ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Bài tập Thảo Luận
Nhóm 11
Đề bài: Các biện pháp Cưỡng chế trong
thi hành án Dân Sự
Môn học: Thi hành án Dân Sự
Giảng viên: Nguyễn Vinh Hưng
Lớp môn học: Thi hành án Dân Sự
Hà Nội, 2017
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
MỤC LỤC
Nội dung
DANH SÁCH NHÓM
ST
Họ và tên
Mã SV
Lớp
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
T
1
Phạm Thị Thu Huyền
15067011
K60B
2
Trần Thu Hà
3
Lê Thu Thảo
4
Lê Hoàng Việt
5
Trần Thị Kim Ngân
15060490
K60A
6
Phạm Thị Thi
15063013
K60A
7
Đỗ Đại Sơn Lâm
15062505
8
Đỗ Hải Long
15062474
9
Ngô Thị Kiều Oanh
K60B
15067020
K60B
K60A
K60B
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTDS
Tố tụng dân sự
VADS
Vụ án dân sự
VKS
Viện kiểm sát
HĐXX
Hội đồng xét xử
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TAND
Tòa án nhân dân
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
HĐTPTANDTC
Hội đồng thẩm phán tào án nhân dân tối cao
PTPT
Phiên tòa phúc thẩm
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
THA
Thi hành án
BPCC
Biện pháp cưỡng chế
CHV
Chấp hành viên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân hoạt động quan trọng Nhà nước việc đưa án, định quan
có thẩm quyền thi hành thực tế Hoạt động thi hành án mặt đảm bảo cho
quyền lực tư pháp thực thi thực tế Mặt khác, công cụ hữu hiệu để khôi phục
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
lại quyền lợi ích hợp pháp công dân bị xâm hại Hiệu hoạt động thi hành án có
tác động trực tiếp đến lòng tin nhân dân pháp luật Tuy nhiên, điều kiện kinh
tế xã hội nước ta nay, án, định có hiệu lực quan có thẩm quyền tổ chức thi
hành cách thuận lợi Do đó, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sử dụng
Cưỡng chế thi hành án dân hoạt động thường xuyên thực công tác thi hành án
dân Áp dụng án, định không tự nguyện thi hành Hiệu hoạt động cưỡng chế
thi hành án dân ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu công tác thi hành án Nhận thấy
tầm quan trọng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, Nhà nước quan tâm
xây dựng khung pháp lý cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế xây dựng
Luật thi hành án dân 2008 với quy định riêng chương IV, từ Điều 66 đến Điều
121 quy định biện pháp cưỡng chế Việc cưỡng chế thi hành án cụ thể nghị
định 58/2009/NĐCP ngày 13/7/2009 phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành
số điều luật thi hành án dân 2008 thủ tục thi hành án dân Nghị định 125/NĐ
CP ngày 14/10/2013 sửa đổi bổ sung số điều nghị định 58/2009/NNĐCP quy
định chi tiết hướng dẫn thi hành số điều luật thi hành án dân Nghị định
166/NĐCP quy định cưỡng chế thi hành định xử phạt vi phạm hành Thông tư
liên tịch số 03/2012/TTLTBTPBCA quy định cụ thể phối hợp bảo vệ cưỡng
chế thi hành án dân Tuy nhiên, trình áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự, người có thẩm quyền thi hành án gặp không khó khăn, vướng mắc Số
việc chưa thi hành chiếm tỷ lệ cao: năm 2010 chiếm 42,91%, năm 2011 chiếm
39,93%, năm 2012 chiếm 38,51% năm 2013 chiếm 32,67%, năm 2014 chiếm
31,85% Số tiền thi hành án chưa thi hành lớn năm 2010 chiếm 72,96%, năm
2011 chiếm 71,29%, năm 2012 chiếm 76,07%, năm 2013 chiếm 58,95%, năm
2014 chiếm 59,02% Mặt khác, hoạt động cưỡng chế thi hành án tác động sâu
rộng đến quan hệ xã hội người thi hành án, người phải thi hành án, người có
quyền nghĩa vụ liên quan án Do đó, vấn đề cưỡng chế tài sản người phải thi
hành án phải nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo tính nghiêm minh pháp luật,
đồng thời bảo đảm quyền lợi hợp pháp đương. Trước tình hình đó, tác giả
định lựa chọn đề tài “Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” làm đề tài
tiểu luận tốt nghệp Đây vấn đề cấp thiết có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc lĩnh
vực thi hành án dân Việc nghiên cứu kỹ biện pháp cưỡng chế giúp đem lại
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
quyền lợi ích thực tế cho cá nhân, tổ chức, góp xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh.
