ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Vũ Mai Phương
TỔNG HỢP VẬT LIỆU HẤP PHỤ CÓ TỪ TÍNH VÀ KHẢO
SÁT KHẢ NĂNG TÁCH LOẠI PHẨM MÀU AZO TRONG MÔI
TRƯỜNG NƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Vũ Mai Phương
TỔNG HỢP VẬT LIỆU HẤP PHỤ CÓ TỪ TÍNH VÀ KHẢO
SÁT KHẢ NĂNG TÁCH LOẠI PHẨM MÀU AZO TRONG MÔI
TRƯỜNG NƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên ngành: Hóa Môi Trường
Mã số: 60440120
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. CHU XUÂN QUANG
2. PGS.TS. ĐỖ QUANG TRUNG
Hà Nội – 2015
LỜI CẢM ƠN
Trước khi trình bày nội dung chính của luận văn, em xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới TS. CHU XUÂN QUANG và PGS.TS ĐỖ QUANG TRUNG,
nh ữ ng người thầy đáng kính đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình chỉ bảo em
trong suốt thời gian qua.
Em xin phép được gửi lời cảm ơn đến ban lãnh đạo và các thầy cô giáo,
các anh/chị cán bộ trường ĐHKHTN ĐHQGHN nói chung, khoa Hóa học nói
riêng vì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, giúp đỡ em trong thời gian em
học tập, nghiên cứu tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ nghiên cứu phòng Công nghệ
và Vật liệu Môi trường Trung tâm Công nghệ Vật liệu đã nhiệt tình giúp đỡ
em trong thời gian thực hiện các nội dung của đề tài luận án.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015.
Học Viên
Vũ Mai Phương
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, HÌNH VẼ
MỞ ĐẦU
Hiện nay, sự phát triển ngày càng lớn mạnh của đất nước về kinh tế và xã
hội, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp đã ảnh hưởng
rất lớn đến môi trường sống của con người. Bên cạnh sự lớn mạnh của nền kinh
tế đất nước lại là sự gia tăng ô nhiễm môi trường. Một trong những ngành công
nghiệp gây ô nhiễm môi trường lớn là ngành dệt nhuộm. Bên cạnh các công ty,
nhà máy còn có hàng ngàn cơ sở nhỏ lẻ từ các làng nghề truyền thống. Với
quy mô sản xuất nhỏ, lẻ nên lượng nước thải sau sản xuất hầu như không được
xử lý, mà được thải trực tiếp ra hệ thống cống rãnh và đổ thẳng xuống hồ ao,
sông, ngòi gây ô nhiễm nghiêm trọng tầng nước mặt, mạch nước ngầm và ảnh
hưởng lớn đến sức khỏe con người.
Với dây chuyền công nghệ phức tạp, bao gồm nhiều công đoạn sản xuất
khác nhau nên nước thải sau sản xuất dệt nhuộm chứa nhiều loại hợp chất hữu cơ
độc hại, đặc biệt là các công đoạn tẩy trắng và nhuộm màu. Việc tẩy, nhuộm
vải bằng các loại thuốc nhuộm khác nhau như thuốc nhuộm hoạt tính, thuốc
nhuộm trực tiếp, thuốc nhuộm hoàn nguyên, thuốc nhuộm phân tán… khiến cho
lượng nước thải chứa nhiều chất ô nhiễm khác nhau (chất tạo màu, chất làm bền
màu...) [7,8]. Bên cạnh những lợi ích của chất tạo màu họ azo trong công nghiệp
nhuộm, thì tác hại của nó không nhỏ khi mà các chất này được thải ra môi trường.
Gần đây, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra tính độc hại và nguy hiểm của hợp
chất họ azo đối với môi trường sinh thái và con người, đặc biệt là loại thuốc
nhuộm này có thể gây ung thư cho người sử dụng sản phẩm [19,30].
Nghiên cứu, xử lý nước thải có chứa hợp chất azo là một vấn đề rất quan
trọng nhằm loại bỏ hết các chất này trước khi xả ra môi trường, bảo vệ con người
và môi trường sinh thái.
Với mục đích góp phần nghiên cứu kỹ thuật xử lý các phẩm màu hữu cơ bằng
phương pháp hấp phụ, đặc biệt là xử lý phẩm màu họ azo bằng vật liệu hấp phụ
có từ tính, nên đề tài luận văn “Tổng hợp vật liệu hấp phụ có từ tính và khảo sát
khả năng tách loại phẩm màu azo trong môi trường nước ” đã được tôi lựa chọn thực
hiện.
7
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Chitosan
1.1.1. Khái quát về chitosan
Về mặt lịch sử, chitin được Braconnot phát hiện đầu tiên vào năm 1821, trong
cặn dịch chiết từ một loại nấm. Ông đặt tên cho chất này là “Fungine” để ghi nhớ
nguồn gốc của nó. Năm 1823 Odier phân lập được một chất từ bọ cánh cứng mà
ông gọi là chitin hay “chiton”, tiếng Hy Lạp có nghĩa là vỏ giáp, nhưng ông không
phát hiện ra sự có mặt của nitơ trong đó. Cuối cùng cả Odier và Braconnot đều đi
đến kết luận chitin có dạng công thức giống với xenlulozo.
Trong động vật, chitin là một thành phần cấu trúc quan trọng của các vỏ một
số động vật không xương sống như: côn trùng, nhuyễn thể, giáp xác và giun tròn.
Trong động vật bậc cao monome của chitin là một thành phần chủ yếu trong mô da
nó giúp cho sự tái tạo và gắn liền các vết thương ở da. Trong thực vật chitin có ở
thành tế bào nấm họ zygenmyctes, các sinh khối nấm mốc, một số loại tảo ... Chitin
có cấu trúc thuộc họ polysaccarit, hình thái tự nhiên ở dạng rắn. Do đó, các phương
pháp nhận dạng chitin, xác định tính chất, và phương pháp hoá học để biến tính
chitin cũng như việc sử dụng và lựa chọn các ứng dụng của chitin gặp nhiều khó
khăn.
Còn chitosan chính là sản phẩm biến tính của chitin, là một chất rắn, xốp,
nhẹ, hình vảy, có thể xay nhỏ thành các kích cỡ khác nhau. Chitosan được xem là
polymer tự nhiên quan trọng nhất. Với đặc tính có thể hoà tan tốt trong môi trường
acid, chitosan được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như thực phẩm, mỹ phẩm, dược
phẩm ...
Giống như xenlulozo, chitosan là chất xơ, không giống chất xớ thực vật,
chitosan có khả năng tạo màng, có các tính chất của cấu trúc quang học ... Chitosan
có khả năng tích điện dương do đó nó có khả năng kết hợp với những chất tích
điện âm như chất béo, lipid và acid mật.
