Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những motif hiện sinh trong truyện và tiểu thuyết của F.Dostoevsky

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.81 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------

NGUYỄN THỊ THU GIANG

NHỮNG MOTIF HIỆN SINH TRONG TRUYỆN VÀ
TIỂU THUYẾT CỦA F.DOSTOEVSKY
(BÚT KÝ DƯỚI HẦM, TỘI ÁC VÀ TRỪNG PHẠT)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học nƣớc ngoài
Mã số: 60220145

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Gia Lâm

Hà Nội - 2016


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài ......................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

..................................................................................... 7

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 11
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 12
5. Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 12

CHƢƠNG 1: F.DOSTOEVSKY VÀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH ............. 13


1.1. Triết học hiện sinh và chủ nghĩa hiện sinh trong văn học ............................................ 13
1.2. F.Dostoevsky - nhà tư tưởng hiện sinh ................................................................... 19

CHƢƠNG 2: XUNG ĐỘT GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI .............. Error!
Bookmark not defined.
2.1. Hành trình đi tìm cái "Tôi" đích thực. ................... Error!

Bookmark not defined.

2.2. Tội ác - hậu quả phá vỡ liên hệ cá nhân và xã hội ..... Error!

Bookmark not defined.

CHƢƠNG 3: ỨNG XỬ VỚI TỰ DO .......... Error! Bookmark not defined.
3.1. Sự xa lạ: những nguyên nhân và hậu quả ................ Error!

Bookmark not defined.

3.2. Con người sám hối để hướng đến tự do tuyệt đối ...... Error!

Bookmark not defined.

KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..... Error! Bookmark not defined.

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


1. F. M: Fyodor Mikhailovich

2


MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài
1.1. Lý do lựa chọn đề tài
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học chủ yếu trong trào lưu
chủ nghĩa nhân bản phi duy lý. Triết học hiện sinh đặt lên vị trí hàng đầu tính
đặc thù độc đáo của tồn tại con người. Giá trị bản thân nó mang lại về đạo đức
nhân sinh, về sự tôn vinh nhân bản và vì lợi ích chính đáng cho con người rất
lớn lao. Chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành một trào lưu triết học lớn của
Phương Tây hiện đại, phát triển và phổ biến rộng rãi đặc biệt vào những năm
50 – 60 của thế kỷ XX. Trào lưu triết học này không chỉ có ảnh hưởng đến
nhiều khuynh hướng triết học, văn học – nghệ thuật hiện đại mà còn thâm
nhập sâu rộng vào đời sống xã hội. Bởi thế có rất nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình triết học, nhân học, văn học… đi vào tìm hiểu, dịch thuật, nghiên cứu
chuyên sâu vấn đề này. Chúng tôi cho rằng: việc tiếp tục tìm hiểu sâu rộng về
sự giao thoa ảnh hưởng của triết học hiện sinh và văn học là một điều có ý
nghĩa và mang tính nhân văn sâu sắc.
Trong bài viết Những vấn đề cơ bản của tư tưởng Nga thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX do PGS. TS Đào Tuấn Ảnh dịch từ cuốn Tư tưởng Nga của
N.Berdyaev có đoạn: “ Bí mật của cá tính chỉ có thể nhận biết được bằng tình
yêu, ở đó có cái gì đó không thể nào hiểu hết được, hiểu đến tận cùng được.
Tôi quan tâm không hẳn vấn đề nước Nga đã từng như thế nào xét một cách
thực chứng, mà là vấn đề Đấng sáng tạo đã nghĩ gì về nước Nga, hình bóng
của nước Nga có thể nhận biết và hiểu được bằng trí tuệ, tư tưởng của nó. Nhà
thơ Nga Chutchev đã từng nói: “Nước Nga không thể hiểu được bằng đầu óc,
không thể đo được bằng thước đo thông thường, nước Nga có bản sắc đặc

biệt, với nước Nga chỉ có thể tin tưởng”. Để hiểu được nước Nga cần phải có
đức tin thần thánh, hi vọng và tình yêu” [30, tr. 1]. Tìm hiểu về chủ nghĩa

