Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Đề bài: Các biện pháp cưỡng chế trong thi hành án Dân Sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.72 KB, 55 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Bài tập Thảo Luận 
Nhóm 11

Đề bài: Các biện pháp Cưỡng chế trong 
thi hành án Dân Sự
Môn học: Thi hành án Dân Sự
Giảng viên: Nguyễn Vinh Hưng
Lớp môn học: Thi hành án Dân Sự

Hà Nội, 2017


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
MỤC LỤC
Nội dung

DANH SÁCH NHÓM

ST

Họ và tên

Mã SV

Lớp



Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
T
1

Phạm Thị Thu Huyền

15067011

K60B

2

Trần Thu Hà

3

Lê Thu Thảo

4

Lê Hoàng Việt

5

Trần Thị Kim Ngân

15060490


K60A

6

Phạm Thị Thi

15063013

K60A

7

Đỗ Đại Sơn Lâm

15062505

8

Đỗ Hải Long

15062474

9

Ngô Thị Kiều Oanh

K60B
15067020


K60B
K60A

K60B

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTDS

Tố tụng dân sự

VADS

Vụ án dân sự

VKS

Viện kiểm sát

HĐXX

Hội đồng xét xử


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


TAND

Tòa án nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

HĐTPTANDTC

Hội đồng thẩm phán tào án nhân dân tối cao

PTPT

Phiên tòa phúc thẩm

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

THA

Thi hành án

BPCC

Biện pháp cưỡng chế

CHV


Chấp hành viên

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân hoạt động quan trọng Nhà nước việc đưa án, định quan 
có thẩm quyền thi hành thực tế  Hoạt động thi hành án mặt đảm bảo cho 
quyền lực tư pháp thực thi thực tế Mặt khác, công cụ hữu hiệu để khôi phục 


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
lại quyền lợi ích hợp pháp công dân bị xâm hại Hiệu hoạt động thi hành án có 
tác động trực tiếp đến lòng tin nhân dân pháp luật Tuy nhiên, điều kiện kinh 
tế ­ xã hội nước ta nay, án, định có hiệu lực quan có thẩm quyền tổ chức thi  
hành cách thuận lợi Do đó, biện pháp cưỡng chế  thi hành án dân sử  dụng 
Cưỡng chế thi hành án dân hoạt động thường xuyên thực công tác thi hành án  
dân Áp dụng án, định không tự  nguyện thi hành Hiệu hoạt động cưỡng chế 
thi hành án dân ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu công tác thi hành án Nhận thấy  
tầm quan trọng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, Nhà nước quan tâm 
xây dựng khung pháp lý cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế  xây dựng  
Luật thi hành án dân 2008 với quy định riêng chương IV, từ Điều 66 đến Điều 
121 quy định biện pháp cưỡng chế  Việc cưỡng chế  thi hành án cụ  thể  nghị 
định 58/2009/NĐ­CP ngày 13/7/2009 phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành  
số  điều luật thi hành án dân 2008 thủ  tục thi hành án dân Nghị  định 125/NĐ­
CP ngày 14/10/2013 sửa đổi bổ  sung số  điều nghị  định 58/2009/NNĐ­CP quy  
định  chi   tiết   hướng  dẫn  thi   hành  số   điều  luật  thi  hành  án  dân  Nghị   định 
166/NĐ­CP quy định cưỡng chế thi hành định xử phạt vi phạm hành Thông tư 
liên tịch số 03/2012/TTLT­BTP­BCA quy định cụ thể phối hợp bảo vệ cưỡng 
chế thi hành án dân Tuy nhiên, trình áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án 

dân sự, người có thẩm quyền thi hành án gặp không khó khăn, vướng mắc Số 
việc chưa thi hành chiếm tỷ lệ cao: năm 2010 chiếm 42,91%, năm 2011 chiếm  
39,93%, năm 2012 chiếm 38,51% năm 2013 chiếm 32,67%, năm 2014 chiếm 
31,85% Số  tiền thi hành án chưa thi hành lớn năm 2010 chiếm 72,96%, năm  
2011 chiếm 71,29%, năm 2012 chiếm 76,07%, năm 2013 chiếm 58,95%, năm 
2014 chiếm 59,02% Mặt khác, hoạt động cưỡng chế thi hành án tác động sâu 
rộng đến quan hệ xã hội người thi hành án, người phải thi hành án, người có 
quyền nghĩa vụ liên quan án Do đó, vấn đề cưỡng chế tài sản người phải thi  
hành án phải nghiên cứu kỹ  lưỡng để  đảm bảo tính nghiêm minh pháp luật, 
đồng thời bảo đảm quyền lợi hợp pháp đương. Trước tình hình đó, tác giả 
định lựa chọn đề  tài “Biện pháp cưỡng chế  thi hành án dân sự”  làm đề  tài 
tiểu luận tốt nghệp Đây vấn đề  cấp thiết có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc lĩnh 
vực thi hành án dân Việc nghiên cứu kỹ  biện pháp cưỡng chế  giúp đem lại 


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
quyền lợi ích thực tế  cho cá nhân, tổ  chức, góp xây dựng Nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh.
Trước thực trạng và yêu cầu trên, nhóm chúng em chọn đề tài  "Thủ tục  
phúc thẩm quyết định của Toà án" làm nội dung nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình xây dựng bài này, nguồn tài liệu về đề  tài này vẫn còn  
khá hạn chế. Chủ yếu vẫn là những thông tin từ Giáo trình Luật Tố tụng dân 
sự ­ Khoa Luật ­ ĐHQGHN và Giáo trình Luật Tố tụng dân sự ­ Đại học Luật 
Hà Nội. Hai Giáo trình này đã phân tích các quy định của Bộ Luật tố tụng dân  
sự  về  các biện pháp cưỡng chế  thi hành án dân sự. Nhưng vẫn thiếu sự  cụ 
thể. 
2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài

