.600
2.760
420
Dầu Tiếng
2.700
1.580
7.200
Thác Mơ
2.200
1.370
150
Yaly
7.455
1.037
720
Phú Ninh
235
414
23.000
Kẻ Gỗ
223
345
17.000
Hồ Cửa Đạt
1.450
87.000
97
Hồ Vực
Mấu
26,4
1524
Núi Cốc
175
Cấm Sơn
250
10
Diện tích tưới
tiêu (ha)
Sông Rác
124,5
Nước đầm lầy ước tính 11.470 km3 với tổng diện tích 2.682 km2 . Trong đó
trên phần lãnh thổ châu Âu là 925 km2 , châu Phi 341 km2 , Bắc Mỹ 180 km2 , Nam
Mỹ 1332 km2 và châu Úc 4 km2. Đầm lầy ở nước ta phân bố chủ yếu ở Đồng
bằng sông Cửu Long. Đây là các đầm lầy ngập không thường xuyên, tập trung ở
vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên[17].
Nước sông luôn vận động và tuần hoàn. Tuy thể tích chứa của các sông
ước tính khoảng 1.200 km3 nhưng tổng lượng dòng chảy của sông rất phong phú,
lên tới 41.500 km3/ năm, nghĩa là dòng sông tái hồi. Tái hồi trung bình 34,6 lần
trong năm. Nhờ vậy khả năng khai thác dòng sông cho các mục đích khác nhau
tăng lên đáng kể. Điểm nổi bật là dòng chảy của sông phân bố không đều theo không
gian và thời gian.
Bảng : Dòng chảy sông theo lục địa
Tên lục địa
Diện tích
(103 km2)
Lượng dòng chảy bình quân năm
Châu Á
44.363
Tổng
số
(km3)
13.400
Bình quân diện tích
( 103 m3/ người)
302
Bình quân đầu
người
3
( 10 km3 / người)
4,6
Châu
Mỹ
42.081
17.822
914
37,9
Châu Phi
30.319
4.020
133
8,9
Châu Úc
8.511
1.890
222
75,6
Châu Âu
10.507
3.140
299
6,8
11
Toàn
cầ u
148.817
41.500
279
9,02
Bảng : Tài nguyên nước của các sông chính ở Việt Nam
Lưu vực
sông
Diện tích
lưu vực
Tổng dung lượng
Tổng diện
tích ở VN
(km2)
% tạo ra
trong VN
Tổng
(Tỷ m3)
Tổng lưu
lượng tạo ra
trong VN
% tạo ra
trong VN
Kỳ Cùng –
Bằng Giang
11.220
94
8,9
7,3
82
Hồng – Thái
Bình
155.000
55
137
80,3
59
28.400
62
20,2
16,5
82
27.200
65
27,5
24,5
89
10.350
100
17,9
17,9
100
13.900
100
13,8
13,8
100
44.100
85
36,6
32,6
89
795.000
8
580
55
11
Mã – Chu
Cả
Thu Bồn
Ba
Đồng Nai
Mê Kông
Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc, trong đó khoảng 2.360 sông có
chiều dài lớn hơn 10km. Cả nước có 8 con sông có diện tích lưu vực lớn, trên
10.000km2. Tổng dòng chảy trong năm đạt 835 tỉ m3, mùa khô chỉ chiếm 15%
30% tổng lượng dòng chảy cả năm.
1.2.4. Chất lượng nước mặt
12
Chất lượng nước mặt được đánh giá qua nồng độ hoặc hàm lượng các tác
nhân vật lý, hóa học, sinh học có trong nước qua các tiêu chuẩn cho từng mục
đích sử dụng. Thông thường con người sử dụng nước với 5 mục đích:
Nước cấp sinh hoạt
Nước phục vụ cho nông nghiệp
Nước phục vụ nuôi trồng thủy sane và bảo vệ đời sống hoang dã
Nước phục vụ cho nhu cầu giải trí, thể thao dưới nước
Nước cấp cho công nghiệp
Mỗi mục đích sử dụng cần có tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá riêng
về mức độ phù hợp cho nhu cầu sử dụng.
1.2.4.1.