Trước thực trạng và yêu cầu trên, nhóm chúng em chọn đề tài "Thủ tục
phúc thẩm quyết định của Toà án" làm nội dung nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình xây dựng bài này, nguồn tài liệu về đề tài này vẫn còn
khá hạn chế. Chủ yếu vẫn là những thông tin từ Giáo trình Luật Tố tụng dân
sự Khoa Luật ĐHQGHN và Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Đại học Luật
Hà Nội. Hai Giáo trình này đã phân tích các quy định của Bộ Luật tố tụng dân
sự về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Nhưng vẫn thiếu sự cụ
thể.
2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên sở nghiên cứu quy định biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự,
tác giả mong muốn làm rõ sở lý luận bất cập thực tiễn áp dụng nước ta năm
gần đây. Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu công tác thi hành án dân nói
chung hoạt động cưỡng chế thi hành án dân nói riêng.
2.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân chế định rộng bao gồm
nhiều quy định biện pháp cưỡng chế cụ thể. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu
vấn đề này, nhiên đa phần tác giả nghiên cứu chuyên sâu biện pháp định. Do
vậy, phạm vi đề tài tác giả trình bày tổng quát quy định pháp luật thực trạng
áp dụng tất biện pháp cưỡng chế thời gian từ năm 20122016
2. Phương pháp nghiên cứu
Bai thao luân v
̀ ̉
̣ ận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
lý luận về nhận thức của triết học Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật; đường lối chính sách của Đảng về vấn đề cải cách tư
pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Trên cơ sở đó,bai thao lu
̀ ̉
ận sử dụng
các biện pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử,
phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn để nghiên cứu vấn đề này.
3. Kết cấu
Kêt câu cua bai đ
́ ́ ̉
̀ ược chia thanh 3 ch
̀
ương:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
CHƯƠNG 2: CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DẤN SỰ
CHƯƠNG 3: THỰC TẾ ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP
CƯỚNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Khái niệm thi hành án dân sự
Vì thi hành án dân sự là một loại hình của thi hành án, nên cũng có thể
hiểu “thi hành án dân sự là hoạt động hành chính tư pháp của Nhà nước, do
cơ quan thi hành án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm
bảo thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định
khác của cơ quan có thẩm quyền.”
Trong khái niệm này, vấn đề cần tiếp tục làm rõ là phải hiểu như thế
nào về "dân sự" trong thi hành án?
Theo ý kiến thứ nhất thì "dân sự" được hiểu theo nghĩa hẹp. Cơ sở để
đưa raý kiến này xuất phát từ quy định của Điều 1 Bộ luật dân sự năm 1995
cho rằng, quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản
phát sinh trong giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự
trong thi hành án bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và
nhân thân phi tài sản (như bản án, quyết định về tranh chấp các loại hợp đồng
dân sự, về hôn nhân gia đình và một số loại bản án, quyết định có tính chất
dân sự).
Ý kiến thứ hai hiểu "dân sự" theo nghĩa rộng. Theo pháp luật của
nhiềunước trên thế giới, việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp
luật về nội dung là luật tư (luật dân sự, luật kinh doanh, thương mại, lao
động) được thực hiện theo một thủ tục chung qui định trọng bộ luật tố tụng
dân sự.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, theo pháp luật Việt
Nam thì "dân sự" trong thi hành án cần được hiểu một cách cụ thể. Đó là:
Những bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế;
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài; quyết định của Trọng tài
nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy
thu tiền, tài sản, thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án
về hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án
về hành chính; quyết định tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài thương
mại Việt Nam (Điều 1 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004).
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án dân sự
như sau: “ thihành án dân sự là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng do
cơ quan, tổ chức, ngườicó thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định, nhằm mục tiêu đưabản án, quyết định về dân sự của Tòa
án hoặc các quyết định khác theo quy định củapháp luật được thực hiện trên
thực tế, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi íchhợp pháp của các cá
nhân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”1.
2.
Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự
2.1.
Khái niệm về cưỡng chế thi hành án
Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ
quan thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc
đương sự phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án,
quyết định của tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án
có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do Chấp
hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành
án tẩu tán, hủy hoại tài sản.2
2.2. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế
Để áp dụng được biện pháp cưỡng chế thi hành án, cần phải hội đủ
các điều kiện sau đây: Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài
1 Ths. Trần Phương Thảo (2007) “các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí luật học số
07/2007 tr 43, 44
2 />
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
sản hoặc phải thực hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết
định của Trọng tài, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý
vụ việc cạnh tranh; Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng
không tự nguyện thi hành án. Cho thấy, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự chỉ được áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ và hành vi phải
thực hiện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, nhất là có thái độ và
hành vi không tự nguyện thi hành án khi người phải thi hành án có điều kiện
thi hành án. Theo khoản 6, Điều 3 Luật THADS năm 2008, có điều kiện thi
hành án là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành
nghĩa vụ về tài sản; tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ
thi hành án.