3


hiện sinh trong hai tác phẩm tiêu biểu của một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa
xuất sắc của Nga để thêm hiểu dân tộc Nga và để tìm thấy những điểm chung
trong đời sống nội tâm của con người dù ở đâu. Đó là lí do thứ hai thôi thúc
hướng khai thác trong luận văn của chúng tôi.
Bên cạnh đó, đề tài của chúng tôi muốn hướng đến những ý nghĩa sau:
1.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Thứ nhất. Ở Việt Nam, những năm bốn mươi của thế kỷ XX đã bắt đầu
xuất hiện những tác phẩm văn học chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh
đang rất phổ biến trên thế giới lúc bấy giờ. Xuất hiện gây sự chú ý và ít nhiều
mang dáng dấp hiện sinh là tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn. Lên ngôi ở
miền Nam Việt Nam vào những năm sáu mươi - bảy mươi của thế kỉ XX, “e
dè” xuất hiện trở lại văn đàn vào cuối thế kỉ XX và “nở rộ” những năm đầu
thế kỉ XXI; khuynh hướng hiện sinh xuất hiện và tồn tại như một dòng chảy
liền mạch trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Quá trình đổi mới, mở cửa
cùng sự giao lưu, hội nhập quốc tế khiến văn học Việt Nam, trong đó có tiểu
thuyết, bắt buộc phải chuyển động để hòa mình vào “trò chơi chung” của văn
học thế giới. Trong bối cảnh mới, triết – mĩ hiện sinh có điều kiện xâm nhập
vào văn học Việt Nam, góp phần làm đa dạng các sắc thái thẩm mĩ văn học,
khẳng định những phong cách riêng. Và vì thế, việc chúng ta – những độc giả
Việt Nam chủ động nghiên cứu, đánh giá đúng những giá trị cũng như mặt
hạn chế của triết học phương Tây nói chung và chủ nghĩa hiện sinh nói riêng
là hết sức cần thiết trong bối cảnh thế giới đương đại. Việc tìm tòi khám phá
này là cách mở rộng vốn văn hóa cũng như có thêm công cụ đánh giá về văn
học nước mình trong dòng chảy chung của văn hóa nhân loại.

Thứ hai. Với một di sản văn học phong phú, trải rộng trên nhiều lĩnh
vực, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky xứng đáng là một đại diện xuất sắc của
nền văn học Nga. Cùng với Lev Tolstoy, F.Dostoevsky không chỉ được xem là

4


một trong hai nhà văn vĩ đại thế kỷ XIX của nước Nga mà còn của cả nền văn
học thế giới. Các tác phẩm của ông như Bút ký dưới hầm, Tội ác và trừng phạt hay
Anh em nhà Karamazov

đã khai thác tâm lí con người trong bối cảnh chính trị, xã

hội và tinh thần của xã hội Nga thế kỷ XIX. Ông được giới phê bình đánh giá
rất cao, phần lớn xem ông là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ
nghĩa hiện sinh thế kỷ XX. Chẳng hạn, Walter Kaufman xem Bút ký dưới hầm là "tác
phẩm về chủ nghĩa hiện sinh tuyệt vời nhất từng được viết". N. Berdiaep thì
nhận định: “ Tác phẩm của F.Dostoevsky mang lại một đóng góp đáng kể vào
ngành nhân chủng triết lý1, vào triết học về lịch sử, triết học tôn giáo… Giá trị
của F.Dostoevsky vĩ đại đến nỗi dân tộc Nga chỉ cần gọi tên ông là đủ biện
minh về sự hiện hữu của mình trên thế giới” [20, tr.171]. Tuy nhiên ở Liên Xô,
sau Cách mạng tháng Mười, người ta hầu như phủ nhận toàn bộ các sáng tác của
F.Dostoevsky. Từ 1972, tác phẩm của ông mới được nhìn nhận lại và đánh giá
đúng mức ở quê hương mình. Với những đóng góp trong các tác phẩm của
mình, F.Dostoevsky đã, đang và sẽ ngày càng thu hút được sự chú ý, tìm hiểu
không chỉ của giới nghiên cứu, phê bình văn học, triết học, nhân học… mà
còn của nhiều tầng lớp độc giả. Đồng thời, nổi bật lên như là một dấu hiệu
dễ nhận thấy về F.Dostoevsky, đó chính là các tác phẩm luôn hướng về đề
tài con người. Con người hấp dẫn ngòi bút của nhà văn đến mức, ở thể loại
nào, nhà văn cũng có những bút pháp khai thác tâm lý hữu hiệu, độc thoại

nội tâm dày đặc. Ở bài viết của mình, F.Dostoevsky đã từng tự nói: “nghiên
cứu về cuộc sống của con người đó là mục đích cao nhất và là niềm vui của
tôi” [19, tr. 65]. Với những gì đã biết về cuộc đời, sự nghiệp và mảng đề tài
con người trong sáng tác của F.Dostoevsky thì chúng tôi tin rằng đó vẫn là
1

