Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thực trạng dạy và học môn tiếng Anh chuyên ngành Kinh tế tại trường Đại học Sài Gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 5 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 244-248

THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Trần Ngọc Mai - Nguyễn Hoàng Mỹ Thanh - Huỳnh Ngọc Trang
Trường Đại học Sài Gòn
Ngày nhận bài: 10/03/2019; ngày sửa chữa: 02/04/2019; ngày duyệt đăng: 10/04/2019.
Abstract: The purpose of this article is to analyze the status of teaching and learning of English
for specific purposes at Saigon University. The research sample is a group of 14 lecturers who have
been teaching this subject and 180 students participating in this program. The non-parametric
statistics methods is employed as a data analysis tool. Results of study indicate some limitations of
the program, including the content of the syllabus, curriculum, professional qualifications of
teachers, teaching methods, qualifications of students and number of students in class.
Keywords: Specialized English, status of teaching and learning, non-parametric statistical methods.
1. Mở đầu
Hiện nay, dân số thế giới xấp xỉ 7,5 tỉ người, trong đó
có khoảng 1,5 tỉ người nói tiếng Anh (chiếm khoảng 20%
tổng dân số toàn cầu) [1] và hầu hết những người này
không nói tiếng Anh như tiếng bản ngữ. Ngoài việc được
sử dụng rộng rãi, tiếng Anh là ngôn ngữ nước ngoài được
nghiên cứu nhiều nhất trên thế giới.
Xét trên phương diện chính sách ngôn ngữ, không có
quốc gia nào trên thế giới đặt nặng vai trò của năng lực
ngoại ngữ (tiếng Anh) trong đào tạo và sử dụng nhân lực
như ở Việt Nam [2]. Trong chương trình đào tạo đại học,
cao đẳng, tiếng Anh là một môn học bắt buộc cho hầu
hết các ngành đào tạo và là một trong những điều kiện
không thể thiếu để được công nhận tốt nghiệp.
Kể từ năm học 2012-2013, quy định của Bộ GD-ĐT


yêu cầu áp dụng chuẩn đầu ra về tiếng Anh cho sinh viên
(SV) đại học các khối không chuyên ngữ [3]. Điều này
đang góp phần thúc đẩy việc dạy và học ngoại ngữ ở các
trường đại học, cao đẳng trở nên đáng quan tâm và cấp
thiết hơn. Phần lớn SV nhận thức được tầm quan trọng
đó và đã có những thay đổi thích ứng trong việc học
ngoại ngữ với kì vọng sau khi ra trường nắm bắt được
nhiều cơ hội. Tuy vậy, nhìn chung kết quả học tiếng Anh
của SV khối không chuyên ngữ chưa đạt kết quả như
mong muốn, thực trạng SV học tiếng Anh nhưng không
sử dụng được, đặc biệt là tiếng Anh chuyên ngành chưa
đáp ứng kì vọng nhà tuyển dụng. Nguyên nhân vì sao
như vậy là câu hỏi được những nhà giáo dục quan tâm
nghiên cứu và luận giải.
Bài viết xem xét thực trạng dạy và học tiếng Anh
chuyên ngành của khối ngành Kinh tế tại Trường Đại học
Sài Gòn (khối không chuyên ngữ) bằng phương pháp
định lượng. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở để đề xuất một
số biện pháp cải thiện tình trạng này trong thời gian tới.
2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Khái quát chung về vấn đề dạy và học tiếng Anh
chuyên ngành
Theo Hutchinson, T. and A. Water, tiếng Anh chuyên
ngành (English for specific purposes - ESP) là thuật ngữ
dùng để chỉ tiếng Anh được dùng trong chuyên môn làm
việc hoặc để phục vụ công việc ở từng chuyên ngành
khác nhau [4]. Robinson cho rằng tiếng Anh chuyên
ngành là các khoá học tiếng Anh thường hướng tới mục
tiêu cuối cùng và dựa trên cơ sở khảo sát, phân tích nhu