Chitosan là polyme không độc, có khả năng phân huỷ sinh học và có tính tương
thích về mặt sinh học. Trong nhiều năm qua, các polyme có nguồn gốc từ chitin đặc
biệt là chitosan đã được chú ý đặc biệt như là một loại vật liệu mới có ứng dụng
8
đặ biệt trong công nghiệp dược, y học, xử lý nước thải và trong công nghiệp thực
phẩm như là tác nhân kết hợp, gel hoá, hay tác nhân ổn định ...
Trong các loài thuỷ sản đặc biệt là trong vỏ tôm, cua, ghẹ, hàm lượng chitin –
chitosan chiếm khá cao dao động từ 1435% so với trọng lượng khô. Vì vậy vỏ tôm,
cua, ghẹ là nguồn nguyên liệu chính để sản xuất chitin – chitosan.
Hình 1.1: Công thức cấu tạo chitin, chitosan và xenlulozo
Như hình vẽ trên, thì sự khác biệt duy nhất giữa chitonsan và cellulose là nhóm
amin (NH2) ở vị trí C2 của chitosan thay thế nhóm hydroxyl (OH) ở xenlulozo.
Chitosan tích điện dương do đó nó có khả năng liên kết hoá học với những chất tích
điện âm như chất béo, lipit, cholesterol, protein và các đại phân tử. Chitin và
chitosan rất có lợi ích về mặt thương mại cũng như là một nguồn vật chất tự nhiên
do tính chất đặc biệt của chúng như tính tương thích về mặt sinh học, khả năng
hấp thụ, khả năng tạo màng và giữ các ion kim loại.
Chitosan và các dẫn xuất của nó có hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn, có khả
năng tự phân hủy sinh học cao, không gây dị ứng. Không gây độc hại cho người và
gia súc, có khả năng tạo phức với một số kim loại chuyển tiếp như Co(II), Ni(II),
Cu(II)... do vậy chúng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như: xử lý
nước thải và bảo vệ môi trường, dược học và y học, nông nghiệp, công nghiệp,
công nghệ sinh học....
9
Chitosan có cấu trúc đặc biệt với các nhóm amin trong mạng lưới phân tử có
khả năng hấp phụ tạo phức với kim loại chuyển tiếp: Cu(II), Ni(II), Co(II).... trong
môi trường nước. Vì vậy chitosan đang được nghiên cứu kết hợp với một số chất
khác để ứng dụng xử lý kim loại nặng trong nước.
1.1.2. Tính chất của chitosan
Không độc, tính tương ứng sinh học cao và có khả năng phân hủy sinh học
nên không gây dị ứng và không gây phản ứng phụ, không gây tác hại đến môi
trường.
Cấu trúc ổn định.
Tan tốt trong dung dịch acid loãng (pH<6,3) và kết tủa ở những giá trị pH cao
hơn, hóa tím trong dung dịch iot.
Có tính kháng khuẩn tốt.
Là hợp chất cao phân tử nên trọng lượng phân tử của nó giảm dần theo thời
gian do phản ứng tự cắt mạch. Nhưng khi trọng lượng phân tử giảm thì hoạt tính
kháng khuẩn và kháng nấm không bị giảm đi.
Có khả năng hấp phụ cao đối với các kim loại nặng.
Ở pH<6,3, chitosan có tính điện dương cao.
Trong phân tử chitosan có chứa nhóm –OH, NHCOCH 3 trong các mắt xích
NacetylDglucosaminc có nghĩa chúng vừa là ancol vừa là amine, vừa là amide.
Phản ứng hóa học có thể xảy ra ở vị trí nhóm chức tạo ra dẫn xuất thế O, dẫn
xuất thế N.
Mặt khác chitosan là những polimer mà các monome được nối với nhau bởi
các liên kết α(14)glycozit, các liên kết này rất dễ bị cắt đứt bởi các chất như :
axit, bazo, tác nhân oxy hóa và các enzyme thủy phân [3,16].
1.1.3. Ứng dụng của chitosan
Trong y tế, chitosan có tác dụng làm màng chữa bỏng, tá dược độn trong làm
cốm, tá dược ổn định viên nén, thuốc trị viêm loét dạ dày tá tràng. Hỗn hợp
chitosancollagen làm giảm cholesterol trong máu, giảm sự hấp thụ lipit.
Trong công nghiệp thực phẩm, chitosan làm phụ gia thực phẩm duy trì hương
vị tự nhiên, ổn định màu, nhũ tương, làm dày cấu trúc, màng bảo quản rau quả tươi,
làm trong nước quả ép, giữu màu sắc và hương vị tự nhiên của sản phẩm.
10
Trong công nghiệp in, chitosan làm chất keo cảm quang.
Trong công nghiệp nhuộm làm tăng độ màu vải nhuộm.
Trong nông nghiệp, oligochitosan làm thuốc tăng trưởng thực vật và kích thích
gây tạo kháng sinh thực vật, thuốc diệt nấm bệnh cho thực vật, gia tăng hệ số nhân
và sinh khối tươi cho cây nuôi cấy mô.
Trong khoa học kỹ thuật, chitosan làm dung dịch tăng độ khuyếch đại của kính
hiển vi, xử lý nước thải công nghiệp và sinh hoạt: thu hồi ion kim loại, protein,
phenol, thuốc trừ sâu, thuốc nhuộm...[3,16].
1.2. Oxit sắt từ
1.2.1. Khái quát về oxit sắt từ
Oxit sắt từ có công thức hóa học Fe 3O4 là vật liệu từ tính đầu tiên mà con
người biết đến. Từ thế kỷ IV người Trung quốc đã biết rằng Fe3O4 tìm thấy trong
các khoáng vật tự nhiên có khả năng định hướng theo phương Bắc Nam địa lý.
Đến thế kỷ XII, họ đã sử dụng vật liệu Fe3O4 là la bàn, một công cụ giúp xác định
phương hướng rất có ích. Trong tự nhiên, oxit sắt từ không những được tìm thấy
trong khoáng vật mà nó còn được tìm thấy trong cơ thể các sinh vật như ong, kiến,
bồ câu…Chính sự có mặt của Fe3O4 trong cơ thể những sinh vật đã tạo nên khả
năng xác định phương hướng mang tính bẩm sinh của chúng.
Trong phân loại vật liệu từ Fe3O4 được xếp vào nhóm vật liệu ferit có công
thức tổng quát MO. Fe3O4 có cấu trúc spinel (M là kim loại hóa trị II như : Fe, Ni,
Co, Mn, Mg hoặc Cu).
Trong loại vật liệu ferit các ion oxy có bán kính khoảng 1.32 Å lớn hơn rất
nhiều bán kính ion kim loại ( 0,6 ÷ 0,8 Å) nên chúng có khả năng nằm rất sát nhau
và sắp xếp thành một mạng lưới có cấu trúc lập phương tâm mặt xếp khớp nhau.