Trên sở  nghiên cứu quy định biện pháp cưỡng chế  thi hành án dân sự, 
tác giả mong muốn làm rõ sở lý luận bất cập thực tiễn áp dụng nước ta năm 
gần đây. Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu công tác thi hành án dân nói  
chung hoạt động cưỡng chế thi hành án dân nói riêng.
2.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Biện pháp cưỡng chế  thi hành án dân chế  định rộng bao gồm 
nhiều quy định biện pháp cưỡng chế cụ  thể. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu 
vấn đề này, nhiên đa phần tác giả nghiên cứu chuyên sâu biện pháp định. Do  
vậy, phạm vi đề  tài tác giả trình bày tổng quát quy định pháp luật thực trạng  
áp dụng tất biện pháp cưỡng chế thời gian từ năm 2012­2016 
2. Phương pháp nghiên cứu
Bai thao luân v
̀ ̉
̣ ận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và 
lý luận về nhận thức của triết học Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về 
Nhà nước và pháp luật; đường lối chính sách của Đảng về vấn đề cải cách tư 
pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Trên cơ sở đó,bai thao lu
̀ ̉
ận sử dụng 
các biện pháp nghiên cứu cụ  thể  như: Phương pháp phân tích, phương pháp 


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử,  
phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn để nghiên cứu vấn đề này.
3. Kết cấu
Kêt câu cua bai đ
́ ́ ̉

̀ ược chia thanh 3 ch
̀
ương:
CHƯƠNG   1:  TỔNG   QUAN   CHUNG   VỀ   BIỆN   PHÁP   CƯỠNG   CHẾ 
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
CHƯƠNG 2: CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DẤN SỰ
CHƯƠNG 3:  THỰC TẾ  ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ  KIẾN NGHỊ  NHẰM  
NÂNG CAO HIỆU QUẢ  HOẠT ĐỘNG CƯỠNG CHẾ  THI HÀNH ÁN  
DÂN SỰ


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
CHƯƠNG   1:   TỔNG   QUAN   CHUNG   VỀ   BIỆN   PHÁP 
CƯỚNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Khái niệm thi hành án dân sự
Vì thi hành án dân sự là một loại hình của thi hành án, nên cũng có thể 
hiểu “thi hành án dân sự là hoạt động hành chính ­tư pháp của Nhà nước, do  
cơ quan thi hành án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm  
bảo thi hành các bản án, quyết định về  dân sự  của Tòa án hoặc quyết định  
khác của cơ quan có thẩm quyền.”
Trong khái niệm này, vấn đề  cần tiếp tục làm rõ là phải hiểu như thế 
nào về "dân sự" trong thi hành án?
Theo ý kiến thứ nhất thì "dân sự" được hiểu theo nghĩa hẹp. Cơ sở để 
đưa raý kiến này xuất phát từ quy định của Điều 1 Bộ  luật dân sự  năm 1995 
cho rằng, quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản 
phát sinh trong giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự 
trong thi hành án bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và 
nhân thân phi tài sản (như bản án, quyết định về tranh chấp các loại hợp đồng 

dân sự, về  hôn nhân gia đình và một số  loại bản án, quyết định có tính chất 
dân sự).
Ý  kiến   thứ   hai   hiểu  "dân   sự"  theo   nghĩa  rộng.  Theo  pháp   luật  của 
nhiềunước trên thế giới, việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp 
luật về  nội dung là luật tư  (luật dân sự, luật kinh doanh, thương mại, lao 
động) được thực hiện theo một thủ tục chung qui định trọng bộ  luật tố tụng 
dân sự.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, theo pháp luật Việt  
Nam thì  "dân sự"  trong thi hành án cần được hiểu một cách cụ  thể. Đó là: 
Những bản án, quyết định về  dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế;  
bản án, quyết định dân sự  của Tòa án nước ngoài; quyết định của Trọng tài 
nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; 


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy 
thu tiền, tài sản, thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án 
về  hình sự; quyết định về  phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án  
về hành chính; quyết định tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài thương 
mại Việt Nam (Điều 1 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004).
Từ  những phân tích  ở  trên, có thể  đưa ra khái niệm thi hành án dân sự 
như sau: “ thihành án dân sự là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng do  
cơ  quan, tổ  chức, ngườicó thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ  tục do  
pháp luật quy định, nhằm mục tiêu đưabản án, quyết định về dân sự của Tòa  
án hoặc các quyết định khác theo quy định củapháp luật được thực hiện trên  
thực tế, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi íchhợp pháp của các cá  
nhân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”1.
2.


Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự
2.1.