Chất lượng nước sông ở Việt Nam
Đặc trưng nổi bật của chất lượng nước sông ở Việt Nam là độ đục khá
lớn do hiện tượng xói mòn rửa trôi. 80 – 90% tổng lượng cát bùn trong năm tập
trung vào mùa lũ[16]. Độ đục trung bình năm biến đổi từ 100g/m3 đến 500g/m3. Hệ
thống sông Hồng có độ đục lớn nhất, có khi lên đến 1000g/m3[16]. Hàng năm, các
sông ngòi Việt Nam chuyển ra biển 400 500 triệu tấn cát bùn, riêng sông Hồng
khoảng 120 triệu tấn.
Độ khoáng hóa của sông Việt Nam vào loại trung bình, khoảng 25 – 250
mg/l. Nước thuộc loại mềm và rất mềm. Nhiều vùng bị nhiễm mặn, đặc biệt là
vào mùa kiệt, điển hình là Đồng bằng sông Cửu Long[16].
Về tổng thể, chất lượng nước mặt ở nước ta khá tốt, ít bị ô nhiễm, đáp
ứng tiêu chuẩn sử dụng nước. Việc rửa trôi, pha loãng nước sông vào mùa lũ
giúp các sông nhanh chóng phục hồi trạng thái, chất lượng nước được đảm bảo.
Song không vì thế mà xem nhẹ vấn đề chống ô nhiễm. Sự tăng trưởng các ngành
công nghiệp, nông nghiêp đi kèm quá trình đô thị hóa đã gây ô nhiễm môt số đoạn
sông và nguy cơ ô nhiễm cao một số sông ngòi đi qua thành phố lớn và các khu
công nghiệp.
13
Một số sông có hiện tượng ô nhiễm cục bộ do sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp, chế biến lâm sản và chất thải sinh hoạt chưa qua xử lý…Ô nhiễm
dầu, hiện tượng axit hóa rất phổ biến và mức độ ô nhiễm có xu hướng tăng dần
về phía hạ lưu trên sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Ô nhiễm trên các sông chảy
qua một số đô thị lớn ( Hải Phòng, Huế, Hạ Long), mức độ ô nhiễm đều vượt
TCCP loại A. Các sông nội thành Hà Nội đã bị ô nhiễm, đặc biệt là các sông thoát
nước thải như Kim Ngưu, Tô Lịch…Các sông này không còn khả năng tự làm
sạch, chất lượng nước không đạt tiêu chuẩn cho phép loại B.
1.2.4.2. Chất lượng nước ao hồ Việt Nam
Hệ thống các ao, hồ, kênh rạch ở các thành phố lớn đều có hiện tượng ô
nhiễm ở các mức độ khác nhau. Các hồ trong nội thành ở các thành phố lớn (Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế) phần lớn ở tình trạng thái phú
dưỡng. Một số hồ chất lượng còn khá sạch (đạt tiêu chuẩn loại B) như hồ Tây,
Đầm Vạc (Vĩnh Phúc) có hàm lượng chất hữu cơ cao hơn TCCP loại B. Hồ
Thành (Bắc Ninh), hồ Bạch Đằng ( Hải Dương) đang bị ô nhiễm nặng. Ở vùng
ngoại thành và nông thôn, chất lượng môi trường nước hồ, ao được cải thiện, đã
và đang đáp ứng nhu cầu về sử dụng nước.
Trong sự nghiệp hiện đại hóa đất nước, sự tăng trưởng các ngành công
nghiệp, nông nghiệp đã kèm quá trình đô thị hóa đã gây ô nhiễm một số đoạn
sông và nguy cơ ô nhiễm cao ở một số sông ngòi đi qua các thành phố lớn, các
khu công nghiệp. Gây ô nhiễm nặng một số hồ là nơi tiếp nhận nguồn nước
thải. Đây là vấn đề thách thức lớn đối với việc khai thác, sử dụng nước trong
tương lai.
1.2.5. Các tác nhân gây ô nhiễm nước mặt
Ô nhiễm môi trường nước có thể gây ra do hiện tượng tự nhiên (núi lửa,
lũ lụt, xâm nhập mặn, phong hóa…) nhưng hoạt động của con người là nguyên
nhân phổ biến và quan trọng nhất. Các hoạt động của con người trong sinh hoạt,
sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khai khoáng, xây dựng các công trình thủy
14
lợi, giao thông đường thủy, du lịch…đưa khối lượng lớn nguồn thải vào nước
sông, hồ, gây suy giảm rõ rệt chất lượng nước tự nhiên ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới.