2.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế thi hành án dân sự là một biện pháp nghiêm khắc nhất, do
đó, Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án không được áp dụng
một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Các nguyên
tắc đó là:
Chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định, bao gồm:
1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án.
2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang
do người thứ ba giữ.
4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện
công việc nhất định( Điều 71 Luật THADS năm 2008).
Chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời hạn tự
nguyện thi hành án trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Ngoài
ra, cơ quan thi hành án dân sự không không tổ chức cưỡng chế thi hành án có
huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các
ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi
hành án3.
Việc tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải
thi hành án và các chi phí cần thiết khác. Chấp hành viên phải ước tính giá trị
tài sản để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều
so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc
việc phân chia sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn
có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án( điểm 2, khoản
1, Điều 8 Nghị định 58/2009/NĐCP ngày 13/7/2009 của Chính phủ).
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết
định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về
mặt chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo
đức Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án có thuận lợi hay
không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật
tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy thuộc vào
việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế của Chấp hành viên.
2.4. Căn cứ cưỡng chế thi hành án
Theo Điều 70 Luật THADS năm 2008, căn cứ tổ chức cưỡng chế gồm
có: bản án quyết định, quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành
án, trừ trường hợp bản, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài
khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Tòa án. Như vậy, trên cở sở pháp lý đã có, Chấp hành viên cần phải
tuân thủ đúng và đầy đủ những quy định của pháp luật để áp dụng biện pháp
3 Ths. Trần Phương Thảo (2007) “các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí luật học số
07/2007 tr 43, 44
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
cưỡng chế. Nhưng để có thể tổ chức được việc cưỡng chế, Chấp hành viên
phải thực hiện những trình tự, thủ tục nào?
3. Ý nghĩa của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Thi hành án là một quá trình gồm nhiều thủ tục pháp lý liên quan chặt
chẽ với nhau. Thủ tục ban đầu làm tiền đề cho các thủ tục tiếp theo. Thủ tục
ban đầu chặt chẽ, thì thủ tục tiếp theo đảm bảo đúng quy định của pháp luật
Luật bồi thường nhà nước có hiệu lực vào ngày 01/01/2010 là một cơ
sở pháp lý quan trọng cho công dân yêu cầu cơ quan thi hành án, người làm
công tác thi hành án gây thiệt hại cho công dân, cơ quan, tổ chức( đương sự,
người có quyền lợi liên quan) trong quá trình tác nghiệp phải bồi thường.
Nhưng hiện nay, thu nhập của người làm công tác thi hành, nhất là Chấp hành
viên thường phụ thuộc rất nhiều vào đồng lương căn bản, thì khả năng có thể
bồi thường của Chấp hành viên là rất khó khăn, nếu xảy ra việc bồi thường
thì chắc chắn, Chấp hành viên sẽ không còn lòng nhiệt huyết và tinh thần để
gắn bó với ngành thi hành án dân sự nữa. Do vậy, để hạn chế đến mức thấp
nhất việc phải bồi thường trong quá trình tác nghiệp, Chấp hành viên bắt
buộc phải thực hiện việc bảo đảm chặt chẽ về mặt thủ tục thi hành án nói
chung và trong quá trình cưỡng chế thi hành án nói riêng.
Ngoài ra, cưỡng chế thi hành án dân sự là một thủ tục nhạy cảm, ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người phải thi hành án. Do vậy, việc
khiếu nại, tố cáo trước, trong và sau khi cưỡng chế thi hành án xảy ra là điều
không thể tránh khỏi. Nếu thủ tục ban đầu Chấp hành viên không thực hiện
được một cách đầy đủ và đúng pháp luật, thì khi có khiếu nại phát sinh, cơ
quant hi hành án không có cơ sở bác khiếu nại của đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, buộc phải công nhận khiếu nại là đúng thì cả một quá
trình thi hành án sẽ bị ngưng trệ, thậm chí phải làm lại từ đầu, gây tốn kém
về thời gian và tiền bạc của Nhà nước. Nhất là cơ quan thi hành án sẽ không
giải quyết được án tồn, ảnh hưởng chung đến thành tích thi đua của đơn vị,
của ngành thi hành án dân sự và làm tăng thêm ghánh nặng cho ngân sách nhà
nước trong việc giải quyết lượng án tồn phát sinh.
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
4. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự của pháp luật 1 số nước
4.1. Indonesia
Luật Indonesia không quy định bất kỳ cơ quan thi hành án cụ thể hoặc
riêng biệt nào. Việc thi hành các quyết định của Tòa án thuộc trách nhiệm của
Tòa án trong các vụ án dân sự. Indonesia có hai Bộ luật Tố tụng dân sự
Herziene Indonesisch Reglement (HIR, áp dụng ở Java và Madura) và
Reglement Buitengewesten (RBg, có hiệu lực trong phần còn lại của
Indonesia). Theo luật pháp Indonesia, sau khi ra bản án/quyết định, Tòa án sẽ
thực hiện quá trình thi hành án.