Đúng ra phải viết/dịch là “nhân học triết học”/philosophical anthropology Nhân học triết học đôi khi được
gọi là triết học nhân học, là một bộ môn xem xét các câu hỏi của siêu hình học và hiện tượng học về cá nhân
con người và các mối quan hệ liên nhân. Ngoài nhân học triết học ra còn có nhân học văn hóa/cultural
anthropology, nhân học sinh học /biological anthropology, nhân học xã hội/social anthropology,…. Đã có
một luận án bàn về vấn đề này: Peter M. Wolf (1997), F. Dostoevsquyền's Conception of Man: Its Impact on
Philosophical Anthropology, Dissertation.Com.; 1 edition (December 1, 1997).

5


“miền đất hứa” thôi thúc suy ngẫm và khám phá của người đọc qua nhiều
thế hệ. Với độc giả là người Việt Nam ta, tìm hiểu F.Dostoevsky để có cái
nhìn soi chiếu với sáng tác của những tác giả văn học nước mình như đại thi
hào Nguyễn Du của thế kỷ XVIII, nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao của
thế kỷ XX và nhiều nhà văn trẻ đương đại. Điều đó thật thiết thực. Văn học
trong guồng quay bất tận của cuộc đời, dù ở đâu ,trên mảnh đất nào, thời xưa
hay nay… đều có một mẫu số chung là mãi mai “thổn thức” hai chữ “Con
người”.
Thứ ba. Các nhà nghiên cứu phê bình trên thế giới đã có rất nhiều công
trình khoa học tìm hiểu về F.Dostoevsky và các tác phẩm của ông, về các tư
tưởng trong sáng tác của F.Dostoevsky. Song cho đến nay, không phải mọi
vấn đề về tư tưởng hiện sinh trong các tác phẩm của F.Dostoevsky đều đã
được giải quyết. Nghiên cứu về tác phẩm của F.Dostoevsky trong mối tương
quan với triết học hiện sinh sẽ cho ta cái nhìn toàn diện về con người và sự

nghiệp của tác gia này. F.Dostoevsky không chỉ là nhà văn mà còn là nhà triết
học tôn giáo. Ông có vai trò to lớn trong nền văn hóa thế giới. Việc nghiên
cứu tư tưởng triết học của ông có ý nghĩa tích cực không chỉ đối với hiện tại
mà cả với tương lai, bởi ông đã dự đoán nhiều khuynh hướng thay đổi sâu sắc
của con người trong thế kỉ XX và cả thế kỉ XXI. Ngay từ thế kỉ XIX, nhà văn
đã có những phản ánh hết sức sâu sắc sự khủng hoảng hiện sinh của con
người, dự báo quá trình cá nhân con người mất ý thức về sự hiện hữu của
mình, quá trình cá nhân tha hóa, ghẻ lạnh với chính cái "Tôi" bản thân. Sáng
tác của F.Dostoevsky thấm đẫm những vấn đề sâu xa và chưa được giải quyết
của tồn tại, còn được gọi là những vấn đề hiện sinh. Giới "F.Dostoevsky học"
đã đặt ông vào hàng ngũ những người đi tiên phong của triết học hiện sinh.
Các triết gia hiện sinh Nga N.Berdyaev và L.Shestov luôn coi F.Dostoevsky
là "người cha tư tưởng" của mình. Bất chấp mọi sự ngăn cách về thời gian,
hơn một thế kỷ, khác với các nhà văn mà tác phẩm của họ chỉ có ý nghĩa như
6


những chứng nhân của nền văn minh dĩ vãng, F.Dostoevsky vẫn luôn là người
đồng hành vĩ đại bền lâu của chúng ta.
Thứ tư. Những sáng tác văn xuôi nghệ thuật như truyện, tiểu thuyết và
chính luận của F.Dostoevsky không chỉ được coi là “một pho biên niên sử của
thế kỷ” mà những vấn đề triết học trong các tác phẩm của ông còn trở thành
nền tảng cho chủ nghĩa hiện sinh sau này. Tư tưởng hiện sinh đó ảnh hưởng
sâu sắc đến sáng tác của các nhà văn, triết gia trên thế giới. Và việc tìm hiểu
motif hiện sinh trong truyện và tiểu thuyết của F.Dostoevsky bằng cách
tường giải nội dung và cắt nghĩa cội nguồn các mối liên hệ sẽ làm nổi bật
được tư tưởng triết học hiện sinh của ông. Bút ký dưới hầm được coi là tác
phẩm mở đầu, đặt nền móng cho tiểu thuyết hiện sinh của F.Dostoevsky, cũng
có nhiều ý nghĩa cho thấy sự trăn trở và những tìm tòi buổi đầu của nhà văn.
Truyện sáng tác năm 1864, một năm sau, tác giả viết Tội ác và trừng phạt.