Có nhiều loại tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước, tuy nhiên để tiện lợi cho
việc quan trắc và kiểm soát ô nhiễm người ta có thể chia chúng làm 10 nhóm cơ
bản sau:
+ Các chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học
+ Các chất hữu cơ bền
+ Các kim loại nặng
+ Các ion vô cơ
+ Các khí độc hòa tan
+ Dầu mỡ
+ Các chất phóng xạ
+ Vi sinh vật gây bệnh
+ Các chất có mùi
+ Các chất thải rắn
1.3. Các Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An
Thành phần tự nhiên của nước nước mặt chịu tác động to lớn của các yếu
tố như vị trí địa lý, địa chất, địa hình, điều kiện khí hậu, thủy văn, ...cũng như
điều kiện kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An.
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Nghệ An là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, có tọa độ địa lý 18033’10’’ đến
20001’43’’ vĩ độ Bắc và từ 103052’53’’ đến 105048’50’’ kinh độ Đông. Với vị trí tiếp
giáp:
Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hóa;
Phía Đông giáp biển Đông;
15
Phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh;
Phía Tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Tỉnh Nghệ An có 1 thành phố loại 2, 02 thị xã và 17 huyện: Thành phố
Vinh; Thị xã Cửa Lò; Thị xã Thái Hòa; 10 huyện miền núi: Thanh Chương, Kỳ
Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Tân Kỳ, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ
Hợp, Nghĩa Đàn; 7 huyện đồng bằng: Đô Lương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi
Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành.
Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, chịu tác động
mạnh mẽ của các loại gió thổi theo mùa. Gió mùa mùa đông khô, lạnh tuy nhiên
khi vào đến Nghệ An độ ẩm được cải thiện phần nào nhờ vùng biển rộng lớn.
Gió mùa mùa hạ khô nóng, thiêu đốt vùng núi phía tây, tới tận đồng bằng ven
biển.
Địa chất
Các thành tạo địa chất trên địa bàn tỉnh Nghệ An được phân chia theo
nguồn gốc thành: các đá dạng xâm nhập, phun trào, biến chất, trầm tích và các
tích tụ bở rời.
Các loại đá xâm nhập phân bố dưới dạng các khối hoặc dải núi lớn, điển
hình ở khối Phu Hoạt (H. Quế Phong), khối Phu Lon (H. Kỳ Sơn). Ngoài ra,
chúng còn thể hiện dưới dạng các núi sót rải rác như ở khu vực H. Quỳ Châu,
Quỳ Hợp.
Các đá phun trào phân bố chủ yếu dưới dạng lớp phủ bazan, điển hình ở
khu vực huyện Nghĩa Đàn, thị xã Thái Hòa.
Các thành tạo biến chất phân bố tập trung ở phía Tây Bắc tỉnh, chủ yếu
trên địa bàn huyện Quế Phong, Quỳ Châu.
Các thành tạo trầm tích chiếm tỷ lệ diện tích lớn nhất so với các loại đá
khác trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Trong đó chia làm 2 nhóm: nhóm trầm tích lục
địa, vũng vịnh ven rìa và trầm tích biển khơi.
16
Hoạt động kiến tạo phá hủy hình đồ cấu trúc cổ, tạo lập cấu trúc mới,
làm biến vĩ mạnh mẽ đất đá. Những dấu hiệu đặc trưng cho hoạt động đứt gãy
khác như: các đới đập vỡ, dăm kết, mặt trượt, vết xước, phay cũng như những
dấu hiệu đặc trưng riêng cho đứt gãy giai đoạn Tân kiến tạo, thể hiện trên ảnh
vệ tinh và địa hình; làm biến dạng các thành tạo Kainozoi; làm xuất hiện các dị
thường về địa hóa, địa nhiệt, xuất lộ các nguồn nước khoáng, nước nóng.