Trong mạng ferit có 2 loại hốc : loại thứ nhất là hốc tứ diện (nhóm A) được giới
hạn bởi bốn ion oxy, loại thứ hai là hốc bát diện (nhóm B) được giới hạn bởi sáu
ion oxy. Các ion kim loại M2+ và Fe3+ sẽ nằm ở các hốc này và tạo nên hai dạng cấu
trúc spinel của nhóm vật liệu ferit.
Dạng thứ nhất, toàn bộ các ion M2+ nằm ở vị trí A còn toàn bộ các ion Fe3+
nằm ở vị trí B. Cấu trúc này đảm bảo hóa trị của các nguyên tử kim loại vô số các
11
oxi bao quanh các ion Fe3+ và M2+ có tỷ số 3/2 nên nó được gọi là spinel thuận. cấu
trúc này được tìm thấy trong ferit ZnO.Fe2O3.
Dạng thứ hai thường gặp hơn được gọi là cấu trúc spinel đảo. Trong cấu trúc
spinel đảo một nửa ion Fe3+ cùng toàn bộ ion M2+ nằm ở vị trí B, số ion Fe3+ còn lại
nằm ở các vị trí A. Oxit sắt từ Fe 3O4 ≡ FeO.Fe2O3 là một ferit có cấu trúc spinel đảo
điển hình. Tức là một nửa số ion Fe3+ chiếm hốc bát diện, nửa còn lại chiếm hốc tứ
diện, các ion Fe2+ đều chiếm hốc bát diện, chính cấu trúc spinel đảo này đã quyết
định tính chất từ của Fe3O4, đó là tính chất từ ferit từ.
Hinh Hình 1.2: Cấu trúc spinel của Fe3O4
Trong oxit sắt từ vì ion Fe3+ có mặt ở cả hai phân mạng với số lượng như nhau
nên bị triệt tiêu vì vậy momen từ do Fe2+ quyết định. Trong vô số ô cơ sở của oxit
sắt Fe3O4 các momen từ của các ion Fe2+ và sắt từ Fe3+ có sự sắp xếp khác nhau.
12
Hình 1.3: Sự phân bố các momen từ spin của các ion Fe2+ và Fe3+ trong một ô
cơ sở của Fe3O4
Mỗi phân tử Fe3O4 có momen từ tổng cộng là 4µβ (µβ là magneton bohr nguyên
tử, µβ = 9,274.1024 J/T trong hệ SI).
1.2.2. Tính chất của oxit sắt từ
Một vài oxit sắt có chung cấu trúc tinh thể với các tương đồng khoáng chất
khác nhau. VD: gocthie có cấu trúc giống với diaspore (αALOOH), quặng sắt từ
giống với spinel (MgAl2O3). Các cấu trúc của oxit sắt được xác định bởi sự sắp xếp
của các ion oxy hay hydroxide. Các ion dương chiếm các vị trí so le đối với lớp các
ion âm.
Bất cứ vật liệu nào đều có sự ảnh hưởng với từ trường ngoài (H), thể hiện
bằng độ từ hóa (từ độ M). Tỷ số C = M/N được gọi là độ cảm từ. Tùy thuộc vào
giá trị, độ cảm từ có thể phân ra làm các loại vật liệu từ khác nhau. Vật liệu có C <
0 (~106) được gọi là vật liệu nghịch từ. Vật liệu có C > 0 (~106) được gọi là vật
liệu thuận từ. Vật liệu có C > 0 với giá trị rất lớn có thể là vật liệu sắt từ, ferit từ.
Ngoài độ cảm từ, một số thông số khác cũng rất quan trọng trong việc xác
định tính chất của vật liệu. VD: từ độ bão hòa M s (từ độ đạt cực đại tại từ trường
lớn), cảm ứng từ dư Br (từ độ còn dư sau khi từ hóa đến độ bão hòa và đưa mẫu ra
khỏi từ trường), lực kháng từ Hc (từ trường ngoài cần thiết để một hệ, sau khi đạt
trạng thái bão hòa từ, bị khử từ).
Nếu kích thước của hạt giảm đến một giá trị nào đó (thông thường từ vài
chục nanomet), phụ thuộc vào từng vật liệu cụ thể, tính sắt từ và ferit từ biến mất,
chuyển động nhiệt sẽ thắng thế và làm cho vật liệu trở thành vật liệu siêu thuận
từ. Đối với vật liệu siêu thuận từ, từ dư và lực kháng từ không còn tính từ nữa, đấy
là một đặc điểm rất quan trọng khi dùng vật liệu này cho các ứng dụng. Trong tự
nhiên, sắt (Fe) là vật liệu có từ độ bão hòa lớn nhất tại nhiệt độ phòng, sắt không
độc đối với cơ thể người và tính ổn định khi làm việc trong môi trường không khí
nên các vật liệu như oxit sắt được nghiên cứu rất nhiều để làm hạt nano từ tính
[24].
13
1.2.3. Một số ứng dụng của oxit sắt
Có thể loại bỏ Asen trong nước bằng hạt nano oxit sắt, thực nghiệm cho thấy
khi cho hạt nano oxit sắt từ với nồng độ 1g/l vào mẫu nước có chứa nồng độ asen
là 0,1 g/l chỉ sau một phút thì nồng độ asen đã giảm chỉ còn 0,0081 mg/l dưới tiêu
chuẩn của bộ y tế cho phép (0,01 mg/l ).
Mới đây một nhà khoa học Nhật Bản có sáng kiến sử dụng hạt nano từ tính
lọc nước bằng cách cho một loài vi khuẩn chuyên ăn các chất bẩn lơ lửng trong
nước bẩn đã được hòa tan thêm các hạt nano từ tính. Bình thường các vi khuẩn có
tác dụng “thu gom” chất bẩn. Khi đã ăn no chúng tự chìm xuống đáy (do trọng lực)
và mang theo các chất bẩn đã thu gom được. Do vậy làm cho nước trở nên trong.
Nếu trong nước có hạt nano từ tính thì các vi khuẩn sẽ gom vào mình tất cả các
chất bẩn thông thường lẫn các hạt nano. Khi đó chỉ cần sử dụng một nam châm
mạnh ta có thể hút các vi khuẩn này làm cho chúng chìm nhanh hơn do đó cũng làm
cho nước trong nhanh hơn.
Xuất phát từ ý tưởng đó các nhà khoa học nước ta đã sử dụng kết hợp nano từ
tính Fe3O4 với Al2(SO4)3 để lọc nước, Al2(SO4)3 khi tan trong nước sẽ thủy phân tạo
thành Al(OH)3 kết tủa dạng keo. Kết tửa keo này có tác dụng như một tấm lưới.
Khi nó lắng đọng thì các chất bẩn mắc vào nó cũng bị kéo xuống theo, kết quả là
làm lắng đọng chất bẩn và làm cho nước trong hơn. Khi đã kết hợp hạt nano từ tính
Fe3O4 với Al(OH)3 dưới tác dụng của từ trường. Ngoài các hạt nano từ tính bị hút
xuống dưới, các hạt này đi xuống chúng kéo tấm lưới nhuộm hydroxit chuyển động
theo. Kết quả là nhôm hydroxit lắng đọng nhanh hơn hàng chục lần so với khi
không dùng hạt nano từ tính.