Nhiều người cho rằng, Bút ký dưới hầm là điểm xuất phát cho Tội ác và trừng
phạt và những cuốn tiểu thuyết lẫy lừng sau này. Đây là hai tác phẩm đánh
dấu mốc trong sự nghiệp sáng tác của Fyodor Mikhailovich Dostoevsky và
được xếp vào hàng những sự kiện có ý nghĩa mốc son trong quá trình phát
triển của tư tưởng hiện sinh F.Dostoevsky.
Vì những lí do và ý nghĩa trên, chúng tôi chọn vấn đề Những motif hiện
sinh trong truyện và tiểu thuyết của F.Dostoevsky (Bút ký dưới hầm, Tội ác và
trừng phạt) làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
F.Dostoevsky từng được giới nghiên cứu nhận định là người tiên phong
của chủ nghĩa hiện sinh châu Âu, có ảnh hưởng to lớn đến các đại diện tiêu
biểu của chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo và chủ nghĩa hiện sinh vô thần. Tình
hình tiếp nhận và nghiên cứu sáng tác của nhà văn khá phong phú, thế nhưng
nghiên cứu mối quan hệ giữa F.Dostoevsky và chủ nghĩa hiện sinh vẫn chưa

7


được khai thác thấu đáo, chưa nói đến ở Việt Nam, đây còn là “vệt trắng” cần
“lấp đầy”. Xin điểm lại những công trình nghiên cứu về F.Dostoevsky và tư
tưởng hiện sinh của F.Dostoevsky:
2.1. Tình hình nghiên cứu về F.Dostoevsky và tư tưởng hiện sinh của
F.Dostoevsky trên thế giới.
Chủ nghĩa hiện sinh đã nổi lên như là một phong trào trong văn
học

và triết học thế kỷ XX, chịu ảnh hưởng của một số nhà triết học thế kỷ XIX

mà nổi bật nhất là Soren


Kierkegaard

và Friedrich

Nietzsche.

Nghiên cứu về chủ

nghĩa hiện sinh, trước tiên chúng ta không thể không nhắc đến cuốn Những
vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội).
Cuốn sách này tập hợp rất nhiều phần nghiên cứu của các tác giả khác nhau
về tư tưởng đạo đức của các tên tuổi lớn trong chủ nghĩa hiện sinh, những
vấn đề về con người, xây dựng chủ nghĩa nhân văn… Bên cạnh đó có một số
bài viết như: "Chủ nghĩa hiện sinh trong thế kỷ XX" của tác giả Lê Kim Châu
hoặc tác giả Đỗ Minh Hợp với những phần "Tư tưởng đạo đức học của
Nietzsche, Tư tưởng đạo đức học của Heidegger". Các tác giả đã khái quát và
tổng kết cơ bản các vấn đề triết học của chủ nghĩa hiện sinh. Những công
trình đó đã đi sâu vào vấn đề triết học có thể làm nền tảng cho những nghiên
cứu về văn học hiện sinh.
Vấn đề F.Dostoevsky như là người tiên phong của chủ nghĩa hiện sinh
châu Âu, có ảnh hưởng to lớn đến các đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện
sinh tôn giáo và chủ nghĩa hiện sinh vô thần đã được đề cập đến trong nhiều
công trình của các nhà nghiên cứu văn học và triết học ở Nga, Pháp, Đức.
Trong số các tác giả triển khai nghiên cứu vấn đề này, đáng chú ý có T.
E. Nikolaev với luận án "F. M. Dostoevsky như là bậc tiên khu của chủ nghĩa
hiện sinh châu Âu". Trong đó, tác giả đã đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về tác