Địa hình
Nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, Nghệ An có địa hình đa dạng, phức
tạp, bị chia cắt mạnh bởi các dãy đồi núi và hệ thống sông, suối. Về tổng thể,
địa hình nghiêng theo hướng Tây Bắc Đông Nam, với ba vùng sinh thái rõ rệt:
Miền núi, Trung du, Đồng bằng ven biển. Trong đó, miền núi chiếm tới 83%
diện tích lãnh thổ. Địa hình có độ dốc lớn, đất có độ dốc lớn hơn 8 O chiếm gần
80% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, đặc biệt có trên 38% diện tích đất có độ dốc lớn
hơn 250. Nơi cao nhất là đỉnh Pulaileng (2.711m) ở huyện Kỳ Sơn, thấp nhất là
vùng đồng bằng các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, có nơi chỉ cao
0,2 m so với mặt nước biển (xã Quỳnh Thanh, huyện Quỳnh Lưu). Đặc điểm địa
hình trên là một trở ngại lớn cho việc phát triển mạng lưới giao thông đường bộ,
đặc biệt là các tuyến giao thông vùng trung du và miền núi, gây khó khăn cho phát
triển lâm nghiệp và bảo vệ đất đai khỏi bị xói mòn, gây lũ lụt cho nhiều vùng
trong tỉnh. Tuy nhiên, hệ thống sông ngòi có độ dốc lớn, với 117 thác lớn, nhỏ là
tiềm năng lớn có thể khai thác để phát triển thuỷ điện và điều hoà nguồn nước
phục vụ sản xuất và dân sinh.
Đất đai
Nghệ An có diện tích tự nhiên là 16.490,25 km2. Hơn 80% diện tích là
vùng đồi núi nằm ở phía tây gồm 10 huyện, và 1 thị xã; Phía đông là phần diện
tích đồng bằng và duyên hải ven biển gồm 7 huyện, 1 thị xã và thành phố Vinh.
Phân chia theo nguồn gốc hình thành thì có các nhóm đất như sau:
17
+ Đất nguồn gốc trầm tích
Phân bố tập trung chủ yếu ở các huyện đồng bằng, ven biển, bao gồm 5
nhóm đất: đất cát; đất phù sa, dốc tụ; đất mặn; đất phèn mặn; đất bạc màu và
biến đổi do trồng lúa. Chiếm vị trí quan trọng trong số này có 189.000 ha đất phù
sa và nhóm đất cát, có ý nghĩa lớn đối với sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Sau đây
là đặc điểm của hai loại chính:
* Đất cát cũ ven biển: 21.428 ha (tập trung ở vùng ven biển), đất có thành
phần cơ giới thô, kết cấu rời rạc, dung tích hấp thụ thấp. Các chất dinh dưỡng
như mùn, đạm, lân đều nghèo, kali tổng số cao, nhưng kali dễ tiêu nghèo, thích
hợp và đã được đưa vào trồng các loại cây như: rau, lạc, đỗ, dâu tằm, ... .
* Đất phù sa thích hợp với canh tác cây lúa nước và màu: Bao gồm đất phù
sa được bồi hàng năm, đất phù sa không được bồi, đất phù sa lầy úng, đất phù sa
cũ có sản phẩm Feralit. Nhóm này có diện tích khoảng 163.202 ha, trong đó đất
phù sa không được bồi hàng năm chiếm khoảng 60%. Đất thường bị chia cắt
mạnh, nghiêng dốc và lồi lõm, quá trình rửa trôi diễn ra liên tục cả bề mặt và
chiều sâu. Loại đất này tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng, phần lớn được
dùng để trồng lúa nước (khoảng 74.000 ha). Các dải đất, bãi bồi ven sông và đất
phù sa cũ có địa hình cao hơn thường trồng ngô và cây công nghiệp ngắn ngày
khác.
* Ngoài hai loại đất chính trên còn có đất cồn cát ven biển và đất bạc màu,
tuy nhiên, diện tích nhỏ và có nhiều hạn chế trong sản xuất nông nghiệp.
+ Đất phát triển trong vỏ phong hóa đá gốc: Loại đất này tập trung chủ
yếu ở vùng núi (74,4%) và bao gồm các nhóm đất sau:
* Đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét (Fs)
Tổng diện tích 433.357 ha, phân bố trên một phạm vi rộng lớn ở hầu
khắp và tập trung nhiều ở các huyện Tương Dương, Con Cuông, Tân Kỳ,
Anh Sơn, Thanh Chương, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp.