1.3. Vật liệu từ tính ứng dụng xử lí nước thải
Trong phương pháp hấp phụ để loại bỏ triệt để các chất ô nhiễm trong nước
thải thường sử dụng kỹ thuật hấp phụ tầng cố định với các cột có đường kính từ
0,1 đến 1,5 m và chiều cao có thể lên đến hơn 10 m. Các cột thường được nhồi các
vật liệu như than hoạt tính, zeolit... Dung dịch nước thải được dẫn lên đầu cột, khi
đi qua vật liệu hấp phụ các chất ô nhiễm bị giữ lại, nước sạch được xử lí đi ra
ngoài. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là thời gian tái sinh vật liệu hấp
phụ lâu, quá trình vận hành hay bị hiện tượng tắc cột phải nạp lại, tốn về thời gian
14
và kinh phí. Đối với kĩ thuật hấp phụ tầng động, nhiều trường hợp quá trình lắng
kéo dài làm ảnh hưởng đến tốc độ xử lí nước thải. Để khắc phục nhược điểm này,
nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu chế tạo nhựa trao đổi ion có từ tính và nghiên
cứu ứng dụng trong xử lí nước thải [31,32]. Khi có tác dụng của từ trường các vật
liệu hấp phụ sẽ tách ra khỏi hỗn hợp huyền phù nhanh hơn do vậy làm tăng tốc độ
quá trình xử lí và tái sinh vật liệu. Tuy nhiên, việc sử ụng vật liệu polyme tổng hợp
có thể tạo ra các monome khó phân hủy, gây ô nhiễm thứ cấp cho môi trường. Do
đó, xu hướng xử dụng các loại polyme có sẵn trong thiên nhiên được các nhà khoa
học rất quan tâm, trong đó chitosan là vật liệu được chú ý nhiều nhất do có cấu trúc
và tính chất hóa lý đặc biệt, hoạt tính cao và khả năng lựa chọn rất tốt đối với các
hợp chất và kim loại nặng. Chính vì thế, chúng tôi đã nghiên cứu và chế tạo ra vật
liệu chitosan cố định các hạt Fe3O4 để xử lí nước thải dệt nhuộm.
1.4. Đặc tính và một số phương pháp xử lý nước thải dệt nhuộm
1.4.1. Đặc tính và các nguồn phát sinh nước thải dệt nhuộm
Nguồn nước thải phát sinh trong công nghiệp dệt nhuộm từ các công đoạn
hồ sợi, giũ hồ, nấu, tẩy, nhuộm và hoàn tất. Trong đó lượng nước thải chủ yếu do
quá trình giặt sau mỗi công đoạn. Nhu cầu sử dụng nước trong nhà máy dệt nhuộm
rất lớn và thay đổi tùy theo mặt hàng khác nhau. Theo phân tích của các chuyên gia,
lượng nước được sử dụng trong các công đoạn sản xuất chiếm 72,3%, chủ yếu là
từ các công đoạn nhuộm và hoàn tất sản phẩm. Người ta có thể tính sơ lược nhu
cầu sử dụng nước cho 1 mét vải nằm trong phạm vi từ 12 65 lít và thải ra 10 40 lít
nước [7,8].
Đặc tính của nước thải dệt nhuộm nói chung và nước thải dệt nhuộm làng
nghề Vạn Phúc, Dương Nội nói riêng đều chứa các loại hợp chất tạo màu hữu cơ,
do đó có các chỉ số pH, DO, BOD, COD... rất cao (b ảng 1.1), v ượt quá tiêu chuẩn
cho phép được thải ra môi trường sinh thái (bảng 1.2).
Bảng Bảng 1.1. Đặc tính nướcthải của một số cơ sở dệt nhuộm ở Hà Nội
Tên nhà máy
Dệt Hà Nội
Dệt kim Thăng Long
Dệt nhuộm Vạn Phúc
Dệt nhuộm Dương Nội
15
Độ pH
9 – 10
8 – 12
8 – 11
8 – 11
Độ màu
250 – 500
168
750
750
COD (mg/l)
230 – 500
443
350 – 890
380 – 890
BOD (mg/l)
90 – 120
132
120
106
Bảng Bảng 1.2. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp dệt nhuộm
TT
1
2
3
4
Thông số
Độ màu (pH=7)
Độ pH
BOD ( ở 200C)
COD
Đơn vị
Pt - Co
mg/l
mg/l
Giới hạn theo QCVN 13:2015/BTNMT
A
B
50
150
6-9
5,5 - 9
30
50
75
150
Như vậy, nước thải công nghiệp nói chung và nước thải ngành dệt nhuộm
nói riêng để đạt tiêu chuẩn cho phép thải ra môi trường sinh thái cần tuân thủ
nghiêm ngặt khâu xử lý các hóa chất gây ô nhiễm môi trường có mặt trong nước
thải sau khi sản xuất hoặc chế biến các sản phẩm công nghiệp.
Các chất ô nhiễm chủ yếu có trong nước thải dệt nhuộm là các chất hữu cơ
khó phân hủy, thuốc nhuộm, chất hoạt động bề mặt, các hợp chất halogen hữu cơ,
muối trung tính làm tăng tổng hàm lượng chất rắn, nhiệt độ cao và pH của nước
thải cao do lượng kiềm lớn. Trong đó, thuốc nhuộm là thành phần khó xử lý nhất,
đặc biệt là thuốc nhuộm azo loại thuốc nhuộm được sử dụng phổ biến nhất hiện
nay, chiếm tới 60 70% thị phần [10,17]. Thông thường, các chất màu có trong thuốc
nhuộm không bám dính hết vào sợi vải trong quá trình nhuộm mà còn lại một lượng
dư nhất định tồn tại trong nước thải. Lượng thuốc nhuộm dư sau công đoạn nhuộm
có thể lên đến 50% tổng lượng thuốc nhuộm được sử dụng ban đầu [17,21]. Đây
chính là nguyên nhân làm cho nước thải dệt nhuộm có độ màu cao và nồng độ chất
ô nhiễm lớn.
Khi đi vào nguồn nước tự nhiên như sông, hồ...với một lượng rất nhỏ của
thuốc nhuộm đã cho cảm giác về màu sắc. Màu đậm của nước thải cản trở sự hấp
thụ oxy và ánh sáng mặt trời gây tác hại cho sự hô hấp, sinh trưởng của các loài
thủy sinh, làm tác động xấu đến khả năng phân giải của vi sinh đối với các chất
hữu cơ trong nước thải. Đối với cá và các loài thủy sinh, các kết quả thử nghiệm
trên cá của hơn 3000 loại thuốc nhuộm nằm trong tất cả cácnhóm từ không độc,
độc vừa, rất độc đến cực độc cho thấy có khoảng 37% loại thuốc nhuộm gây độc
cho cá và thủy sinh, khoảng 2% thuộc loại rất độc và cực độc .