Khái niệm về cưỡng chế thi hành án

 Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ 
quan thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc  
đương sự phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, 
quyết định của tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án 
có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do Chấp  
hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành 
án tẩu tán, hủy hoại tài sản.2 
2.2. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế 
Để  áp dụng được biện pháp cưỡng chế  thi hành án, cần phải hội đủ 
các điều kiện sau đây: Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài 
1 Ths. Trần Phương Thảo (2007) “các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí luật học số
07/2007 tr 43, 44

2 />

Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
sản hoặc phải thực hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết 
định của Trọng tài, quyết định xử lý vụ  việc cạnh tranh của Hội đồng xử  lý 
vụ  việc cạnh tranh; Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng 
không tự nguyện thi hành án. Cho thấy, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân 
sự  chỉ  được áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ  và hành vi phải  
thực hiện theo quyết định của cơ  quan có thẩm quyền, nhất là có thái độ  và 

hành vi không tự nguyện thi hành án khi người phải thi hành án có điều kiện  
thi hành án. Theo khoản 6, Điều 3 Luật THADS năm 2008, có điều kiện thi  
hành án là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành 
nghĩa vụ  về  tài sản; tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ 
thi hành án. 
2.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự 
Cưỡng chế  thi hành án dân sự  là một biện pháp nghiêm khắc nhất, do 
đó, Chấp hành viên trong quá trình tổ  chức thi hành án không được áp dụng  
một cách tùy tiện mà phải tuân thủ  những nguyên tắc nhất định. Các nguyên 
tắc đó là: 
­ Chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định, bao gồm: 
1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của 
người phải thi hành án. 
2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. 
3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang 
do người thứ ba giữ. 
4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án. 
5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. 
6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện 
công việc nhất định( Điều 71 Luật THADS năm 2008).
 ­ Chỉ  được áp dụng biện pháp cưỡng chế  sau khi đã hết thời hạn tự 
nguyện thi hành án trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có  


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ  thi hành án. Ngoài  
ra, cơ quan thi hành án dân sự không không tổ chức cưỡng chế thi hành án có  
huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các 

ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi 
hành án3. 
­ Việc tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải  
thi hành án và các chi phí cần thiết khác. Chấp hành viên phải ước tính giá trị 
tài sản để  làm cơ  sở  cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế  thi hành án. 
Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều 
so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc 
việc phân chia sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn  
có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án( điểm 2, khoản  
1, Điều 8 Nghị định 58/2009/NĐ­CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ). 
­ Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế  phải căn cứ  vào bản án, quyết 
định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về 
mặt chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo 
đức Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án có thuận lợi hay  
không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật 
tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy thuộc vào 
việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế của Chấp hành viên. 
2.4. Căn cứ cưỡng chế thi hành án 
Theo Điều 70 Luật THADS năm 2008, căn cứ tổ chức cưỡng chế gồm 
có: bản án quyết định, quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành 
án, trừ  trường hợp bản, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài 
khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm 
thời của Tòa án. Như vậy, trên cở sở pháp lý đã có, Chấp hành viên cần phải 
tuân thủ đúng và đầy đủ những quy định của pháp luật để áp dụng biện pháp  
3 Ths. Trần Phương Thảo (2007) “các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí luật học số
07/2007 tr 43, 44


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN


Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
cưỡng chế. Nhưng để có thể tổ chức được việc cưỡng chế, Chấp hành viên 
phải thực hiện những trình tự, thủ tục nào? 
3. Ý nghĩa của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Thi hành án là một quá trình gồm nhiều thủ  tục pháp lý liên quan chặt 
chẽ với nhau. Thủ tục ban đầu làm tiền đề cho các thủ tục tiếp theo. Thủ tục  
ban đầu chặt chẽ, thì thủ tục tiếp theo đảm bảo đúng quy định của pháp luật
Luật bồi thường nhà nước có hiệu lực vào ngày 01/01/2010 là một cơ 
sở  pháp lý quan trọng cho công dân yêu cầu cơ  quan thi hành án, người làm 
công tác thi hành án gây thiệt hại cho công dân, cơ  quan, tổ  chức( đương sự,  
người có quyền lợi liên quan) trong quá trình tác nghiệp phải bồi thường.  
Nhưng hiện nay, thu nhập của người làm công tác thi hành, nhất là Chấp hành 
viên thường phụ thuộc rất nhiều vào đồng lương căn bản, thì khả năng có thể 
bồi thường của Chấp hành viên là rất khó khăn, nếu xảy ra việc bồi thường  
thì chắc chắn, Chấp hành viên sẽ không còn lòng nhiệt huyết và tinh thần để 
gắn bó với ngành thi hành án dân sự nữa. Do vậy, để hạn chế đến mức thấp 
nhất việc phải bồi thường trong quá trình tác nghiệp, Chấp hành viên bắt 
buộc phải thực hiện việc bảo đảm chặt chẽ  về  mặt thủ  tục thi hành án nói  
chung và trong quá trình cưỡng chế thi hành án nói riêng.
Ngoài ra, cưỡng chế thi hành án dân sự  là một thủ  tục nhạy cảm,  ảnh 
hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người phải thi hành án. Do vậy, việc  
khiếu nại, tố cáo trước, trong và sau khi cưỡng chế thi hành án xảy ra là điều  
không thể  tránh khỏi. Nếu thủ tục ban đầu Chấp hành viên không thực hiện 
được một cách đầy đủ  và đúng pháp luật, thì khi có khiếu nại phát sinh, cơ 
quant hi hành án không có cơ sở bác khiếu nại của đương sự, người có quyền  
lợi, nghĩa vụ liên quan, buộc phải công nhận khiếu nại là đúng thì cả một quá 
trình thi hành án sẽ  bị ngưng trệ, thậm chí phải làm lại từ  đầu, gây tốn kém  
về thời gian và tiền bạc của Nhà nước. Nhất là cơ quan thi hành án sẽ không 
giải quyết được án tồn,  ảnh hưởng chung đến thành tích thi đua của đơn vị,  
của ngành thi hành án dân sự và làm tăng thêm ghánh nặng cho ngân sách nhà 

nước trong việc giải quyết lượng án tồn phát sinh.