18
Đất đỏ vàng trên phiến sét có ở hầu hết tất cả các loại địa hình nhưng
tập trung ở vùng núi thấp, độ dốc lớn, tầng đất khá dày. Đây là loại đất đồi núi
khá tốt, đặc biệt là về tính chất vật lý (giữ nước và giữ màu tốt), phù hợp để
phát triển các loại cây công nghiệp và cây ăn quả. Thời gian qua, loại đất này đã
được đưa vào sử dụng để trồng các loại cây như: chè, cam, chanh, dứa, hồ
tiêu,... Diện tích loại đất này còn nhiều và tập trung thành vùng lớn, nhất là ở
các huyện Anh Sơn, Thanh Chương, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳnh Lưu. Đây là
một thế mạnh của Nghệ An so với nhiều địa phương khác ở miền Bắc để phát
triển các loại cây công nghiệp và cây ăn quả.
* Đất vàng nhạt phát triển trên sa thạch và cuội kết (Fq)
Tổng diện tích 315.055 ha, phân bố rải rác theo dải hẹp xen giữa các dải
đất phiến thạch kéo dài theo hướng Tây Bắc Đông Nam của tỉnh qua nhiều
huyện miền núi và trung du như Thanh Chương, Anh Sơn, Tân Kỳ, Tương
Dương, Kỳ Sơn.... Do thành phần cơ giới tương đối nhẹ hơn so với đất phiến
thạch sét, nên đất vàng nhạt trên sa thạch thường bị xói mòn mạnh, tầng đất
tương đối mỏng và nhiều nơi trơ sỏi đá. Chỉ có một số nơi địa hình đồi núi cao,
thảm thực vật che phủ khá mới có độ dày tầng đất từ 5070 cm. Đất vàng nhạt
trên sa thạch thường nghèo dinh dưỡng, khả năng giữ nước và kết dính kém,
thành phần keo sét thấp, khả năng giữ màu, đến nay hầu như không sử dụng vào
sản xuất nông nghiệp. ở vùng cao có khả năng trồng một số cây công nghiệp
nhưng phải có chế độ bảo vệ nguồn nước và chống xói mòn tốt mới duy trì
được hiệu quả sử dụng đất.
* Đất vàng đỏ phát triển trên các đá axít (Fa)
Tổng diện tích khoảng 217.101 ha, phân bố rải rác ở các huyện Anh Sơn,
Con Cuông, Tương Dương, Quỳ Châu... Phần lớn đất vàng đỏ trên đá axít có
thành phần cơ giới nhẹ, nghèo dinh dưỡng, bị xói mòn rửa trôi mạnh, độ chua
lớn (PHKCL< 4), dung để trồng rừng.
* Đất đỏ nâu trên đá vôi (Fv)
19
Tổng diện tích khoảng 34.064 ha, phân bố rải rác ở các huyện: Tân Kỳ,
Nam Đàn, Quỳ Hợp... Đất đỏ nâu trên đá vôi ở các vùng địa hình thấp thường có
tầng dày hơn; ở vùng núi cao đất đá vôi bị phong hoá và rửa trôi mạnh nên tầng
đất mỏng hơn. Tuy nhiên, phần lớn đất đá vôi có độ dày tầng đất khá thường
trên 50 cm, độ phì ở đất đá vôi khá. Đất đỏ nâu trên đá vôi thích hợp cho việc
trồng nhiều loại cây lâu năm như: cam, chè, cà phê, cao su... và có tầng đất dày,
độ dốc thoải và độ phì khá. Tuy nhiên, diện tích đất đá vôi này không lớn mà
phân bố manh mún, có thể kết hợp với những đất khác để tạo nên những vùng
cây trồng có hiệu quả kinh tế cao.