Trong các vụ án dân sự, chánh án Tòa án quận đã xét xử vụ án theo thủ
tục
sơ thẩm có trách nhiệm thi hành bản án. Do đó, một Tòa án quận cụ thể sẽ có
rách nhiệm thi hành bất kỳ bản án phúc thẩm hay phá án của Tòa án tối cao
(đối với phán quyết của mình). Bên thắng kiện trong một vụ án có thể đến
Tòa án quận và đề nghị Tòa ra lệnh thi hành án. Thư ký Tòa án (panitera) hoặc
chấp hành viên (juru sita) phải bảo đảm việc tuân thủ đúng lệnh thi hành án
của chánh án. Ở mỗi Tòa án cấp huyện đều có chấp hành viên là người chịu
trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án/quyết định của Tòa. Khi cần thiết thì
chấp hành viên có thể tổ chức cưỡng chế (với sự hỗ trợ của cảnh sát). Thi
hành án dân sự từ trước đến nay ở Indonesia vẫn do Tòa án đảm nhiệm, tuy
nhiên, trước đây Tòa án trực thuộc Bộ Tư pháp quản lý. Cải cách satu atap đã
tước bỏ một chức năng có lẽ được xem là chức năng chủ yếu của Bộ Tư
pháp Indonesia, đó là quản lý các Tòa án. Trước khi có cải cách satu atap,
người ta biết đến Bộ này với cái tên Departmen Kehakiman, theo nghĩa đen là
Bộ về các vấn đề thuộc Tòa án, mặc dù tên này thường được dịch là Bộ Tư
pháp.
Hiện nay, Bộ đã được đổi tên thành Bộ Pháp luật và Nhân quyền
(Kementerian Hukum dan Hak Asasi Manusia). Lưu ý rằng, không có quy trình
chính thức nào đối với việc xã hội hóa việc thi hành các bản án. Mặc dù từ
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
năm 2001, xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự với xu hướng thành lập tổ
chức thi hành án tư nhân đã được giới thiệu ở Indonesia kinh nghiệm của
Phần Lan và Hungary, tuy nhiên, đề xuất này chưa được chấp nhận.
4.2. Singapore
Việc tổ chức thi hành án dân sự ở Singapore do Tòa án đảm nhiệm. Hệ
thống tổ chức Tòa án ở Singapore gồm Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới. Ở
Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới có bộ phận thi hành án.
Nhân viên thi hành án vừa có nhiệm vụ thi hành án, vừa có nhiệm vụ
tống đạt giấy tờ, thực hiện các lệnh bắt giữ. Nhân viên thi hành án của Tòa
án nào thì thi hành bản án của Tòa án đó. Nhân viên thi hành án của Toà cấp
dưới không có quyền bắt giữ tàu biển và thi hành các bản án mà giá trị lên
đến 250.000 đô la Singapore; những bản án loại này do nhân viên thi hành án
Toà tối cao thi hành. Nhân viên thi hành án phải thi hành đúng luật, công khai,
không được tham nhũng. Trường hợp có hành vi tiêu cực sẽ bị xử lý theo pháp
luật, bị chuyển làm việc khác.
Ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ một phần cho hoạt động thi hành án, chủ
yếu là việc trả lương cho chấp hành viên, thẩm phán thi hành án nếu đó là
thiết chế thuộc bộ máy nhà nước. Các chi phí cưỡng chế thi hành án thì người
phải thi hành án phải chịu, trường hợp tài sản của người phải thi hành án
không đủ thì có thể do người được thi hành án chịu.
Về thủ tục thi hành án dân sự:
Khi có bản án, người được thi hành đến gặp người phải thi hành để xem
xét khả năng thi hành của họ và yêu cầu họ phải thi hành. Nếu người phải thi
hành án không thi hành, người được thi hành án muốn được thi hành phải có
đơn yêu cầu thi hành án (theo mẫu in sẵn) gửi Toà án. Bên cạnh đó, người
được thi hành án hoặc luật sư đại diện phải trực tiếp chỉ cho nhân viên thi
hành án những tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người được thi
hành án, hoặc trong trường hợp thi hành các bản án về trả tiền thì chỉ cho
nhân viên thi hành án những tài sản của người phải thi hành án để nhân viên
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
thi hành án kiểm kê, dán niêm phong hoặc chuyển giao tài sản cho người khác
giữ.