Đối với con người, thuốc nhuộm có thể gây ra các bệnh về da, đường hô
hấp, đường tiêu hóa. Ngoài ra, một số thuốc nhuộm hoặc chất chuyển hóa của
16
chúng rất độc hại có thể gây ung thư (như thuốc nhuộm Benzidin, 4 amino azo
benzen). Các nhà sản xuất Châu Âu đã cho ngừng sản xuất các loại thuốc nhuộm
này nhưng trên thực tế chúng vẫn được tìm thấy trên thị trường do giá thành rẻ và
hiệu quả nhuộm màu cao .
1.4.2. Các loại thuốc nhuộm thông thường
Thuốc nhuộm là các hợp chất mang màu dạng hữu cơ hoặc dạng phức của
các kim loại như Cu, Co, Ni, Cr…Tuy nhiên, hiện nay dạng phức kim loại không
còn sử dụng nhiều do nước thải sau khi nhuộm chứa hàm lượng lớn các kim
loại nặng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Thuốc nhuộm dạng hữu cơ
mang màu hiện rất phổ biến trên thị trường.
Tuỳ theo cấu tạo, tính chất và phạm vi sử dụng của chúng mà người ta chia
thuốc nhuộm thành các nhóm khác nhau. Ở nước ta hiện nay, thuốc nhuộm
thương phẩm vẫn chưa được sản xuất, tất cả các loại thuốc nhuộm đều phải
nhập của các hãng sản xuất thuốc nhuộm trên thế giới.
Có hai cách để phân loại thuốc nhuộm:
Phân loại thuốc nhuộm theo cấu trúc hoá học: thuốc nhuộm trong cấu
trúc hoá học có nhóm azo, nhóm antraquinon, nhóm nitro,…
Phân loại theo lớp kỹ thuật hay phạm vi sử dụng: ưu điểm của phân loại
này là thuận tiện cho việc tra cứu và sử dụng, người ta đã xây dựng từ điển
thuốc nhuộm. Từ điển thuốc nhuộm được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong đó
mỗi loại thuốc nhuộm có chung tính chất kỹ thuật được xếp trong cùng lớp như:
nhóm thuốc trực tiếp, thuốc axit, thuốc hoạt tính… Trong mỗi lớp lại xếp theo thứ
tự gam màu lần lượt từ vàng da cam, đỏ, tím, xanh lam, xanh lục, nâu và đen. Sau
đây là một số nhóm thuốc nhuộm thường dùng ở Việt Nam [2]:
Th
u
ốc n hu
ộm t rực ế
ti p
Thuốc nhuộm trực tiếp hay còn gọi là thuốc nhuộm tự bắt màu là những hợp
chất màu hoà tan trong nước, có khả năng tự bắt màu vào một số vật liệu như: các
tơ xenlulozơ, giấy… nhờ các lực hấp phụ trong môi trường trung tính hoặc môi
trường kiềm. Tuy nhiên, khi nhuộm màu đậm thì thuốc nhuộm trực tiếp không còn
hiệu suất bắt màu cao, hơn nữa trong thành phần có chứa gốc azo ( N=N ), đây là
loại hợp chất hợp chất hữu cơ độc hại nên hiện nay loại thuốc này không còn
17
được khuyến khích sử dụng nhiều. Mặc dù vậy, do thuốc nhuộm trực tiếp dễ sử
dụng và rẻ nên vẫn được đa số các cơ sở nhỏ lẻ từ các làng nghề truyền thống sử
dụng để nhuộm các loại vải, sợi dễ bắt màu như tơ, lụa, cotton...
Th
u
ốc n hu
ộm a x it
Theo cấu tạo hoá học thuốc nhuộm axit đều thuộc nhóm azo, một số là dẫn
xuất của antraquinon, triarylmetan, xanten, azin và quinophtalic, một sốcó thể tạo
phức với kim loại. Các thuốc nhuộm loại này thường sử dụng để nhuộm trực tiếp
các loại sợi động vật tức là các nhóm xơ sợi có tính bazơ như len, tơ tằm, sợi tổng
hợp polyamit trong môi trường axit.
Th
u
ốc n hu
ộm h o
ạ
t t í nh
Thuốc nhuộm hoạt tính là những hợp chất màu mà trong phân tử của chúng
có chứa các nhóm nguyên tử có thể thực hiện liên kết hoá trị với vật liệu nói
chung và xơ dệt nói riêng trong quá trình nhuộm. Dạng công thức hoá học tổng
quát của thuốc nhuộm hoạt tính là: S—R—T—X. Trong đó:
S: là các nhóm SO Na, COONa, SO CH .
3
2 3
R: phần mang màu của phân tử thuốc nhuộm, quyết định màu sắc, những gốc
mang màu này thường là monoazo và diazo, gốc thuốc nhuộm axit antraquinon,
hoàn nguyên đa vòng…
T: nhóm nguyên tử phản ứng, làm nhiệm vụ liên kết giữa thuốc nhuộm với
xơ và có ảnh hưởng quyết định đến độ bền của liên kết này, đóng vai trò quyết
định tốc độ phản ứng nucleofin.
X: nhóm nguyên tử phản ứng, trong quá trình nhuộm nó sẽ tách khỏi phân
tử thuốc nhuộm, tạo điều kiện để thuốc nhuộm thực hiện phản ứng hoá học với
xơ.
Mức độ không gắn màu của thuốc nhuộm hoạt tính tương đối cao, khoảng 30
%, có chứa gốc halogen hữu cơ (hợp chất AOX) nên làm tăng tính độc khi thải ra
môi trường. Hơn nữa hợp chất này có khả năng tích luỹ sinh học, do đó gây nên tác
động tiềm ẩn cho sức khoẻ con người và động vật [29].
Th
u
ốc n hu
ộm b azơ
18
Thuốc nhuộm bazơ là những hợp chất màu có cấu tạo khác nhau, hầu hết
chúng là các muối clorua, oxalat hoặc muối kép của bazơ hữu cơ.
Th
u
ốc n hu
ộm h o
à
n
n g
u
yên
Được dùng chủ yếu để nhuộm chỉ, vải, sợi bông, lụa visco. Thuốc nhuộm
hoàn nguyên phần lớn dựa trên hai họ màu indigoit và antraquinon. Các thuốc
nhuộm hoàn nguyên thường không tan trong nước, kiềm nênthường phải sử
dụng các chất khử để chuyển về dạng tan được (thường là dung dịch NaOH +
Na2S2O3 ở 50600C). Ở dạng tan được này, thuốc nhuộm hoàn nguyên khuyếch tán
vào xơ.