*Đất nâu đỏ trên bazan (Fk)
Tổng diện tích khoảng 14.711 ha, phân bố chủ yếu ở vùng kinh tế Phủ
Quỳ. Đây là loại đất tốt, thoát nước tốt nhưng giữ nước kém, có tầng dày trên 1
m, địa hình khábằng phẳng, ít dốc (độ dốc nhỏ hơn 100), rất thích hợp với cây
công nghiêp dài ngày. Hầu hết loại đất này đã được sử dụng vào sản xuất, chủ
yếu là trồng cao su, cà phê, cam,... và cho hiệu quả kinh tế cao.
*Đất Feralit đỏ vàng trên núi, đất mùn trên núi cao
Loại đất này chiếm gần 20% diện tích thổ nhưỡng. Tuy có độ phì cao,
song khả năng phát triển sản xuất nông nghiệp bị hạn chế do tập trung chủ yếu
trên núi cao, địa hình dốc và bị chia cắt mạnh, thích hợp cho sản xuất lâm
nghiệp.
Đặc điểm khí hậu
+ Chế độ nhiệt
Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23 – 240C, tương ứng với tổng nhiệt năm
là 8.7000C. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong năm khá cao. Nhiệt độ
trung bình các tháng nóng nhất (tháng 6 đến tháng 7) là 330C, nhiệt độ cao tuyệt
đối 42,70C; nhiệt độ trung bình các tháng lạnh nhất (tháng 12 năm trước đến
20
tháng 2 năm sau) là 190C, nhiệt độ thấp tuyệt đối 0,50C. Số giờ nắng trung
bình/năm là 1.500 1.700 giờ.
+ Chế độ mưa
Nghệ An là tỉnh có lượng mưa trung bình so với các tỉnh khác ở miền Bắc.
Lượng mưa bình quân hàng năm dao động từ 1.2002.000 mm/năm với 123 152
ngày mưa, phân bổ cao dần từ Bắc vào Nam và từ Tây sang Đông và chia làm hai
mùa rõ rệt:
* Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa chỉ chiếm 15
20% lượng mưa cả năm, tháng khô hạn nhất là tháng 1, 2; lượng mưa chỉ đạt 7
60 mm/tháng.
* Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa tập trung chiếm 80 85%
lượng mưa cả năm, tháng mưa nhiều nhất là tháng 8, 9 có lượng mưa từ 220
540mm/tháng, số ngày mưa 15 19 ngày/tháng, mùa này thường kèm theo gió bão.
+ Độ ẩm không khí
Độ ẩm hàng năm dao động từ 80 90%, có sự phân hóa giữa các vùng và
theo mùa. Chênh lệch giữa độ ẩm trung bình tháng ẩm nhất và tháng khô nhất tới
18 19%; vùng có độ ẩm cao nhất là thượng nguồn sông Hiếu, vùng có độ ẩm
thấp nhất là vùng núi phía Nam (huyện Kỳ Sơn, Tương Dương). Lượng bốc hơi
từ 700 940 mm/năm.
+ Chế độ gió
Nghệ An chịu ảnh hưởng của hai loại gió chủ yếu: gió mùa Đông Bắc và
gió phơn Tây Nam.
* Gió mùa Đông Bắc thường xuất hiện vào mùa Đông từ tháng 10 đến
tháng 4 năm sau, bình quân mỗi năm có khoảng 30 đợt gió mùa Đông Bắc, mang
theo không khí lạnh, khô làm cho nhiệt độ giảm xuống 5 10 oC so với nhiệt độ
trung bình năm.
* Gió phơn Tây Nam là một loại hình thời tiết đặc trưng cho mùa hạ của
vùng Bắc Trung Bộ. Loại gió này thường xuất hiện ở Nghệ An vào tháng 5 đến
21
tháng 8 hàng năm, số ngày khô nóng trung bình hằng năm là 20 70 ngày. Gió Tây
Nam gây ra khí hậu khô, nóng và hạn hán, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và
đời sống sinh hoạt của nhân dân trên phạm vi toàn tỉnh.
+ Các hiện tượng thời tiết khác
Là tỉnh có diện tích rộng, có đủ các dạng địa hình: miền núi, trung du,
đồng bằng và ven biển nên khí hậu tỉnh Nghệ An đa dạng, đồng thời có sự phân
hoá theo không gian và biến động theo thời gian. Bên cạnh những yếu tố chủ yếu
như nhiệt độ, lượng mưa, gió, độ ẩm không khí thì Nghệ An còn là một tỉnh chịu
ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới. Trung bình mỗi năm có 2 3 cơn bão,
thường tập trung vào tháng 8 và 10 và có khi gây ra lũ lụt.