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
4. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự của pháp luật 1 số nước
4.1. Indonesia
Luật Indonesia không quy định bất kỳ  cơ  quan thi hành án cụ  thể  hoặc 
riêng biệt nào. Việc thi hành các quyết định của Tòa án thuộc trách nhiệm của 
Tòa án trong các vụ  án dân sự. Indonesia có hai Bộ  luật Tố  tụng dân sự  ­  
Herziene   Indonesisch   Reglement   (HIR,   áp   dụng   ở   Java   và   Madura)   và 
Reglement   Buitengewesten   (RBg,   có   hiệu   lực   trong   phần   còn   lại   của  
Indonesia). Theo luật pháp Indonesia, sau khi ra bản án/quyết định, Tòa án sẽ 
thực hiện quá trình thi hành án. 
Trong các vụ án dân sự, chánh án Tòa án quận đã xét xử vụ án theo thủ 
tục 
sơ thẩm có trách nhiệm thi hành bản án. Do đó, một Tòa án quận cụ thể sẽ có 
rách nhiệm thi hành bất kỳ bản án phúc thẩm hay phá án của Tòa án tối cao  
(đối với phán quyết của mình). Bên thắng kiện trong một vụ  án có thể  đến  
Tòa án quận và đề nghị Tòa ra lệnh thi hành án. Thư ký Tòa án (panitera) hoặc  
chấp hành viên (juru sita) phải bảo đảm việc tuân thủ  đúng lệnh thi hành án  
của chánh án. Ở mỗi Tòa án cấp huyện đều có chấp hành viên là người chịu  
trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án/quyết định của Tòa. Khi cần thiết thì 
chấp hành viên có thể  tổ  chức cưỡng chế  (với sự hỗ  trợ của cảnh sát). Thi 
hành án dân sự từ trước đến nay  ở  Indonesia vẫn do Tòa án đảm nhiệm, tuy  
nhiên, trước đây Tòa án trực thuộc Bộ Tư pháp quản lý. Cải cách satu atap đã  
tước bỏ  một chức năng có lẽ  được xem là chức năng chủ  yếu của Bộ  Tư 
pháp Indonesia, đó là quản lý các Tòa án. Trước khi có cải cách satu atap, 
người ta biết đến Bộ này với cái tên Departmen Kehakiman, theo nghĩa đen là 

Bộ về các vấn đề  thuộc Tòa án, mặc dù tên này thường được dịch là Bộ  Tư 
pháp. 
Hiện   nay,   Bộ   đã   được   đổi   tên   thành   Bộ   Pháp   luật   và   Nhân   quyền 
(Kementerian Hukum dan Hak Asasi Manusia). Lưu ý rằng, không có quy trình 
chính thức nào đối với việc xã hội hóa việc thi hành các bản án. Mặc dù từ 


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
năm 2001, xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự với xu hướng thành lập tổ 
chức thi hành án tư  nhân đã được giới thiệu  ở  Indonesia ­ kinh nghiệm của  
Phần Lan và Hungary, tuy nhiên, đề xuất này chưa được chấp nhận.
4.2. Singapore
Việc tổ chức thi hành án dân sự ở  Singapore do Tòa án đảm nhiệm. Hệ 
thống tổ  chức Tòa án  ở  Singapore gồm Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới.  Ở 
Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới có bộ phận thi hành án.
Nhân viên thi hành án vừa có nhiệm vụ  thi hành án, vừa có nhiệm vụ 
tống đạt giấy tờ, thực hiện các lệnh bắt giữ. Nhân viên thi hành án của Tòa 
án nào thì thi hành bản án của Tòa án đó. Nhân viên thi hành án của Toà cấp 
dưới không có quyền bắt giữ  tàu biển và thi hành các bản án mà giá trị  lên 
đến 250.000 đô la Singapore; những bản án loại này do nhân viên thi hành án 
Toà tối cao thi hành. Nhân viên thi hành án phải thi hành đúng luật, công khai, 
không được tham nhũng. Trường hợp có hành vi tiêu cực sẽ bị xử lý theo pháp  
luật, bị chuyển làm việc khác.
Ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ một phần cho hoạt động thi hành án, chủ 
yếu là việc trả  lương cho chấp hành viên, thẩm phán thi hành án nếu đó là 
thiết chế thuộc bộ máy nhà nước. Các chi phí cưỡng chế thi hành án thì người 
phải thi hành án phải chịu, trường hợp tài sản của người phải thi hành án 
không đủ thì có thể do người được thi hành án chịu.

Về thủ tục thi hành án dân sự: 
Khi có bản án, người được thi hành đến gặp người phải thi hành để xem  
xét khả năng thi hành của họ và yêu cầu họ phải thi hành. Nếu người phải thi  
hành án không thi hành, người được thi hành án muốn được thi hành phải có 
đơn yêu cầu thi hành án (theo mẫu in sẵn) gửi Toà án. Bên cạnh đó, người 
được thi hành án hoặc luật sư  đại diện phải trực tiếp chỉ  cho nhân viên thi 
hành án những tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người được thi 
hành án, hoặc trong trường hợp thi hành các bản án về  trả  tiền thì chỉ  cho 
nhân viên thi hành án những tài sản của người phải thi hành án để  nhân viên 


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
thi hành án kiểm kê, dán niêm phong hoặc chuyển giao tài sản cho người khác  
giữ. 