CHƯƠNG 2: CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DẤN
SỰ
1...Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy
tờ có giá của người phải thi hành án4
Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có
giá của người phải THA là một trong các BPCC THA dân sự, được áp dụng
trong trường hợp người phải THA phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo bản
án, quyết định mà người phải THA có đang có tiền trong tài khoản hoặc đang
sở hữu giấy tờ có giá. Nếu người phải THA phải thi hành nghĩa vụ trả tiền,
mà họ đang giữ tiền, giấy tờ có giá hoặc gửi tại kho bạc, tổ chức tín dụng thì
4 Ths. Trần Phương Thảo (2007) “các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí luật học số
07/2007 tr 43, 44
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
BPCC này sẽ là biện pháp đầu tiên được áp dụng . Biện pháp khấu trừ tiền
trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải THA được
quy định tại các điều Điều 71, 76 và từ Điều 79 đến Điều 83 luật THA dân sự
2008. Đối tượng của biện pháp này là tiền và giấy tờ có giá. Tiền bị cưỡng
chế có thể là tiền trong tài khoản ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc tiền mà
chính họ đang giữ, thu nhập từ hoạt động kinh doanh hằng ngày và tiền do
người thứ ba đang giữ. Nhìn chung những quy định này hầu như đã khắc phục
được những hạn chế của pháp lệnh THA dân sự 2004 về vấn đề khấu trừ,
thu hồi xử lý tiền giấy tờ có giá của người phải THA. Tuy nhiên còn một số
điểm mà pháp luật quy định chưa được phù hợp. Ví dụ: Nếu người phải THA
có tài khoản tại ngân hàng nhưng nguồn lợi thu được từ việc gửi tài sản đó là
nguồn sống duy nhất của họ và gia đình, ngoài ra họ không có tài sản nào
khác mà người có thẩm quyền THA khấu trừ hết nghĩa vụ THA và chi phí
cưỡng chế thì người phải THA không đảm bảo được cuộc sống. Như vậy,
để phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta thì pháp luật THA dân sự
phải quy định theo hướng người có thẩm quyền THA không được khấu trừ
hết số tiền trong tài khoản của người THA để thực hiện nghĩa vụ mà nguồn
lợi thu được từ việc gửi tài sản đó là nguồn sống duy nhất của người phải
THA và gia đình họ.
Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có
giá của người phải THA được quy định tại các điều Điều 71, 76 và từ Điều
79 đến Điều 83 luật THA dân sự 2008. Đối tượng của biện pháp này là tiền
và giấy tờ có giá. Tiền bị cưỡng chế có thể là tiền trong tài khoản ngân hàng,
tổ chức tín dụng hoặc tiền mà chính họ đang giữ, thu nhập từ hoạt động kinh
doanh hằng ngày và tiền do người thứ ba đang giữ. Nhìn chung những quy
định này hầu như đã khắc phục được những hạn chế của pháp lệnh THA dân
sự 2004 về vấn đề khấu trừ, thu hồi xử lý tiền giấy tờ có giá của người phải
THA. Tuy nhiên còn một số điểm mà pháp luật quy định chưa được phù hợp.
Ví dụ: Nếu người phải THA có tài khoản tại ngân hàng nhưng nguồn lợi thu
được từ việc gửi tài sản đó là nguồn sống duy nhất của họ và gia đình, ngoài
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
ra họ không có tài sản nào khác mà người có thẩm quyền THA khấu trừ hết
nghĩa vụ THA và chi phí cưỡng chế thì người phải THA không đảm bảo
được cuộc sống. Như vậy, để phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta thì pháp luật THA dân sự phải quy định theo hướng người có thẩm quyền
THA không được khấu trừ hết số tiền trong tài khoản của người THA để
thực hiện nghĩa vụ mà nguồn lợi thu được từ việc gửi tài sản đó là nguồn
sống duy nhất của người phải THA và gia đình họ.
2..............................................Trừ vào thu nhập người phải thi hành án
Biện pháp trừ vào thu nhập của người phải THA là một trong các BPCC THA
dân sự được áp dụng trong trường hợp người phải THA phải thực hiện nghĩa
vụ trả tiền theo bản án, quyết định. Người THA có thu nhập thực tế và không
tự nguyện thi hành.
Biện pháp trừ vào thu nhập được quy định tại Điều 78 luật THA dân sự 2008.
Giống với đối tượng của biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, đối tượng
của biện pháp này cũng là tiền. Nhưng thu nhập theo quy định của BPCC biện
pháp trừ vào thu nhập khác với thu nhập từ hoạt động kinh doanh của biện
pháp khấu khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá.
Theo quy định của pháp luật, tiền bị cưỡng chế là thu nhập của người phải
THA gồm: tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao
động và thu nhập hợp pháp khác. Việc trừ vào thu nhập của người phải THA
được thực hiện theo thỏa thuận của đương sự; Bản án, quyết định ấn định
trừ vào thu nhập của người phải THA; THA cấp dưỡng, THA theo định kỳ,
khoản tiền phải THA không lớn hoặc tài sản khác của người phải THA
không đủ để THA.