Sương muối chỉ có khả năng xảy ra ở các vùng núi cao và một vài vùng
trung du có điều kiện địa hình và thổ nhưỡng thuận lợi cho sự thâm nhập của
không khí lạnh và sự mất nhiệt do bức xạ mạnh mẽ của mặt đất như khu vực
Phủ Quỳ.
Nhìn chung, Nghệ An nằm trong vùng khí hậu có nhiều đặc thù, phân dị rõ
rệt trên toàn lãnh thổ và theo các mùa, tạo điều kiện cho nhiều loại cây trồng
phát triển. Khí hậu có phần khắc nghiệt, đặc biệt là bão và gió Tây Nam gây trở
ngại không nhỏ cho sự phát triển chung, nhất là sản xuất nông nghiệp.
Thủy văn
Nghệ An có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông trung bình
khoảng 0,62 km/km2. Toàn tỉnh có 06 con sông trực tiếp đổ ra biển Đông. Trừ
sông Cả, sông Hiếu các con sông còn lại có lưu vực nhỏ, khoảng 500 km2 với
chiều dài trung bình khoảng 50 60 km.
Các sông khác bắt nguồn trong tỉnh chảy thẳng ra biển với đặc trưng các
sông đều ngắn, trữ lượng nước không lớn, lòng sông hẹp, nước chảy chậm, phần
lớn là sông nước mặn. Bao gồm các sông:
Sông Hoàng Mai dài 44 km;
Sông Dâu và sông Thái (Quỳnh Lưu) là sông nhiễm mặn;
22
Sông Bùng dài 53 km;
Sông Cấm dài 47 km.
Ngoài các con sông trên, Nghệ An còn có hệ thống kênh đào nối các sông với
nhau như kênh nhà Lê, là hệ thống sông đào nối Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc
vào đến Hưng Nguyên, với muc tiêu chính là d
̣
ẫn nước ngọt, ngăn nước mặn và
phục vụ giao thông, thuỷ lợi cho các huyện ven biển.
1.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội
Các yếu tố kinh tế xã hội như dân số, sự phát triển kinh tế (công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ…) là những yếu tố tác động mạnh mẽ tới chất lượng môi
trường nước mặt tỉnh Nghệ An
Kinh tế
+ Tình hình tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2011 đạt 10,38% , cao hơn hẳn tốc độ tăng
bình quân 5,9% của cả nước. Tổng GDP của tỉnh năm 2011 đạt 49.759 tỷ đồng[7]
(tính theo giá trị hiện hành). GDP bình quân đầu người là 16,9 triệu đồng/người.
Cơ cấu kinh tế của Nghệ An cũng chuyển dịch khá nhanh theo hướng
công nghiệp hóa. Năm 2011, tỷ trọng nông nghiệp 27,06%, công nghiệp xây dựng
34,86%, dịch vụ 38,08%[7]. Tỷ trọng trong GDP của khu vực công nghiệp xây
dựng tăng nhanh từ 18,6% năm 2000 lên 34,86% năm 2011. Trong khi đó, tỷ trọng
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm đáng kể, từ 44,3% còn 27,06% năm
2011. Khu vực dịch vụ tăng từ 37,1% năm 2000 lên 38,08% năm 2011[7]. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đã diễn ra theo chiều sâu và theo hướng tiến bộ; tích lũy tài
sản và đầu tư tăng, đời sống dân cư được cải thiện rõ rệt.
+ Ngành Nông Lâm Thủy sản
Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm (nông lâm thủy sản) hiện nay
vẫn là ngành kinh tế cơ bản của tỉnh Nghệ An hiện đang từng bước có sự
chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
23
Trong có cấu nông lâm thủy sản, nông nghiệp vấn chiếm tỷ trọng cao
nhất (85%)[7] trong khi đó, tỷ trọng của ngành lâm nghiệp chỉ chiếm 7%, ngành
thủy sản là 8% trong năm 2009. Trong ba nhóm ngành nông lâm thủy sản,
ngành thủy sản có tốc độ tăng nhanh nhất, trung bình giai đoạn 2005 2009 là
10,5%/năm, tiếp đến là nông nghiệp 6,3% và lâm nghiệp 3,3%.