CHƯƠNG 2: CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ  THI HÀNH ÁN DẤN  
SỰ
1...Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy 
tờ có giá của người phải thi hành án4
Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có 
giá của người phải THA là một trong các BPCC THA dân sự, được áp dụng  
trong trường hợp người phải THA phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo bản  
án, quyết định mà người phải THA có đang có tiền trong tài khoản hoặc đang  
sở hữu giấy tờ có giá. Nếu người phải THA phải thi hành nghĩa vụ trả tiền, 
mà họ đang giữ tiền, giấy tờ có giá hoặc gửi tại kho bạc, tổ chức tín dụng thì  
4 Ths. Trần Phương Thảo (2007) “các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí luật học số
07/2007 tr 43, 44



Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
BPCC này sẽ  là biện pháp đầu tiên được áp dụng . Biện pháp khấu trừ  tiền 
trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải THA được 
quy định tại các điều Điều 71, 76 và từ Điều 79 đến Điều 83 luật THA dân sự 
2008. Đối tượng của biện pháp này là tiền và giấy tờ  có giá. Tiền bị  cưỡng 
chế  có thể  là tiền trong tài khoản ngân hàng, tổ  chức tín dụng hoặc tiền mà  
chính họ  đang giữ, thu nhập từ  hoạt động kinh doanh hằng ngày và tiền do 
người thứ ba đang giữ. Nhìn chung những quy định này hầu như đã khắc phục  
được những hạn chế  của pháp lệnh THA dân sự  2004 về  vấn đề  khấu trừ,  
thu hồi xử lý tiền giấy tờ có giá của người phải THA. Tuy nhiên còn một số 
điểm mà pháp luật quy định chưa được phù hợp. Ví dụ: Nếu người phải THA 
có tài khoản tại ngân hàng nhưng nguồn lợi thu được từ việc gửi tài sản đó là 
nguồn sống duy nhất của họ  và gia đình, ngoài ra họ  không có tài sản nào 
khác mà người có thẩm quyền THA khấu trừ  hết nghĩa vụ  THA và chi phí 
cưỡng chế  thì người phải THA không đảm bảo được cuộc sống. Như  vậy, 
để phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta thì pháp luật THA dân sự 
phải quy định theo hướng người có thẩm quyền THA không được khấu trừ 
hết số tiền trong tài khoản của người THA để thực hiện nghĩa vụ mà nguồn 
lợi thu được từ  việc gửi tài sản đó là nguồn sống duy nhất của người phải 
THA và gia đình họ.
Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có 
giá của người phải THA được quy định tại các điều Điều 71, 76 và từ  Điều  
79 đến Điều 83 luật THA dân sự 2008. Đối tượng của biện pháp này là tiền  
và giấy tờ có giá. Tiền bị cưỡng chế có thể là tiền trong tài khoản ngân hàng, 
tổ chức tín dụng hoặc tiền mà chính họ đang giữ, thu nhập từ hoạt động kinh  
doanh hằng ngày và tiền do người thứ  ba đang giữ. Nhìn chung những quy 
định này hầu như đã khắc phục được những hạn chế của pháp lệnh THA dân  

sự 2004 về vấn đề khấu trừ, thu hồi xử lý tiền giấy tờ có giá của người phải 
THA. Tuy nhiên còn một số điểm mà pháp luật quy định chưa được phù hợp. 
Ví dụ: Nếu người phải THA có tài khoản tại ngân hàng nhưng nguồn lợi thu  
được từ việc gửi tài sản đó là nguồn sống duy nhất của họ và gia đình, ngoài 


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
ra họ không có tài sản nào khác mà người có thẩm quyền THA khấu trừ hết  
nghĩa vụ  THA và chi phí cưỡng chế  thì người phải THA không đảm bảo 
được cuộc sống. Như vậy, để phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc  
ta thì pháp luật THA dân sự phải quy định theo hướng người có thẩm quyền  
THA không được khấu trừ  hết số  tiền trong tài khoản của người THA để 
thực hiện nghĩa vụ  mà nguồn lợi thu được từ  việc gửi tài sản đó là nguồn 
sống duy nhất của người phải THA và gia đình họ.
2..............................................Trừ vào thu nhập người phải thi hành án
Biện pháp trừ vào thu nhập của người phải THA là một trong các BPCC THA 
dân sự được áp dụng trong trường hợp người phải THA phải thực hiện nghĩa 
vụ trả tiền theo bản án, quyết định. Người THA có thu nhập thực tế và không 
tự nguyện thi hành. 
Biện pháp trừ vào thu nhập được quy định tại Điều 78 luật THA dân sự 2008. 
Giống với đối tượng của biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, đối tượng 
của biện pháp này cũng là tiền. Nhưng thu nhập theo quy định của BPCC biện  
pháp trừ  vào thu nhập khác với thu nhập từ  hoạt động kinh doanh của biện 
pháp khấu khấu trừ  tiền trong tài khoản, thu hồi, xử  lý tiền, giấy tờ  có giá. 
Theo quy định của pháp luật, tiền bị  cưỡng chế  là thu nhập của người phải 
THA gồm: tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ  cấp mất sức lao  
động và thu nhập hợp pháp khác. Việc trừ vào thu nhập của người phải THA 
được thực hiện theo thỏa thuận của đương sự; Bản án, quyết định  ấn định 

trừ vào thu nhập của người phải THA; THA cấp dưỡng, THA theo định kỳ,  
khoản tiền phải  THA không lớn hoặc tài sản khác của người phải THA  
không đủ để THA. 
.....Mức trừ cao nhất được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền 
trợ  cấp mất sức lao động là 30% tổng số  tiền được nhận hàng tháng, trừ 
trường hợp đương sự  có thoả  thuận khác. Đối với thu nhập khác thì mức 
khấu trừ căn cứ vào thu nhập thực tế của người phải THA, nhưng phải đảm  
bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người đó và người được nuôi dưỡng  
theo quy định của pháp luật. 