cầu nhằm xác định cụ thể học viên phải làm gì và làm
được gì thông qua phương tiện tiếng Anh [5]. Trong khi
đó, Richards và Schmidt cho rằng tiếng Anh chuyên
ngành là tiếng Anh được sử dụng để làm phương tiện
truyền đạt thông tin và được giới hạn trong mỗi lĩnh vực
nhất định, tiếng Anh chuyên ngành chứa đựng những từ
vựng, ngữ pháp và đặc trưng ngôn ngữ khác với tiếng
Anh thông thường [6]. Hiện nay, căn cứ trên mục đích
của khóa học thì tiếng Anh chuyên ngành được phân loại
một cách tương đối như hình 1:

Theo Basturkmen, tiếng Anh cho mục đích học thuật là
được sử dụng trong các ấn phẩm học thuật như các tạp
chí y học, pháp lí, khoa học công nghệ, kinh tế tài chính...
Tiếng Anh cho mục đích nghề nghiệp được sử dụng bởi
những người có chuyên môn cao như bác sĩ, luật sư và
những người có chuyên môn nhưng ít chuyên nghiệp hơn
như khối công nhân kĩ thuật, kĩ thuật viên,... [8].

244


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 244-248

Cho đến nay, tiếng Anh chuyên ngành đã được triển học Sài Gòn. Để đánh giá thực trạng dạy và học tiếng
khai tại Việt Nam khá lâu, tuy nhiên thực tế vẫn còn tồn Anh chuyên ngành Kinh tế tại Trường Đại học Sài Gòn,
tại những vấn đề hạn chế nhất định đến từ cả hai phía nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định lượng, phân
người học lẫn người dạy dẫn đến kết quả đào tạo tiếng Anh tích dựa trên phương pháp thống kê suy diễn; các kết luận

chuyên ngành vẫn chưa đạt được kì vọng. Theo Lâm được rút ra dựa trên kết quả kiểm định theo các phương
Quang Đông thì hầu hết những đề cương chương trình và pháp thống kê phi tham số.
giáo trình tiếng Anh chuyên ngành được xây dựng dựa 2.2.2. Kết quả phân tích
trên kinh nghiệm mà không được tiến hành phân tích nhu
- Nội dung chương trình đào tạo (bảng 1):
cầu thật thấu đáo, cẩn thận, kể cả nhu cầu của học viên lẫn
Chương trình tiếng Anh chuyên ngành được thiết kế
đòi hỏi trong thực tế công việc của chuyên ngành định
với thời lượng 3 tín chỉ (45 tiết), nội dung chương trình
giảng dạy. Nguyên nhân của thực trạng này được cho là
do kinh phí biên soạn đề cương giáo trình còn hạn hẹp chủ yếu dựa vào những giáo trình sẵn có mà chưa thực
chưa phân bổ hợp lí hoặc chưa có những chính sách hiện biên soạn dựa trên kết quả khảo sát nhu cầu của
khuyến khích phù hợp trong quá trình biên soạn. Một số người học hoặc đánh giá của các chuyên gia trong ngành,
chuyên ngành có nhiều khái niệm, thuật ngữ đặc thù, mà nhu cầu của người sử dụng lao động của ngành đó. Vì
muốn giảng dạy được tiếng Anh chuyên ngành, giáo viên vậy, nội dung của chương trình còn nhiều bất cập so với
tiếng Anh cũng phải có kiến thức nhất định về những khái mục tiêu đề ra. Để đánh giá sự phù hợp của nội dung
niệm, thuật ngữ đó. Tuy nhiên, giảng viên (GV) tiếng Anh chương trình tiếng Anh chuyên ngành Kinh tế so với mục
chuyên ngành hiện nay phần lớn không có chuyên môn tiêu đào tạo, nghiên cứu sử dụng thang đo thứ bậc gồm 4
sâu về ngành đang dạy, họ chưa được đào tạo bài bản về mức độ (1: Không phù hợp, 2: Tương đối phù hợp,
kiến thức chuyên ngành mà chủ yếu là tự học dẫn đến rất 3: Phù hợp, 4: Rất phù hợp).
Bảng 1. Kiểm định sự phù hợp của nội dung chương trình so với mục tiêu
Mức độ
Tần số
%
Phần trăm tích lũy (%)
2. Tương đối phù hợp
11
78,6
78,6
Trung vị: 2