.....Mức trừ cao nhất được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền
trợ cấp mất sức lao động là 30% tổng số tiền được nhận hàng tháng, trừ
trường hợp đương sự có thoả thuận khác. Đối với thu nhập khác thì mức
khấu trừ căn cứ vào thu nhập thực tế của người phải THA, nhưng phải đảm
bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người đó và người được nuôi dưỡng
theo quy định của pháp luật.
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
.....Đối với lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính thì mức đối với tiền lương, bảo
hiểm xã hội tỷ lệ khấu trừ mỗi lần không quá 30% tổng số tiền lương, bảo
hiểm xã hội được hưởng. Đối với những khoản thu nhập khác, tỷ lệ khấu trừ
mỗi lần không quá 50% tổng số thu nhập.
3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án
Biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải THA là một trong các
BPCC THA dân sự, được áp dụng trong trường hợp người phải THA phải
thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định. Người THA chỉ có tài
sản và không tự nguyện THA.
Biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người THA được quy định tại các
Điều 74, Điều 75, Điều 84, từ Điều 89 đến Điều 98 và Điều 111 luật THA
dân sự 2008. Theo đó, đối tượng của biện pháp này là tài sản bao gồm: tài sản
là vật, vốn gốp, nhà ở, tài 12 sản gắn liền với đất, phương tiện giao thông,
hoa lợi, quyền sở hữu trí tuệ và quyền sử dụng đất.
3.1. Khái niệm
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam của nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí
Minh năm 1998 thì kê biên là một từ Hán Việt. “Kê” nghĩa là tính toán, còn
“biên” có nghĩa là ghi chép lại theo một trật tự nhất định. Vậy kê biên có
nghĩa là tính toán và ghi chép lại theo một trật tự nhất định. Về tài sản, hiện
nay chúng ta chưa có một khái niệm khát quát về tài sản mà chỉ có một định
nghĩa mang tính chất liệt kê: Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản (Điều 163 BLDS 2005) Thuật ngữ kê biên tài sản đã được ghi
nhận trong nhiều văn bản pháp luật của nước ta như pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự 1989, pháp lệnh thi hành án dân sự 1993, 2004… do
đó, có thể thấy rằng đây là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng nhiều trong
pháp luật tố tụng dân sự. Trong cuốn từ điển các thuật ngữ pháp lý thông
dụng cũng của nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 có định nghĩa
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
KBTS như sau: “Kê biên tài sản là việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu tán,
phá hủy, để đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án”5.
Như vậy, kê biên tài sản là một thuật ngữ pháp lý chỉ việc tính toán và
ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ thể. Tài sản
ở đây có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Từ những năm
1989 trở về trước, trong pháp luật tố tụng dân sự nước ta chưa có sự phân
biệt rõ ràng hai khái niệm kê biên tài sản và tịch biên tài sản. Song mỗi khái
niệm về một sự vật hiện tượng luôn gắn với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
trong quá trình phát triển các nhà lập pháp đã có sự phân biệt về hai khái niệm
này. Kê biên chỉ là một hình thức ghi lại tài sản theo thứ tự và áp dụng đối với
tài sản hợp pháp của một chủ thể, còn tịch biên thường được áp dụng đối với
tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp. Cũng chính vì thế mà nó kéo theo hậu quả
pháp lý khác nhau. Tài sản bị tịch biên thường bị sung công quỹ Nhà nước, tài
sản kê biên sẽ được xử lý để thực hiện nghĩa vụ của người có tài sản bị kê
biên, có nghĩa là không bị sung công quỹ Nhà nước. Như vậy, tịch biên có thể
gọi là tịch thu sung công quỹ Nhà nước những tài sản có nguồn gốc bất hợp
pháp, nó có bản chất hoàn toàn khác với kê biên.
Qua khái niệm KBTS ta thấy rằng trong đời sống hàng ngày có những
khái niệm tương tự, gần giống với kê biên. Nhưng KBTS luôn gắn với một
chủ thể nhất định, nhân danh cho quyền lực Nhà nước, vì thế không phải ai
cũng có quyền KBTS của người khác, không phải hành động nào tương tự
cũng được gọi là kê biên. Trong quá trình tố tụng dân sự nhiều chủ thể có
quyền áp dụng biện pháp KBTS nhưng việc áp dụng ấy có tính chất và mục
đích hoàn toàn khác nhau, không phải lúc nào KBTS cũng được áp dung với
tính chất là một biện pháp cưỡng chế để THA. Điều này chúng tôi sẽ làm rõ
ở phần tiếp theo.