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
.....Đối với lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính thì mức đối với tiền lương, bảo 
hiểm xã hội tỷ lệ khấu trừ mỗi lần không quá 30% tổng số  tiền lương, bảo 
hiểm xã hội được hưởng. Đối với những khoản thu nhập khác, tỷ lệ khấu trừ 
mỗi lần không quá 50% tổng số thu nhập. 
3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án
Biện pháp kê biên, xử  lý tài sản của người phải THA là một trong các  
BPCC THA dân sự, được áp dụng trong trường hợp người phải THA phải  
thực hiện nghĩa vụ  trả  tiền theo bản án, quyết định. Người THA chỉ  có tài 
sản và không tự nguyện THA. 
Biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người THA được quy định tại các 
Điều 74, Điều 75, Điều 84, từ  Điều 89 đến Điều 98 và Điều 111 luật THA  
dân sự 2008. Theo đó, đối tượng của biện pháp này là tài sản bao gồm: tài sản 
là vật, vốn gốp, nhà  ở, tài 12 sản gắn liền với đất, phương tiện giao thông,  
hoa lợi, quyền sở hữu trí tuệ và quyền sử dụng đất. 
3.1. Khái niệm
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam của nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí  

Minh năm 1998 thì kê biên là một từ Hán ­ Việt. “Kê” nghĩa là tính toán, còn 
“biên” có nghĩa là ghi chép lại theo một trật tự  nhất định. Vậy kê biên có 
nghĩa là tính toán và ghi chép lại theo một trật tự nhất định. Về  tài sản, hiện  
nay chúng ta chưa có một khái niệm khát quát về  tài sản mà chỉ  có một định 
nghĩa mang tính chất liệt kê: Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các 
quyền tài sản (Điều 163 BLDS 2005) Thuật ngữ kê biên tài sản đã được ghi 
nhận trong nhiều văn bản pháp luật của nước ta như pháp lệnh thủ  tục giải 
quyết các vụ  án dân sự  1989, pháp lệnh thi hành án dân sự  1993, 2004… do 
đó, có thể thấy rằng đây là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng nhiều trong 
pháp luật tố  tụng dân sự. Trong cuốn từ  điển các thuật ngữ  pháp lý thông  
dụng cũng của nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 có định nghĩa 


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
KBTS như sau: “Kê biên tài sản là việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu tán,  
phá hủy, để đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án”5. 
Như vậy, kê biên tài sản là một thuật ngữ pháp lý chỉ việc tính toán và 
ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ thể. Tài sản 
ở đây có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Từ  những năm 
1989 trở  về  trước, trong pháp luật tố  tụng dân sự  nước ta chưa có sự  phân 
biệt rõ ràng hai khái niệm kê biên tài sản và tịch biên tài sản. Song mỗi khái 
niệm về  một sự vật hiện tượng luôn gắn với một hoàn cảnh lịch sử  cụ  thể, 
trong quá trình phát triển các nhà lập pháp đã có sự phân biệt về hai khái niệm  
này. Kê biên chỉ là một hình thức ghi lại tài sản theo thứ tự và áp dụng đối với 
tài sản hợp pháp của một chủ thể, còn tịch biên thường được áp dụng đối với 
tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp. Cũng chính vì thế mà nó kéo theo hậu quả 
pháp lý khác nhau. Tài sản bị tịch biên thường bị sung công quỹ Nhà nước, tài 
sản kê biên sẽ  được xử  lý để  thực hiện nghĩa vụ  của người có tài sản bị  kê  

biên, có nghĩa là không bị sung công quỹ Nhà nước. Như vậy, tịch biên có thể 
gọi là tịch thu sung công quỹ Nhà nước những tài sản có nguồn gốc bất hợp 
pháp, nó có bản chất hoàn toàn khác với kê biên. 
Qua khái niệm KBTS ta thấy rằng trong đời sống hàng ngày có những 
khái niệm tương tự, gần giống với kê biên. Nhưng KBTS luôn gắn với một 
chủ  thể  nhất định, nhân danh cho quyền lực Nhà nước, vì thế  không phải ai  
cũng có quyền KBTS của người khác, không phải hành động nào tương tự 
cũng được gọi là kê biên. Trong quá trình tố  tụng dân sự  nhiều chủ  thể  có  
quyền áp dụng biện pháp KBTS nhưng việc áp dụng ấy có tính chất và mục 
đích hoàn toàn khác nhau, không phải lúc nào KBTS cũng được áp dung với 
tính chất là một biện pháp cưỡng chế để THA. Điều này chúng tôi sẽ  làm rõ 
ở phần tiếp theo.
5      />ch%E1%BA%BF­thi­h%C3%A0nh­%C3%A1n­d%C3%A2n­s%E1%BB%B1.pdf