3. Phù hợp
3
21,4
100,0
Total
14
100,0
Wilcoxon Signed Ranks Test: Z=-2,138; Asymp. Sig.=.033
Nguồn: Kết quả xử lí dữ liệu từ SPSS 25
nhiều những khái niệm, định nghĩa chuyên ngành không
Kết quả bảng 1 cho thấy, giá trị trung vị (median) bằng
được phân tích, giải thích đầy đủ, thấu đáo [9].
2, trong số 14 ý kiến được khảo sát thì nội dung chương
Mặt khác, phương pháp giảng được áp dụng chủ yếu trình so với mục tiêu được đánh giá tương đối phù hợp
là đọc và dịch nhằm giải thích cấu trúc ngữ pháp và tăng chiếm tỉ lệ cao (78,6%), kế tiếp là phù hợp chiếm 21,4%
vốn từ vựng, các phương pháp khác nhằm tăng kĩ năng và các mức độ khác không được lựa chọn. Mặt khác, kiểm
giao tiếp hầu hết chưa được áp dụng phổ biến [10]; trình định Wilconxon có ý nghĩa thống kê mức 5% (Sig.=0,033)
độ học viên học tiếng Anh chuyên ngành không đồng đều điều đó khẳng định rằng nội dung chương trình so với mục
cũng là vấn đề cản trở rất lớn đến cả người học và người tiêu có giá trị nhỏ hơn trung vị, nghĩa là nội dung chương
dạy. Bên cạnh đó, sĩ số lớp bố trí chưa hợp lí, phương pháp trình đào tạo chưa thật sự phù hợp với mục tiêu đào tạo.
thi cử, đánh giá cũng là một trong những thực trạng đang
- Nội dung giáo trình (xem bảng 2 trang bên):
tồn tại làm cho việc đào tạo tiếng Anh chuyên ngành còn
nhiều bất cập, chưa đáp ứng mục tiêu đào tạo.
Hiện nay, giáo trình phục vụ giảng dạy tiếng Anh
chuyên
ngành Kinh tế được sử dụng nguyên bản từ nhà
2.2. Phân tích thực trạng dạy và học tiếng Anh chuyên
xuất
bản

nước ngoài, dẫn đến có những nội dung bài học
ngành Kinh tế tại Trường Đại học Sài Gòn
chưa thật sự phù hợp với bối cảnh đào tạo tại Việt Nam
2.2.1. Phương pháp phân tích
làm cho người học khó tiếp thu và người dạy khó tiếp
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập dựa vào bảng câu
hỏi được thiết kế sẵn. Bảng câu hỏi được chia làm 2 phần: cận. Để đánh giá nội dung giáo trình giảng dạy tiếng Anh
phần thứ nhất với mục đích thu thập những thông tin về chuyên ngành Kinh tế có thật sự phù hợp với mục tiêu
nhân khẩu học của người tham gia trả lời phỏng vấn, đào tạo hay không, nghiên cứu sử dụng thang đo thứ bậc
phần thứ hai xây dựng các biến đo lường thực trạng dạy gồm 4 mức độ (1: Không phù hợp, 2: Tương đối phù hợp,
và học tiếng Anh chuyên ngành Kinh tế tại Trường Đại 3: Phù hợp, 4: Rất phù hợp).