5 />ch%E1%BA%BFthih%C3%A0nh%C3%A1nd%C3%A2ns%E1%BB%B1.pdf
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
3.2. Điều kiện áp dụng
Phải chịu áp dụng thi hành án dân sự
Có tài sản
Không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự
3.3. Nguyên tắc áp dụng
Chỉ kê biên đúng những tài sản phải thi hành án
Kê biên động sản trước sau đó đến bất động sản
3.4. Trình tự, thủ tục áp dụng
Trình tự thủ tục áp dụng BPCC THA dân sự được áp dụng trong trường
hợp người phải THA chây ì chống đối, trốn tránh nghĩa vụ thi hành bản án,
quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên do ảnh hưởng lớn đến
quan hệ xã hội người phải THA nên việc áp dụng BPCC THA dân sự phải
thực hiện theo một trình tự thủ tục chặt chẽ. Trước khi được áp dụng BPCC
thì phải trải qua các thủ tục chung của công tác THA.
Ra quyết định cưỡng chế Theo Điều 45 luật THA dân sự 2008 thì “hết
thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án
có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế”6 .
Sau khi hết thời hạn tự nguyện THA, người có thẩm quyền THA ra quyết
định cưỡng chế trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong
toả tài sản, tài khoản. Lập kế hoạch cưỡng chế Trước khi tiến hành cưỡng
chếTHA dân sự, người có thẩm quyền THA phải lập kế hoạch cưỡng chế,
trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay.
Kế hoạch cưỡng chế bao gồm: BPCC cần áp dụng; Thời gian, địa
điểm cưỡng chế; Phương án tiến hành cưỡng chế; Yêu cầu về lực lượng
6 />ch%E1%BA%BFthih%C3%A0nh%C3%A1nd%C3%A2ns%E1%BB%B1.pdf
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
tham gia và bảo vệ cưỡng chế; Dự trù chi phí cưỡng chế. Kế hoạch cưỡng
chế gửi cho Viện kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp, Ủy ban nhân dân
(UBND) cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan
đến việc cưỡng chế THA.
Trong trường hợp cần thiết, Thủ trưởng cơ quan THA dân sự 5 Điều
19 NĐ 166/NĐCP quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính 6 Thời hạn tự nguyện THA là 15 ngày 9 cấp tỉnh và cấp
huyện báo cáo Chủ tịch UBND cùng cấp ít nhất là 5 ngày làm việc trước khi
tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an
ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bàn.
Tống đạt quyết định cưỡng chế và các giấy tờ khác có liên quan cho
người phải THA, người được THA và những người có quyền lợi liên quan.
Tiến hành cưỡng chế Tiến hành cưỡng chế tại nơi có tài sản hoặc đối
tượng cần cưỡng chế. Trước khi thực hiện việc cưỡng chế theo kế hoạch và
quyết định cưỡng chế đã ấn định, người có thẩm quyền THA chủ trì phổ
biến toàn bộ kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị, từng
người, nêu các tình huống có thể sảy ra và biện pháp xử lý các tình huống đó.
Chuẩn bị đầy đủ các biên bản, văn bản cần sử dụng trước khi tiến hành
cưỡng chế. Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, điều kiện liên quan đã dự kiến
phục vụ tốt cho việc cưỡng chế. Người có thẩm quyền THA chủ trì điều
hành toàn bộ quá trình cưỡng chế, kịp thời xử lý mọi tình huống đã dự kiến
trong kế hoạch và tình huống phát sinh diễn ra trong quá trình cưỡng chế cho
đến khi kết thúc việc cưỡng chế7.
Theo Điều 163 Bộ luật dân sự 2005 quy định “tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Từ đó có thể thấy, hai đối
7 />ch%E1%BA%BFthih%C3%A0nh%C3%A1nd%C3%A2ns%E1%BB%B1.pdf
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
tượng là tiền và giấy tờ có giá không được pháp luật THA quy định được kê
biên, xử lý.
Như vậy, có thể hiểu tài sản bị kê biên không bao gồm tiền, giấy tờ có
giá. Những tài sản của người THA không được kê biên: Tài sản bị cấm lưu
thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi
ích công cộng; tài sản do ngân sách Nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức. Số
lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải THA và gia đình trong
thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới; Số thuốc cần dùng để phòng,
chữa bệnh của người phải THA và gia đình; Vật dụng cần thiết của người
tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm; Đồ dùng thờ cúng thông
thường theo tập quán ở địa phương; Công cụ lao động cần thiết, có giá trị
không lớn được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của
người phải THA và gia đình; Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải
THA và gia đình. Khi tiến hành kê biên tài sản của người phải THA, người có
thẩm quyền THA phải phân biệt tài sản thuộc sở hữu chung hoặc đang có
tranh chấp hay không.
Trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung.