Th
u
ốc n hu
ộm l ư u
h u
ỳ
nh
Thuốc nhuộm lưu huỳnh là những hợp chất màu chứa nguyên tử lưu huỳnh
trong phân tử thuốc nhuộm ở các dạng S, SS, SO, S . Trong nhiều trường
n
hợp, lưu huỳnh nằm trong các dị vòng như: tiazol, tiazin, tiantren và vòng azin.
Thuốc nhuộm nhóm này rất phức tạp, đến nay vẫn chưa xác định được chính xác
cấu tạo tổng quát của chúng.
Th
u
ốc n hu
ộm p h
â
n
t á n
Là những chất màu không tan trong nước, phân bố đều trong nước dạng
dung dịch huyền phù, thường được dùng nhuộm xơ kị nước như xơ axetat,
polyamit, polyeste, polyacrilonitrin. Phân tử thuốc nhuộm có cấu tạo từ gốc azo
( N=N ) và antraquinon có chứa nhóm amin tự do hoặc đã bị thay thế ( NH2,
NHR, NR2, NH CH2 OH) nên thuốc nhuộm dễ dàng phân tán vào nước. Mức
độ gắn màu của thuốc nhuộm phân tán đạt tỉ lệ cao (90 95 %) nên nước thải
không chứa nhiều thuốc nhuộm và mang tính axit.
Th
u
ốc n hu
ộm a zo
k h
ô
n
g
t a n
Thuốc nhuộm azo không tan còn có tên gọi khác như thuốc nhuộm lạnh,
thuốc nhuộm đá, thuốc nhuộm naptol, chúng là những hợp chất có chứa nhóm azo
trong phân tử nhưng không có mặt các nhóm có tính tan như – SO3Na, COONa nên
không hoà tan trong nước.
Th
u
ốc n hu
ộm p ig
m
e n
t
19
Pigment là những hợp chất có màu, có đặc điểm chung là không tan trong
nước do phân tử không chứa các nhóm có tính tan (SO3H, COOH) hoặc các
nhóm này bị chuyển về dạng muối bari, canxi không tan trong nước.
Thuốc nhuộm này phải được gia công đặc biệt để khi hoà tan trong nước
nóng nó phân bố trong dung dịch như một thuốc nhuộm thực sự và bắt màu lên xơ
sợi theo lực hấp phụ vật lý.
1.4.3. Một số phương pháp xử lí nước thải dệt nhuộm
Do đặc thù công nghệ, nước thải dệt nhuộm có các chỉ số TS, TSS, độ màu,
COD và BOD cao, bên cạnh đó phải kể đến một số lượng đáng kể các kim loại
nặng độc hại như Cr, Cu, Co, Zn… ở các công đoạn khác nhau. Chính vì thế cần
phân luồng dòng thải theo tính chất và mức độ gây ô nhiễm: dòng ô nhiễm nặng như
dịch nhuộm, dịch hồ, nước giặt đầu, dòng ô nhiễm vừa như nước giặt ở các giai
đoạn trung gian, dòng ô nhiễm ít như nước giặt cuối …để có biện pháp xử lý phù
hợp.
Trong thực tế để đạt được hiệu quả xử lý cũng như kinh tế, người ta không
dùng đơn lẻ mà kết hợp các phương pháp xử lý hóa lý, hóa học, sinh học, nhằm tạo
nên một quy trình xử lý hoàn chỉnh [27].
1.4.3.1. Phương pháp keo tụ
Đây là phương pháp thông dụng để xử lý nước thải dệt nhuộm. Nước thải
dệt nhuộm có tính chất như một dung dịch keo với các tiểu phân có kích thước hạt
107 – 105 cm, các tiểu phân này có thể đi qua giấy lọc.
Quá trình lắng chỉ có thể tách được các hạt rắn huyền phù nhưng không thể
tách được các chất gây ô nhiễm bẩn ở dạng keo và hòa tan, vì những hạt rắn có kích
thước quá nhỏ.Để tách các hạt rắn đó một cách có hiệu quả, cần chuyển các tiểu
phân nhỏ thành các tập hợp lớn hơn.Việc khử các hạt keo đòi hỏi trước hết cần
trung hòa điện tích của chúng, tiếp đến là liên kết chúng với nhau bằng các chất
đông tụ. Các khối kết tủa bông lớn chịu ảnh hưởng của lực trọng trường bị sa lắng
xuống, trong quá trình sa lắng sẽ kéo theo các hạt lơ lửng và các hạt tạp chất khác.
Để tăng tốc độ keo tụ, tốc độ sa lắng, tốc độ nén ép các bông keo và đặc biệt để
làm giảm lượng chất keo tụ có thể dùng thêm các chất trợ keo, chất này có vai trò
liên kết giữa các hạt keo với nhau [1].
20
Hiện nay, keo tụ là phương pháp tiền xử lý thích hơp cho việc tách và loại bỏ
các hạt keo, giảm giá trị COD, độ màu, độ đục đến một giới hạn để có thể tiến
hành các bước xử lý tiếp theo. Do quy mô sản xuất nhỏ nên các hộ ở Dương Nội
chủ yếu sử dụng loại thuốc nhuộm trực tiếp và axit. Loại này tan thẳng vào nước ở
60 – 70oC, bắt màu thẳng vào vật liệu, không qua xử lý trung gian, hóa chất phụ trợ
kèm theo đơn giản, rẻ tiền, thiết bị nhuộm không phức tạp. Trong môi trường
nhuộm, chúng tạo thành các anion có dạng ArSO3, đây là cơ sở cho việc sử dụng
phương pháp keo tụ với các tác nhân keo tụ là muối cation đa hóa trị:
Ar – SO3Na Ar – SO3 + Na+
Phương pháp keo tụ có thể loại bỏ được kim loại nặng trong nước thải, làm
giảm độ đục và các thành phần rắn lơ lửng. Bên cạnh đó còn làm giảm chất ô
nhiễm khác nhau như dầu mỡ, COD, BOD…Trong nghiên cứu của Duk Jong Joo,
Won Sik Shin và Jeong Hak Choi [11] đã tiến hành xử lý nước thải chứa thuốc
nhuộm hoạt tính bằng phèn nhôm, phèn sắt và sử dụng thêm chất trợ lắng polime
tổng hợp. Kết quả cho thấy, khi sử dụng lượng phèn 1g/l thì hiệu quả loại bỏ màu
đạt được nhỏ hơn 20%, khi kết hợp phèn và chất trợ lắng thì màu của nƣớc thải
được loại hầu như hoàn toàn. Hiệu quả xử lý tăng khi tăng lượng chất trợ lắng.
Ngoài ra, hiệu quả keo tụ còn phụ thuộc vào điều kiện pH và loại chất keo tụ sử
dụng.