Trong tỉnh đã hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hóa như: Vùng
lúa ở các huyện đồng bằng Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên;
Vùng mía ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Quỳ Châu...; Cà phê ở Nghĩa Đàn;
Cao su ở Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp...; Dứa ở Quỳnh Lưu, Yên Thành, Nghĩa
Đàn. Vùng sắn làm nguyên liệu cho các nhà máy chế biến ở các huyện miền núi
thấp. Tại các huyện ven biển, xuất hiện các khu vực nuôi trồng thủy sản như
tôm, cá, cua, ngao...
+ Công nghiệp
Trong những năm qua nhờ tổ chức có hiệu quả Luật Doanh nghiệp, Luật
Hợp tác xã và các văn bản quy phạm pháp luật về sản xuất kinh doanh nên đã
tạo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và sản xuất công nghiệp
nói riêng có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Vì vậy, số lượng của các cơ sở
sản xuất công nghiệp cũng như kết quả hoạt động đạt được đã và đang khẳng
định được vai trò của mình trong tăng trưởng kinh tế.
Dân số
Năm 2011, dân số tỉnh Nghệ An là 2.942.900[7] người, mật độ dân cư 178
người/km2, tỉ lệ gia tăng dân số 11,6%. Trong đó, 86,7%[7] dân số tập trung ở
nông thôn, chỉ có 13,3% dân số sông ở thành thị.
Nguồn lao động dồi dào, 1.757.800 người[7]. Trong đó làm việc trong các
ngành kinh tế là 1,38 triệu người. Năm 2010, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho
34.000 lao động. Tỷ lệ lao động được đào tạo khoảng 40%.
Y tế và sức khỏe cộng đồng
24
Số cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế là 529 cơ sở[7], trong đó có
26 bệnh viện đa khoa, 22 phòng khám khu vực[7], 1 bệnh viện điều dưỡng và 479
trạm y tế, cơ quan, xã, phường. Có 675% đạt chuẩn quốc gia về y tế. Toàn tỉnh
có 1397 bác sỹ, 1327 y sỹ, 2629 y tá và 910 nữ hộ sinh. Có 42 dược sỹ cao cấp,
461 dược sỹ trung cấp và 294 dược tá[7].
Các cơ sở y tế ngày càng được nâng cấp, chất lượng khám chữa bệnh
được nâng lên, do đó số ca tử vong trong điều trị giảm.
Công tác phòng dịch tốt nên không xẩy ra dịch bệnh đáng kể, số ca tử vong
trong điều trị giảm. Công tác kiểm tra an toàn vệ sinh có nhiều chuyển biến. Chủ
trương sử dụng muối iốt được thực hiện khá tốt. Công tác tiêm chủng mở rộng 6
loại vắc xin cho các cháu dưới 1 tuổi, tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ có thai,
tiêm phòng viêm não...
Giáo dục
Công tác giáo dục ở Nghệ An được phát triển mạnh mẽ. Cho đến nay tất
cả các huyện, thành, thị trong tỉnh và 100% số xã, phường đã được công nhận
phổ cập tiểu học và chống mù chữ.
Năm 2011, toàn tỉnh có 533.864 học sinh phổ thông học tập tại 1.043
trường với 33.188 giáo viên tham gia giảng dạy[7]. Trong đó có 41% số trường đạt
chuẩn quốc gia. Tỉ lệ tốt nghiệp phổ thông đạt 97,73%[7]. Toàn tỉnh có 16.224 sinh
viên cao đẳng và đại học với 927 giảng viên[7]. 100% giáo viên đạt chuẩn[7].
Thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục; quy mô các cấp học tiếp tục
được phát triển đảm bảo nhu cầu học tập; tăng cường chất lượng giáo dục toàn
diện.
1.4. Tổng quan về nước mặt tỉnh Nghệ An
1.4.1. Đặc điểm mạng lưới sông suối
Tỉnh Nghệ An nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, trong Tỉnh có 06 lưu
vực sông (có cửa riêng biệt), tuy nhiên đa số là các con sông ngắn ven biển có
25