8



động di sản sáng tạo của F.Dostoevsky đối với những đại diện chủ yếu của
trào lưu triết học này.
Ngoài công trình này, còn có thể đề cập đến một vài nghiên cứu viết về
chủ nghĩa hiện sinh vô thần của Pháp như: V.Erofeev (2003), Đi tìm con
người trong con người hoặc về chủ nghĩa hiện sinh của Mỹ như:
A.N.Latynina (1972), F.Dostoevsky và chủ nghĩa hiện sinh, F.Dostoevsky người nghệ sĩ và nhà tư tưởng. Vấn đề F.Dostoevsky và chủ nghĩa hiện sinh
cũng được đề cập đến ở những mức độ khác nhau trong các nghiên cứu văn
học và triết học của V.Kirpotin, Yu.Karyakin, A.S.Dolinin, G.Fridlender,
N.A.Berdyaev... Bên cạnh các học giả Nga, các nhà "F.Dostoevsky học" của
Tây Âu và Mỹ cũng dành sự quan tâm cho vấn đề này, với các công trình,
chẳng hạn: W. Kaufmann (1957), Existentialism from F.Dostoevsky to Sartre;
T.F. Sajkovic (1962), F. M Dostoevsky: his Image of Man; W.Barrett (1964),
What is existentialism? ; P.Wolf (1997), F.Dostoevsky's Conception of Man:
Its Impact on Philosophical Anthropology …
2.2. Tình hình nghiên cứu về F.Dostoevsky và tư tưởng hiện sinh của
F.Dostoevsky tại Việt Nam
Ở Việt Nam, tên tuổi F.Dostoevsky được độc giả không chỉ tiếp cận
bằng việc đọc tác phẩm mà còn được biết đến qua những chuyên luận nghiên
cứu về thi pháp trong các tác phẩm của ông. Những bài viết về vai trò và tầm
ảnh hưởng sâu rộng của F.Dostoevsky đối với nước Nga và phương Tây đã
được dịch ra tiếng Việt và phổ biến rộng rãi trên các tạp chí chuyên ngành,
các công trình nghiên cứu có giá trị lớn, những đề tài cấp cao...
Việc nghiên cứu về F.Dostoevsky ở Việt Nam, không thể không kể đến
Phạm Vĩnh Cư với công trình F.Dostoevsky – Sự nghiệp và di sản. Từ việc
dựa vào phân tích tiểu sử, cuộc đời tác giả để phân tích một số tác phẩm điển
hình như Tội ác và trừng phạt, Anh em nhà Karamazov…, ông đã cho người

9



đọc thấy được cái nhìn tổng quát về văn nghiệp và tư tưởng triết học của
F.Dostoevsky. Vì vậy, công trình nghiên cứu của ông có giá trị cao và trở
thành tư liệu hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu về tư tưởng của
F.Dostoevsky.
Trần Đình Sử, một nhà lý luận hàng đầu của văn học Việt Nam hiện
nay cũng có công trình Bakhtin và thi pháp F.Dostoevsky. Ông đã đi sâu vào
việc phân tích các tác phẩm của F.Dostoevsky từ góc nhìn thi pháp giúp
người đọc ý thức được giới hạn của một kiểu tư duy thẩm mỹ để thấy rõ trong
tiểu thuyết của F.Dostoevsky xuất hiện các giới hạn khác của nhận thức nghệ
thuật. Đó là các yếu tố về nhân vật với lối độc thoại điển hình, vấn đề người
trần thuật… từ đó, tác giả của bài viết đã khẳng định tiểu thuyết của
F.Dostoevsky là một “tiểu thuyết đa thanh”.
Giáo sư Đặng Anh Đào trong cuốn Văn học phương Tây cũng đã đề
cập đến F.Dostoevsky với những vấn đề cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp, tư
tưởng nghệ thuật.
Bên cạnh đó, trong cuốn Việt Nam và phương Tây tiếp nhận và giao
thoa trong văn học, giáo sư Đặng Anh Đào còn đề cập rõ nét hơn những nét
đặc sắc trong nghệ thuật như các vấn đề về nhân vật, cốt truyện, độc thoại nội
tâm và dòng tâm tư, cùng yếu tố thời gian thể hiện trong tiểu thuyết của
F.Dostoevsky.
Gần đây, trong cuốn sách Văn học Nga hải ngoại: Quá trình – Đặc
điểm – Tiếp nhận ( 2015) của PGS. TS Phạm Gia Lâm có một số trang viết về
tư tưởng tự do và sáng tạo trong văn học Nga là gợi ý cho chúng tôi tìm hiểu
về chủ nghĩa hiện sinh trong tác phẩm của nhà văn F.Dostoevsky.
Luận văn thạc sĩ Tư tưởng đạo đức hiện sinh của F. M. F.Dostoevsky
trong tác phẩm “Tội ác và trừng phạt” (2014) của tác giả Dư Thị Tươi – Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã khai thác về chủ nghĩa hiện sinh của