245


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 244-248

Bảng 2. Kiểm định sự phù hợp của nội dung giáo trình so với mục tiêu
Mức độ
Tần số
%
Phần trăm tích lũy (%)
1. Không phù hợp
1
7,10
7,10
2. Tương đối phù hợp
10

71,4
78,5
Trung vị: 2
3. Phù hợp
3
21,5
100,0
Total
14
100,0
Wilcoxon Signed Ranks Test: Z=-2,668; Asymp. Sig.=.008
Nguồn: Kết quả xử lí dữ liệu từ SPSS 25
Kết quả bảng 2 cho thấy, giá trị trung vị (median) bằng giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành Kinh tế hiện nay chủ
2, trong số 14 ý kiến được khảo sát thì nội dung giáo trình yếu bằng phương pháp ngữ pháp.
so với mục tiêu được đánh giá tương đối phù hợp chiếm tỉ
- Kiến thức chuyên ngành của GV (xem bảng 4 trang bên):
lệ cao (71,4%), kế tiếp là phù hợp chiếm 21,5%, không
Phần lớn GV giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành
phù hợp là 7,1% và các mức độ khác không được lựa chọn. Kinh tế được đào tạo bài bản và có chuyên môn sâu về
Mặt khác, kiểm định Wilconxon có ý nghĩa thống kê mức ngôn ngữ học nhưng với những kiến thức về chuyên
5% (Sig.=0,008) điều đó khẳng định rằng nội dung giáo ngành Kinh tế thì họ vẫn còn có những hạn chế nhất định,
trình so với mục tiêu có giá trị nhỏ hơn trung vị, nghĩa là dẫn đến việc diễn giải các khái niệm, định nghĩa, các
nội dung giáo trình đào tạo tiếng Anh chuyên ngành Kinh thuật ngữ chưa thật sự thấu đáo, mang tính đa chiều. Kết
tế chưa thật sự đáp ứng với mục tiêu.
quả khảo sát cho thấy lượng kiến thức đáp ứng một phần
- Phương pháp giảng dạy (bảng 3):
cho giảng dạy chuyên ngành chiếm tỉ lệ cao (85,7%) và
Mặc dù nội dung của đề cương thiết kế với kì vọng chỉ 2 ý kiến cho rằng hoàn toàn đáp ứng (14,5%).
đảm bảo hoàn thiện bốn kĩ năng cho người học gồm nghe,
Kết quả kiểm định Wilcoxon có ý nghĩa thống kê mức