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
3.2. Điều kiện áp dụng
­ Phải chịu áp dụng thi hành án dân sự
­ Có tài sản 
­ Không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự
3.3. Nguyên tắc áp dụng
­ Chỉ kê biên đúng những tài sản phải thi hành án
­ Kê biên động sản trước sau đó đến bất động sản
3.4. Trình tự, thủ tục áp dụng
Trình tự thủ tục áp dụng BPCC THA dân sự được áp dụng trong trường  
hợp người phải THA chây ì chống đối, trốn tránh nghĩa vụ  thi hành bản án,  
quyết định của cơ  quan có thẩm quyền. Tuy nhiên do  ảnh hưởng lớn đến 
quan hệ  xã hội người phải THA nên việc áp dụng BPCC THA dân sự  phải 

thực hiện theo một trình tự thủ tục chặt chẽ. Trước khi được áp dụng BPCC 
thì phải trải qua các thủ tục chung của công tác THA. 
Ra quyết định cưỡng chế Theo Điều 45 luật THA dân sự 2008 thì “hết  
thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án  
có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế”6  . 
Sau khi hết thời hạn tự  nguyện THA, người có thẩm quyền THA ra quyết  
định cưỡng chế  trừ  trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong 
toả  tài sản, tài khoản. Lập kế  hoạch cưỡng chế  Trước khi tiến hành cưỡng  
chếTHA dân sự, người có thẩm quyền THA phải lập kế  hoạch cưỡng chế,  
trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay. 
Kế  hoạch cưỡng  chế  bao gồm: BPCC  cần  áp dụng; Thời  gian,  địa 
điểm cưỡng chế; Phương án tiến hành cưỡng chế; Yêu cầu về  lực lượng  
6      />ch%E1%BA%BF­thi­h%C3%A0nh­%C3%A1n­d%C3%A2n­s%E1%BB%B1.pdf


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
tham gia và bảo vệ  cưỡng chế; Dự trù chi phí cưỡng chế. Kế  hoạch cưỡng 
chế  gửi cho Viện kiểm sát, cơ  quan Công an cùng cấp,  Ủy ban nhân dân 
(UBND) cấp xã nơi tổ  chức cưỡng chế  hoặc cơ  quan, tổ  chức có liên quan  
đến việc cưỡng chế THA. 
Trong trường hợp cần thiết, Thủ  trưởng cơ  quan THA dân sự  5 Điều 
19 NĐ 166/NĐ­CP quy định về  cưỡng chế  thi hành quyết định xử  phạt vi  
phạm hành chính 6 Thời hạn tự  nguyện THA là 15 ngày 9 cấp tỉnh và cấp 
huyện báo cáo Chủ tịch UBND cùng cấp ít nhất là 5 ngày làm việc trước khi  
tổ  chức cưỡng chế  thi hành các vụ  án lớn, phức tạp, có  ảnh hưởng về  an  
ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bàn. 
Tống đạt quyết định cưỡng chế  và các giấy tờ  khác có liên quan cho 
người phải THA, người được THA và những người có quyền lợi liên quan. 

Tiến hành cưỡng chế Tiến hành cưỡng chế tại nơi có tài sản hoặc đối  
tượng cần cưỡng chế. Trước khi thực hiện việc cưỡng chế theo kế hoạch và  
quyết định cưỡng chế  đã  ấn định, người có thẩm quyền THA chủ  trì phổ  
biến toàn bộ  kế  hoạch, phân công nhiệm vụ  cụ  thể  của từng đơn vị, từng  
người, nêu các tình huống có thể sảy ra và biện pháp xử lý các tình huống đó.  
Chuẩn bị  đầy đủ  các biên bản, văn bản cần sử  dụng trước khi tiến hành  
cưỡng chế. Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, điều kiện liên quan đã dự kiến  
phục vụ  tốt cho việc cưỡng chế. Người có thẩm quyền THA chủ  trì điều  
hành toàn bộ  quá trình cưỡng chế, kịp thời xử  lý mọi tình huống đã dự  kiến  
trong kế hoạch và tình huống phát sinh diễn ra trong quá trình cưỡng chế cho  
đến khi kết thúc việc cưỡng chế7.
Theo Điều 163 Bộ  luật dân sự  2005 quy định “tài sản bao gồm  
vật, tiền, giấy tờ  có giá và các quyền tài sản”.  Từ  đó có thể  thấy, hai đối 

7     />ch%E1%BA%BF­thi­h%C3%A0nh­%C3%A1n­d%C3%A2n­s%E1%BB%B1.pdf


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
tượng là tiền và giấy tờ có giá không được pháp luật THA quy định được kê 
biên, xử lý. 
Như vậy, có thể hiểu tài sản bị kê biên không bao gồm tiền, giấy tờ có 
giá. Những tài sản của người THA không được kê biên: Tài sản bị  cấm lưu  
thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ  quốc phòng, an ninh, lợi 
ích công cộng; tài sản do ngân sách Nhà nước cấp cho cơ  quan, tổ  chức. Số 
lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải THA và gia đình trong  
thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới; Số  thuốc cần dùng để  phòng,  
chữa bệnh của người phải THA và gia đình; Vật dụng cần thiết của người 
tàn  tật,   vật   dụng  dùng   để   chăm   sóc   người   ốm;   Đồ   dùng   thờ   cúng  thông 

thường theo tập quán  ở  địa phương; Công cụ  lao động cần thiết, có giá trị 
không lớn được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của  
người phải THA và gia đình; Đồ  dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải 
THA và gia đình. Khi tiến hành kê biên tài sản của người phải THA, người có  
thẩm quyền THA phải phân biệt tài sản thuộc sở  hữu chung hoặc đang có  
tranh chấp hay không. 
­ Trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung. 
Tại Điều 74 luật THA dân sự  2008 quy định trước khi cưỡng chế  đối 
với tài sản thuộc sở  hữu chung của người phải THA với người khác, kể  cả 
quyền sử  dụng đất, người có thẩm quyền THA phải thông báo cho chủ  sở 
hữu chung biết việc cưỡng chế để  họ thực hiện quyền khởi kiện tại Tòa án 
để xác định phần sở hữu của mình. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận 
được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được THA 
hoặc người có thẩm quyền THA có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở 
hữu của người phải THA trong khối tài sản chung để bảo đảm THA. Đối với  
tài sản thuộc quyền sở  hữu chung của vợ, chồng thì người có thẩm quyền 
THA xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn 
nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. 
Trường hợp vợ  hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu 
cầu Toà án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể  từ  ngày phần  


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
sở  hữu được người có thẩm quyền THA xác định. Hết thời hạn trên, đương 
sự không khởi kiện thì người có thẩm quyền THA tiến hành xử lý tài sản và 
thanh toán lại cho vợ  hoặc chồng của người phải THA giá trị  phần tài sản  
thuộc quyền sở hữu của họ.
 ­ Trường hợp xử lý tài sản đang có tranh chấp8. 