1.4.3.2. Phương pháp oxy hóa tăng cường
Đây là phương pháp có khả năng phân hủy triệt để những chất hữu cơ có cấu
trúc bền, độc tính cao chưa bị loại bỏ hoàn toàn bởi quá trình keo tụ và không dễ bị
oxy hóa bởi các chất oxy hóa thông thường, cũng như không hoặc ít bị phân hủy bởi
vi sinh vật.
Bản chất của phương pháp là xảy ra các quá trình oxi hóa để tạo ra các gốc
tự do như OH• có hoạt tính cao, có thể khoáng hóa hoàn toàn hầu hết các hợp chất
hữu cơ bền thành các sản phẩm bền vững như CO 2 và các axit vô cơ không gây khí
thải. Một số ví dụ về phương pháp oxi hóa tăng cường như Fenton, Peroxon,
catazon, quang fenton và quang xúc tác bán dẫn.
Với bản chất tạo ra gốc hydroxyl có tính oxy hóa rất mạnh, có khả năng oxy
hóa không chọn lọc hầu hết các hợp chất hữu cơ hòa tan trong dung dịch nước. Vì
21
vậy trong những năm gần đây, hiệu ứng Fenton điện hóa đã và đang được nhiều nhà
khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu, ứng dụng trong lĩnh vực xử lý nước
thải chứa các hợp chất hữu cơ gây ô nhiễm môi trường. Các kết quả nghiên cứu sử
dụng hiệu ứng Fenton điện hóa nhằm xử lý các nguồn nước ô nhiễm bởi các hợp
chất hữu cơ độc hại cho hiệu quả cao hơn nhiều so với các phương pháp thông
thường khác. Junjie và cộng sự đã khảo sát quá trình khoáng hóa thuốc nhuộm azo
C.I. axit đỏ [14] sử dụng quặng sắt khi có và không có tác dụng của siêu âm ở tần số
thấp. Tác giả đã chỉ ra rằng dưới tác động của siêu âm, nước có thể bị phân hủy và
tạo H2O2, cho phép hình thành hệ phản ứng Fenton trong dung dịch. Trong cả 2
trường hợp có và không có siêu âm, phản ứng phân hủy azo C.I. axit đỏ [14] tuân
theo quy luật động học bậc nhất với hằng số tốc độ phản ứng tương ứng là 7,5.102
phút1 và 2,58.101 s1. Shaobin Wang và các công sự [27] đã so sánh động học của
phản ứng Fenton (Fe3+/H2O2) và phản ứng giống Fenton (Fe 3+/H2O2) trong khi nghiên
cứu xử lý hợp chất màu azo C.I. axit đen [1]. Phản ứng Fenton cho hiệu suất oxy hóa
phân hủy thuốc nhuộm cao hơn so với phản ứng giống Fenton ở 100 phút đầu tiên
và sau đó hiệu suất của 2 phản ứng gần như tương đương. Tỷ lệ [Fe2+ ]:[H2O2] là
3:0,75 trong cả hai trường hợp và sự phân hủy các chất màu phụ thuộc vào nồng độ
ban đầu của Fe3+, H2O2 và pH trong khoảng nhiệt độ khảo sát từ 15450C. Năm 2007,
Minghua Zhou và các cộng sự [23] đã nghiên cứu khảo sát ảnh hưởng của các yếu
tố (pH, nồng độ Fe2+, thế điện cực catôt, nồng độ muối Na2SO4, nồng độ metyl đỏ)
tới sự phân hủy metyl đỏ bằng hiệu ứng Fenton điện hóa sử dụng điện cực graphit
polytetrafloetylen (PTFE). Kết quả cho thấy sự suy giảm màu sắc xảy ra nhanh và
đạt 80% trong 20 phút điện phân trong các điều kiện tốt nhất là: pH = 3, thế catôt =
0,55 V/SCE, nồng độ Fe2+ 0,2 mM, nồng độ methyl đỏ 100 mg/l, nồng độ muối
Na2SO4 0,1 M, tốc độ sục oxy 0,4 l/phút. Sự phân hủy metyl đỏ bằng hiệu ứng
Fenton điện hóa trong cùng điều kiện được đánh giá là có ưu thế đối với trường hợp
nồng độ thuốc nhuộm cao và được thực hiện ở hai giai đoạn khác nhau.Giai đoạn
một là giai đoạn phá vỡ liên kết azo tạo ra các sản phẩm trung gian có chứa vòng
benzen, giai đoạn hai là giai đoạn phá hủy các vòng benzen thành các hợp chất vô cơ
ít hoặc không độc hại với môi trường. Tuy nhiên, sự tiêu thụ ion sắt và sự hình
22
thành các sản phẩm trung gian trong quá trình điện phân khiến cho sự phân hủy
chậm hơn ở giai đoạn thứ hai [4].
1.4.3.3. Phương pháp hấp phụ
Hấp phụ là quá trình tụ tập (chất chứa, thu hút…) các phân tử khí, hơi hoặc
các phân tử, ion của chất tan lên bề mặt phân chia giữa các pha. Bề mặt phân chia
pha có thể là lỏng – rắn, khí – rắn. Chất mà trên bề mặt của nó có sự hấp phụ xảy
ra gọi là chất hấp phụ, còn chất mà được hấp phụ trên bề mặt phân chia pha được
gọi là chất bị hấp phụ. Quá trình ngược lại của hấp phụ gọi là quá trình giải hấp
phụ hay nhả hấp phụ.
Phương pháp hấp phụ là một phương pháp tách trực tiếp các cấu tử tan trong
nước, được sử dụng rộng rãi trong kỹ thuật xử lý nước thải nhờ có các ưu điểm
sau:
Có khả năng làm sạch nước ở mức độ cao, đáp ứng nhiều cấp độ chất
lượng.
Quy trình xử lý đơn giản, công nghệ xử lý không đòi hỏi thiết bị phức tạp.
Vật liệu hấp phụ có độ bền khá cao, có khả năng tái sử dụng nhiều lần nên
chi phí thấp nhưng hiệu quả xử lý cao.
Vật liệu ứng dụng trong phương pháp hấp phụ rất đa dạng : than hoạt tính,
zeolite, composit, đất sét, silicagel... Với mỗi loại vật liệu có đặc điểm và tính chọn
lọc riêng phù hợp với từng mục đích nghiên cứu và sử dụng thực tiễn.