nói, đọc và viết, nhưng trong thực tế phương pháp giảng 10% (Sig.=.084) và trung vị mẫu nhỏ hơn trung vị tổng
dạy chưa đáp ứng mục tiêu này. Phần lớn GV dạy tiếng thể, chứng tỏ rằng kiến thức chuyên ngành của GV chỉ đáp
Anh chuyên ngành Kinh tế thường sử dụng phương pháp ứng một phần khi giảng tiếng Anh chuyên ngành Kinh tế.
đọc và dịch (Grammar Translation Method) mà chưa phối
- Trình độ SV (xem bảng 5 trang bên):
kết hợp hiệu quả những phương pháp khác, dẫn đến kết
Mặc dù trước khi tham gia lớp tiếng Anh chuyên
quả giảng dạy chưa đáp ứng kì vọng của người học. Nhằm ngành Kinh tế, SV đã được thi xếp lớp theo trình độ,
đánh giá sự tin cậy của phương pháp giảng dạy, nghiên nhưng vẫn còn tồn tại thực trạng trình độ SV mỗi lớp
cứu này sử dụng thang đo định danh gồm 1: Phương pháp không đồng đều, dẫn đến khó khăn cho GV khi thiết kế
ngữ pháp, 2: Phương pháp nghe nói, 3: Phương pháp giao bài giảng. Trình độ SV hạn chế dẫn đến rất khó để tiếp thu
tiếp, 4: Phương pháp tổng hợp [11].
các từ vựng cũng như các thuật ngữ chuyên ngành kinh tế.
Kết quả thống kê trong bảng 3 cho thấy phương pháp
Kết quả khảo sát 180 SV (bảng 5) cho thấy SV xếp
ngữ pháp thường xuyên được sử dụng trong giảng dạy loại khá chiếm tỉ lệ cao (71,11%), loại trung bình chiếm
tiếng Anh chuyên ngành Kinh tế (chiếm 57,1%), phương 19,44%, loại trung bình yếu 5%, loại giỏi chiếm 3,89%,
pháp nghe nói chiếm 35,7% và chỉ có 7,2% GV sử dụng đặc biệt xếp loại kém là 1%.
phương pháp giao tiếp, đặc biệt là phương pháp tổng hợp
Mặt khác, kết quả phân tích phương sai một yếu tố
không được sử dụng trong giảng dạy. Mặt khác kiểm (bảng 6) cho thấy thống kê F có ý nghĩa thống kê mức
định phi tham số Wilcoxon có ý nghĩa thống kê mức 5% 5% (Sig.=0,000). Điều đó khẳng định rằng trình độ của
(Sig.=.002), một lần nữa khẳng định rằng phương pháp SV có sự khác biệt (có ý nghĩa).
Bảng 3. Kiểm định các phương pháp giảng dạy so với mục tiêu
Mức độ
Tần số
%
Phần trăm tích lũy (%)
1. Phương pháp ngữ pháp
8

57,1
57,1
2. Phương pháp nghe nói
5
35,7
92,8
Trung vị: 1
3. Phương pháp giao tiếp
1
7,2
100,0
Total
14
100,0
Wilcoxon Signed Ranks Test: Z=-3,090; Asymp. Sig.=.002
Nguồn: Kết quả xử lí dữ liệu từ SPSS 25

246


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 244-248

Bảng 4. Kiểm định mức độ đáp ứng kiến thức chuyên ngành của GV
Mức độ
Tần số
%
Phần trăm tích lũy (%)
2. Đáp ứng một phần

12
85,7
85,7
Trung vị: 2
4. Hoàn toàn đáp ứng
2
14,3
100,0
Total
14
100,0
Wilcoxon Signed Ranks Test: Z=-1.728; Asymp. Sig.=.084
Nguồn: Kết quả xử lí dữ liệu từ SPSS 25
Bảng 5. Phân loại điểm trung bình
Điểm số
Tần số
TB
ĐLC
%
GTNN
GTLN
<4: Kém
1
2,00
.000
0,56
2
2
4-5.4: TB yếu
9

5,00
.000
5,00
5
5
5.5-6.9: TB
35
6,00
.000
19,44
6
6
7-8.4: Khá
128
7,38
.486
71,11
7
8
8.5-10: Giỏi
7
9,00
.000
3,89
9
9
Tổng
180
7,02
.980

100
2
9
Nguồn: Kết quả xử lí dữ liệu từ SPSS 25, xếp loại theo quy chế đào tạo của Trường Đại học Sài Gòn
Biến động
Giữa các nhóm
Trong các nhóm
Tổng

Bảng 6. Kết quả phân tích phương sai (ANOVA)
Tổng bình phương
Bậc tự do
Bình phương TB
141,911
4
35.478
30,000
175
.171
171,911
179
Nguồn: Kết quả xử lí dữ liệu từ SPSS 25

- Số lượng SV trong mỗi lớp học (bảng 7):
Hiện nay, thực trạng sĩ số trong các lớp tiếng Anh
chuyên ngành Kinh tế tương đối đông là một thách thức
lớn trong việc dạy và học, điều này gây cản trở đáng kể
cho GV, họ không thể chủ động để ứng dụng các phương
pháp nhằm đáp ứng mục tiêu đề ra của môn học. Để đánh
giá sự phù hợp của sĩ số lớp, nghiên cứu sử dụng thang