Người có thẩm quyền THA tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự,  
người có tranh chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề  nghị  cơ  quan có thẩm  
quyền giải quyết. Người có thẩm quyền THA xử  lý tài sản đã kê biên theo 
quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ 
ngày người có thẩm quyền THA yêu cầu mà đương sự, người có tranh chấp  
không khởi kiện tại Toà án hoặc đề  nghị  cơ quan có thẩm quyền giải quyết  
thì tài sản được xử lý để THA theo quy định của luật này. Sau khi đã xác định  
được, phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau: Đối với tài  
sản chung có thể  chia được thì người có thẩm quyền THA áp dụng BPCC 
phần tài sản tương  ứng với phần sở  hữu của người phải THA; Đối với tài 
sản chung không thể  chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể 
giá trị  của tài sản thì người có thẩm quyền THA có thể  áp dụng BPCC đối  
với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần  
tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án
4.1. Khái niệm
Khai thác tài sản của người phải thi hành án là biện pháp cưỡng chế 
thi 
hành án đối với tài sản của người phải thi hành án có thể  khai thác được để 
thi 
hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định. 
8 />

Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
4.2. Điều kiện áp dụng
1. Chấp hành viên cưỡng chế  khai thác tài sản của người phải thi 
hành án trong các trường hợp sau đây:
a) Tài sản của người phải thi hành án có giá trị quá lớn so với nghĩa 

vụ phải thi hành và tài sản đó có thể khai thác để thi hành án;
b) Người được thi hành án đồng ý cưỡng chế khai thác tài sản để thi  
hành án nếu việc khai thác tài sản không  ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp 
pháp của người thứ ba.
2. Chấp hành viên phải ra quyết định cưỡng chế  khai thác tài sản.  
Quyết định ghi rõ hình thức khai thác; số tiền, thời hạn, thời điểm, địa điểm, 
phương thức nộp tiền cho cơ quan thi hành án dân sự để thi hành án.
Quyết định cưỡng chế  khai thác tài sản phải được gửi ngay cho cơ 
quan có thẩm quyền quản lý, đăng ký đối với tài sản đó và Uỷ  ban nhân dân  
cấp xã nơi có tài sản.
Việc thực hiện giao dịch, chuyển giao quyền sở hữu tài sản đối với  
tài sản đang khai thác phải được sự đồng ý của Chấp hành viên.
4.3. Nguyên tắc áp dụng
Chỉ  được áp dụng biện pháp cưỡng chế  sau khi đã hết thời hạn tự 
nguyện thi hành án trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có  
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ  thi hành án. Ngoài  
ra, cơ quan thi hành án dân sự không không tổ chức cưỡng chế thi hành án có  
huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các 
ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi 
hành án. 
* Việc tổ chức cưỡng chế phải tương  ứng với nghĩa vụ  của người 
phải thi hành án và các chi phí cần thiết khác. Chấp hành viên phải  ước tính 
giá trị  tài sản để  làm cơ  sở  cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế  thi hành 
án. Trường hợp người phải thi hành án chỉ  có một tài sản duy nhất lớn hơn 


Bài tập nhóm 11_Khoa Luật_ ĐHQGHN

Giảng Viên: Nguyễn Vinh Hưng
nhiều so với nghĩa vụ  phải thi hành án mà tài sản đó không thể  phân chia 

được hoặc việc phân chia sẽ  làm giảm đáng kể  giá trị  của tài sản thì Chấp 
hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế  thi hành  
án( điểm 2, khoản 1, Điều 8 Nghị  định 58/2009/NĐ­CP ngày 13/7/2009 của 
Chính phủ). 
* Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết  
định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về 
mặt chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo 
đức Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án có thuận lợi hay  
không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật 
tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy thuộc vào 
việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế của Chấp hành viên. 
4.4. Trình tự, thủ tục áp dụng9
Được quy định tại Điều 108 – LTHADS. Theo đó, tài sản của người  
phải thi hành án bị cưỡng chế khai thác để thi hành án theo các hình thức sau  
đây:
­

Tài sản mà người phải thi hành án đang trực tiếp khai thác hoặc cho 

người khác khai thác thì người đang khai thác được tiếp tục khai thác. Trường  
hợp tài sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất mà chưa khai thác thì Chấp hành  
viên yêu cầu người phải thi hành án ký hợp đồng khai thác tài sản với tổ 
chức, cá nhân có nhu cầu khai thác tài sản
­

Người khai thác tài sản quy định tại khoản 1 Điều này phải nộp số tiền  

thu được từ việc khai thác tài sản cho cơ quan thi hành án dân sự, sau khi trừ 
các chi phí cần thiết.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày yêu cầu mà người phải thi hành án 

không ký hợp đồng khai thác với người khác thì Chấp hành viên kê biên, xử lý  
tài sản đó để thi hành án.
9 Ths. Trần Phương Thảo (2007) “các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí luật học số
07/2007 tr 43, 44


×