Tại Điều 74 luật THA dân sự 2008 quy định trước khi cưỡng chế đối
với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải THA với người khác, kể cả
quyền sử dụng đất, người có thẩm quyền THA phải thông báo cho chủ sở
hữu chung biết việc cưỡng chế để họ thực hiện quyền khởi kiện tại Tòa án
để xác định phần sở hữu của mình. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận
được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được THA
hoặc người có thẩm quyền THA có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở
hữu của người phải THA trong khối tài sản chung để bảo đảm THA. Đối với
tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng thì người có thẩm quyền
THA xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết.
Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu
cầu Toà án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
sở hữu được người có thẩm quyền THA xác định. Hết thời hạn trên, đương
sự không khởi kiện thì người có thẩm quyền THA tiến hành xử lý tài sản và
thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải THA giá trị phần tài sản
thuộc quyền sở hữu của họ.
Trường hợp xử lý tài sản đang có tranh chấp8.
Người có thẩm quyền THA tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự,
người có tranh chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm
quyền giải quyết. Người có thẩm quyền THA xử lý tài sản đã kê biên theo
quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày người có thẩm quyền THA yêu cầu mà đương sự, người có tranh chấp
không khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết
thì tài sản được xử lý để THA theo quy định của luật này. Sau khi đã xác định
được, phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau: Đối với tài
sản chung có thể chia được thì người có thẩm quyền THA áp dụng BPCC
phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải THA; Đối với tài
sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể
giá trị của tài sản thì người có thẩm quyền THA có thể áp dụng BPCC đối
với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần
tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án
4.1. Khái niệm
Khai thác tài sản của người phải thi hành án là biện pháp cưỡng chế
thi
hành án đối với tài sản của người phải thi hành án có thể khai thác được để
thi
hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định.
8 />
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
4.2. Điều kiện áp dụng
1. Chấp hành viên cưỡng chế khai thác tài sản của người phải thi
hành án trong các trường hợp sau đây:
a) Tài sản của người phải thi hành án có giá trị quá lớn so với nghĩa
vụ phải thi hành và tài sản đó có thể khai thác để thi hành án;
b) Người được thi hành án đồng ý cưỡng chế khai thác tài sản để thi
hành án nếu việc khai thác tài sản không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người thứ ba.
2. Chấp hành viên phải ra quyết định cưỡng chế khai thác tài sản.
Quyết định ghi rõ hình thức khai thác; số tiền, thời hạn, thời điểm, địa điểm,
phương thức nộp tiền cho cơ quan thi hành án dân sự để thi hành án.
Quyết định cưỡng chế khai thác tài sản phải được gửi ngay cho cơ
quan có thẩm quyền quản lý, đăng ký đối với tài sản đó và Uỷ ban nhân dân
cấp xã nơi có tài sản.
Việc thực hiện giao dịch, chuyển giao quyền sở hữu tài sản đối với
tài sản đang khai thác phải được sự đồng ý của Chấp hành viên.
4.3. Nguyên tắc áp dụng
Chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời hạn tự
nguyện thi hành án trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Ngoài
ra, cơ quan thi hành án dân sự không không tổ chức cưỡng chế thi hành án có
huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các
ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi
hành án.
* Việc tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người
phải thi hành án và các chi phí cần thiết khác. Chấp hành viên phải ước tính
giá trị tài sản để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành
án. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn
Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN
Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
nhiều so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia
được hoặc việc phân chia sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp
hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành
án( điểm 2, khoản 1, Điều 8 Nghị định 58/2009/NĐCP ngày 13/7/2009 của
Chính phủ).
* Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết
định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về
mặt chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo
đức Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án có thuận lợi hay
không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật
tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy thuộc vào
việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế của Chấp hành viên.
4.4. Trình tự, thủ tục áp dụng9
Được quy định tại Điều 108 – LTHADS. Theo đó, tài sản của người
phải thi hành án bị cưỡng chế khai thác để thi hành án theo các hình thức sau
đây:
Tài sản mà người phải thi hành án đang trực tiếp khai thác hoặc cho
người khác khai thác thì người đang khai thác được tiếp tục khai thác. Trường
hợp tài sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất mà chưa khai thác thì Chấp hành
viên yêu cầu người phải thi hành án ký hợp đồng khai thác tài sản với tổ
chức, cá nhân có nhu cầu khai thác tài sản
Người khai thác tài sản quy định tại khoản 1 Điều này phải nộp số tiền
thu được từ việc khai thác tài sản cho cơ quan thi hành án dân sự, sau khi trừ
các chi phí cần thiết.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày yêu cầu mà người phải thi hành án
không ký hợp đồng khai thác với người khác thì Chấp hành viên kê biên, xử lý
tài sản đó để thi hành án.
9 Ths. Trần Phương Thảo (2007) “các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí luật học số
07/2007 tr 43, 44