đo thứ bậc gồm 4 mức độ (1: Không phù hợp, 2: Tương
đối phù hợp, 3: Phù hợp, 4: Rất phù hợp).
Kết quả bảng 7 cho thấy, trong số 14 ý kiến được khảo
sát có 9 ý kiến cho rằng sĩ số lớp bố trí không phù hợp
chiếm tỉ lệ cao (64,3%), thấp nhất có 1 ý kiến cho rằng bố
trí sĩ số lớp là rất phù hợp chiếm 7,1%. Mặt khác, kiểm
định Wilconxon có ý nghĩa thống kê mức 5% (Sig.=0.013)
điều đó khẳng định rằng sự phù hợp của việc bố trí sĩ số

F
206.954

Sig.
.000

lớp có giá trị đánh giá nhỏ hơn trung vị, nghĩa là sĩ số lớp
hiện nay chưa thật sự phù hợp với mục tiêu đào tạo.
3. Kết luận
Kết quả nghiên cứu bằng phương pháp thống kê suy
diễn đã cho thấy thực trạng dạy và học tiếng Anh chuyên
ngành Kinh tế tại Trường Đại học Sài Gòn vẫn còn tồn
tại những hạn chế nhất định, làm ảnh hưởng đến mục tiêu
đào tạo. Nhằm nâng cao hiệu quả việc dạy và học môn
tiếng Anh chuyên ngành, nghiên cứu đề xuất một số biện
pháp nhằm cải thiện các thực trạng hiện nay như sau:
- Đối với công tác dạy học: nội dung chương trình
đào tạo cần được thiết kế dựa trên kết quả khảo sát các
chuyên gia và người học trong từng ngành. Nội dung
giáo trình cần được biên soạn phù hợp với bối cảnh giảng
dạy, phù hợp với mục tiêu chung. Mặt khác, bằng các

chính sách hỗ trợ cụ thể, nhà trường cần tạo điều kiện tốt

Bảng 7. Kiểm định sự phù hợp của việc bố trí sĩ số lớp học
Mức độ
Tần số
%
Phần trăm tích lũy (%)
1. Không phù hợp
9
64,3
64,3
2. Tương đối phù hợp
2
14,3
78,6
Trung vị: 1
3. Phù hợp
2
14,3
92,9
4. Rất phù hợp
1
7,1
100,0
Total
14
100,0
Wilcoxon Signed Ranks Test: Z=-2,495; Asymp. Sig.=.013
Nguồn: Kết quả xử lí dữ liệu từ SPSS 25


247


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 244-248

nhất cho GV nâng cao trình độ và kiến thức chuyên
ngành để đáp ứng nhu cầu giảng dạy một cách hiệu quả.
- Đối với việc học: nhà trường cần phải thực hiện điều
kiện tiên quyết một cách nghiêm ngặt để sàng lọc trình
độ SV trước khi tham gia lớp học tiếng Anh chuyên
ngành. Nghĩa là SV bắt buộc phải hoàn thành các học
phần tiếng Anh tổng quát khi đó mới có đủ nền tảng kiến
thức để tham gia vào lớp tiếng Anh chuyên ngành. Bên
cạnh đó, nhà trường cần sắp xếp sĩ số lớp một cách hợp
lí, khoa học và trang bị tốt các phương tiện hỗ trợ giúp
GV phát huy tối đa hiệu quả phương pháp giảng dạy,
giúp người học tiếp thu tốt nhất nội dung bài giảng.
Tài liệu tham khảo
[1] M.Samanth Reddy (2016). Importance of English
language in today’s world. International Journal of
Academic Research, Vol. 3, Issue-4(2), pp. 179-184.
[2] Vũ Thị Phương Anh - Nguyễn Bích Hạnh (2005).
Năng lực tiếng anh của sinh viên các trường đại học
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trước yêu cầu
của một nền kinh tế tri thức: thực trạng và những
giải pháp. Báo cáo hội thảo khoa học, Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh.
[3] Bộ GD-ĐT (2012). Công văn số 7274 /BGDĐTGDĐH về việc Hướng dẫn thực hiện kế hoạch triển