Luiz C.A. Oliveira và các cộng sự [18] đã nghiên cứu chế tạo vật liệu
composit mang cacbon từ tính khảo sát hấp phụ trên một số chất, thí nghiệm tiến
hành như sau: composit được cho vào 400 ml huyền phù bao gồm cacbon hoạt tính,
FeCl3 (7,8 g, 28 mmol) và FeSO4 (3,9 g, 14 mmol) tại 700C .Thêm 100 ml dung dịch
NaOH 5M cho đến khi xuất hiện kết tủa sắt oxit. Lượng cacbon được điều chỉnh
sao cho tỷ lệ về khối lượng giữa cacbon hoạt tính và oxit sắt là 1:1, 2:1, 3:1.Vật liệu
được sấy khô ở 1000C trong 3h. Cân 50 mg vật liệu composit cho vào các bình nón
chứa 50 ml dung dịch bao gồm: phenol (500 mg/l, tại pH=5), clorofom (500 mg/l),
clobenzen (25 mg/l), phẩm đỏ (100 mg/l), hỗn hợp được để hấp phụ trong 24h, ở 25
± 10C. Nồng độ các chất sau khi tiến hành hấp phụ được xác định bằng phương
23
pháp đo phổ (MIMS) đối với phenol, clorofom và clobenzen, phương pháp quang đối
với phẩm đỏ. Kết quả như sau: đối với vật liệu composit có tỷ lệ cacbon hoạt
tính/Fe3O4 là 3:1 thì tải trọng hấp phụ thứ tự như sau: phenol (117 mg/g) < clobenzen
(305 mg/g) < clorofom (710 mg/g). Nếu chỉ dùng cacbon hoạt tính thì tải trọng hấp
phụ của phenol là 162 mg/g, clobenzen là 480 mg/g, clorofom là 910 mg/g. Đối với
phẩm đỏ, vật liệu composit có tỷ lệ cacbon hoạt tính/Fe3O4 là 2:1, 3:1, chỉ có cacbon
hoạt tính thì tải trọng hấp phụ thứ tự như sau: cacbon hoạt tính > 3:1 composit > 2:1
composit. Na Yang và các cộng sự [25] đã nghiên cứu chế tạo vật liệu nano
composit mang cacbon từ tính khảo sát hấp phụ phẩm xanh metylen, nghiên cứu cho
thấy tải trọng hấp phụ cực đại ≈300 mg/g [20].
Zeolit là một trong những chất sử dụng rộng rãi trong việc tổng hợp các chất
hấp phụ. Trong mạng lưới tinh thể của zeolit, một phần ion Si 4+ được thay thế bởi
ion Al3+ đã gây ra sự thiếu hụt về điện tích dương. Do đó, zeolit có thể tiếp nhận các
cation nhất định của các kim loại khác. Zeolit được sử dụng trong các phản ứng
đehyđro hóa các chất lỏng và chất khí sau đó việc tinh chế chất lỏng bằng khả năng
hấp phụ của mình. Zeolit tự nhiên và tổng hợp là vật liệu aluminosilicat tinh thể, có
cấu trúc xốp và bề mặt riêng cao. Zeolit có rất nhiều ứng dụng, đặc biệt là trong
lĩnh vực xúc tác hóa dầu, tổng hợp hữu cơ và bảo vệ môi trường. Khả năng trao đổi
ion cao kết hợp với ái lực lựa chọn đối với các cation làm cho chúng rất thích hợp
trong việc xử lý nước thải. Dưới đây là danh sách những cation kim loại có thể bị
loại ra khỏi nước thải bằng zeolit: Cu2+, NH4+, Pb2+, Zn2+, Hg2+, Cr3+, Fe3+, Cd2+, Ca2+,
Al3+, Cs2+, Sr2+. Năm 2003, Barmagan cùng các cộng sự [7] công bố ứng dụng zeolit
tách loại phẩm màu và các hợp chất hữu cơ trong nước. Kết quả cho thấy tải trọng
hấp phụ các loại phẩm đỏ, vàng, đen,... đạt 61–89 mg/g.
Silicagel là dạng của anhyđrit axit silicsic có cấu trúc lỗ xốp rất phát triển.
Mạng lưới của gel bao gồm các phân tử silic nằm giữa các nguyên tử oxy. Silicagel
dễ dàng hấp phụ các chất phân cực cũng như các chất có tạo với nhóm hiđroxy các
liên kết kiểu cầu hiđro. Silicagel có thể tái sinh ở nhiệt độ <2000C. Ứng dụng các
tính chất này, tác giả Trần Hồng Hà [30] đã nghiên cứu quá trình tách loại urani
bằng cột silicagel. Kết quả chỉ ra rằng, urani bị loại bỏ hoàn toàn khi cho chạy qua
cột với dung môi HNO3 4,5M. Cột nhồi bằng silicagel có đường kính 0,2 – 0,5 mm,
24
xử lý bằng HNO3 5M. Hiện nay, các nhà khoa học đặc biệt chú ý đến biến tính
silicagel để tăng các đặc tính của vật liệu. Kocjan và các cộng sự [15] đã biến tính
silicagel với các nhân sunfonat để tách loại ion kim loại. Vật liệu được điều chế
bằng cách cho silicagel phản ứng với NH4+ và một anion là tác nhân tạo sunfonat.
Vật liệu này có thể thu hồi lượng lớn kim loại nặng trong nước thải. Đặc biệt
chúng được sử dụng trong cột sắc ký, có khả năng lưu giữ tốt các kim loại tạo
phức.
1.5. Khái niệm chung về hợp chất màu azo
1.5.1. Đặc điểm cấu tạo
Hợp chất azo là những hợp chất màu tổng hợp có chứa nhóm azo N= N.
Hầu hết các loại hợp chất màu azo chỉ chứa một nhóm azo (gọi là monoazo), một
số ít chứa hai nhóm hoặc nhiều hơn. Hợp chất azo thường có chứa một vòng
thơm liên kết với nhóm azo và nối với một naphtalen hay vòng benzen thứ hai.
Sự khác nhau giữa các hợp chất azo chủ yếu ở vòng thơm, các nhóm quanh liên
kết azo giúp ổn định nhóm –N = N – bởi chính những nhóm này tạo nên một hệ
thống chuyển động, là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới màu sắc của hợp chất
azo. Khi hệ thống chuyển vị và phân chia sẽ xảy ra hiện tượng hấp thụ thường
xuyên ánh sáng ở vùng khả kiến [12,13].
1.5.2. Tính chất
Hợp chất màu azo bền hơn tất cả các phẩm màu thực phẩm tự nhiên. Đặc
biệt, phẩm màu azo bền trong phạm vi pH khá rộng của thực phẩm, bền với nhiệt
khi phơi dưới ánh sáng và oxy, rất khó bị phân hủy bởi các vi sinh vật. Chính vì
vậy, các hợp chất màu azo được ứng dụng phổ biến trong nhiều ngành công
nghiệp (thực phẩm, in, nhuộm...) [2,21]. Tuy nhiên, hợp chất màu azo không tan
được trong dầu hoặc chất béo, chỉ khi hợp chất màu azo kết hợp với một phân
tử chất béo hòa tan hoặc khi chúng bị phân tán thành những phân tử nguyên chất
thì dầu mới có thể được tạo màu.
1.5.3. Độc tính với môi trường
Các loại phẩm nhuộm tổng hợp có chứa các hợp chất azo đã có từ lâu đời và
ngày càng được sử dụng phổ biến trong các ngành công nghiệp dệt may, giấy,
25