khai Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020 trong các cơ
sở giáo dục đại học.
[4] Hutchinson, T - Waters, A. (1987). English for
specific purposes, A learningcentred approach.
Cambridge: Cambridge Universiti Press.
[5] Robinson, P (1991). ESP today: A practitioner’s
guide. Hemel Hemstead: Prentice Hall.
[6] Richards, Jack C. - Richard W. Schmidt (2010).
Longman Dictionary of Language Teaching and
Applied Linguistics, fourth edition. London:
Longman (Pearson Education).
[7] Huhta M. (2010). Language and communication for
professional purposes. Needs analysis methods in
industry and business and their yield to stakeholders.
Yliopistopaino, Espoo.
[8] Basturkmen, Helen (2010). Developing Courses for
English for Specifc Purposes. New York: PelgraveMacmillan.
[9] Lâm Quang Đông (2011). Tiếng Anh chuyên ngành
- Một số vấn đề về nội dung giảng dạy. Tạp chí Ngôn
ngữ và đời sống, số 11(193), tr 27-32.
[10] Nguyễn Hoàng Tuấn (2007). Một vài suy nghĩ về việc
dạy tiếng Anh chuyên ngành ở bậc đại học. Giảng dạy
tiếng Anh bậc đại học ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp.
NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr 19-31.

[11] Harmer, J. (2015). The Practice of English
Language Teaching Fifth Edition. Pearson
Education Limited.
[12] Nguyễn Quyết (2018). Ứng dụng mô hình hồi quy
logit thứ bậc phân tích kết quả học môn Tiếng Anh

của sinh viên trường đại học ngoài công lập tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Giáo dục, số 444,
tr 48-54.
[13] Julie Pallant (2007). SPSS-Survival Manual. Open
University Press.
NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH HIỆN HÀNH...
(Tiếp theo trang 180)
Trong khuôn khổ một bài viết, chúng tôi mới chỉ trình
bày tóm lượt về quan niệm chương trình, phân tích nội
dung chương trình môn Toán, nội dung CTGD môn
Toán theo chương trình mới ở Việt Nam và nội dung
chương trình môn Toán ở một số nước trên thế giới. Hi
vọng từ đó có thể giúp cho các nhà quản lí, nghiên cứu
giáo dục có những định hướng trong các nghiên cứu tiếp
theo khi xây dựng nội dung chương trình sách giáo khoa
mới nhằm phát triển năng lực cho người học, phát huy
được khả năng, sở trường của từng em trong quá trình
dạy học môn Toán ở trung học phổ thông.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ
thông - Chương trình tổng thế.
[2] Nguyễn Thị Lan Phương (chủ biên, 2016). Chương
trình tiếp cận năng lực và đánh giá năng lực người
học. NXB Giáo dục Việt Nam.
[3] Nguyễn Hữu Châu (2005). Những vấn đề cơ bản về
chương trình và quá trình dạy học. NXB Giáo dục.
[4] Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt (1987). Giáo dục học
(tập 1). NXB Giáo dục
[5] Trần Công Phong - Nguyễn Thị Hồng Vân (2016).
Xu thế phát triển Chương trình giáo dục phổ thông

trên thế giới. NXB Giáo dục Việt Nam.
[6] Ministry of Education (2008). The Alberta
Curriculum Grades 10-12.
[7] Ministry of Education Singapore (2013). O - & N(A) Level Mathematics Teaching and Learning Syllabus.
[8] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ
thông môn Toán.
[9] Bộ GD-ĐT (2006). Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến
thức, kĩ năng môn Toán lớp 10, 11, 12.

248



×