10



F.Dostoevsky nhưng nhấn mạnh ở phạm trù tư tưởng đạo đức cũng thêm một
góc nhìn hữu ích cho chúng tôi.
Rõ ràng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có đề cập đến tư tưởng
của F.Dostoevsky nhưng vấn đề mối quan hệ giữa F.Dostoevsky và chủ nghĩa
hiện sinh vẫn chưa được khai thác thấu đáo. Đặc biệt, chưa có công trình nào
đi sâu khai thác motif hiện sinh trong tác phẩm của Fyodor Mikhailovich
Dostoevsky. Do vậy, chúng tôi hy vọng rằng luận văn với việc khai thác các
motif hiện sinh: Cá nhân – Xã hội, Tự do, Lựa chọn trong truyện Bút ký dưới
hầm và tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt sẽ khẳng định được ảnh hưởng của
F.Dostoevsky đối với triết học hiện sinh tôn giáo; xác định giải pháp nghệ
thuật của F.Dostoevsky cho những vấn đề hiện sinh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi sâu vào tìm hiểu và nghiên cứu
những motif hiện sinh trong truyện và tiểu thuyết của F.Dostoevsky.
- Phạm vi nghiên cứu: trên cơ sở xác định khái niệm chủ nghĩa hiện
sinh, vị trí của F.Dostoevsky trong triết học hiện sinh chủ nghĩa, luận văn
khảo sát những đặc điểm và phương thức thể hiện các motif hiện sinh thông
qua quan hệ giữa cá nhân - xã hội và sự lựa chọn của cá nhân. Tất cả đều liên
quan đến một số phạm trù của triết học hiện sinh hữu thần mà F.Dostoevsky
là người khai mở: hiện tồn/hiện hữu, xa lạ, tội ác, sám hối, niềm tin, tự do…
- Giới hạn phạm vi tư liệu khảo sát: Bút ký dưới hầm được coi là tác
phẩm mở đầu, đặt nền móng cho tiểu thuyết hiện sinh của F.Dostoevsky, cũng
có nhiều ý nghĩa cho thấy sự trăn trở và những tìm tòi buổi đầu của nhà văn.
Truyện sáng tác năm 1864, một năm sau, tác giả viết Tội ác và trừng phạt. Vì
thế Bút ký dưới hầm là điểm xuất phát cho Tội ác và trừng phạt cùng những
cuốn tiểu thuyết lẫy lừng sau này. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chọn
khảo sát hai tác phẩm này – hai tác phẩm quan trọng đánh dấu mốc trong sự

11



nghiệp văn học của F.Dostoevsky, là mốc son trong quá trình phát triển của tư
tưởng F.Dostoevsky.
- Hướng tìm hiểu của chúng tôi ở hai tác phẩm là xâu chuỗi những
motif về Cá nhân – Xã hội, Tự do, Lựa chọn để thấy được hành trình đi tìm
cái "Tôi" của các nhân vật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi sử dụng tích hợp các phương pháp khác nhau
để nghiên cứu.
Muốn tìm hiểu motif, cần áp dụng cách tiếp cận hệ thống. Tìm hiểu
motif hiện sinh trong tác phẩm của F.Dostoevsky đòi hỏi xác lập mối quan hệ
tư tưởng – thẩm mỹ giữa hai vấn đề, điều đó đòi hỏi cách tiếp cận xã hội –
lịch sử.
Vì thế phương pháp nghiên cứu chúng tôi sử dụng ở đề tài là: Thi pháp
học có kết hợp so sánh lịch sử.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn bao gồm các chương:
Chương 1: F.Dostoevsky và triết học hiện sinh
Chương 2: Xung đột giữa cá nhân và xã hội
Chương 3: Ứng xử với Tự do.

12


CHƢƠNG 1: F.DOSTOEVSKY VÀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH

1.1. Triết học hiện sinh và chủ nghĩa hiện sinh trong văn học
Thuật ngữ “Chủ nghĩa hiện sinh” (tiếng Anh: Existentialism) có gốc latin

ex(s)ítentia nghĩa là Tồn tại hay còn gọi là "triết học sinh tồn”, là một trong những
trào lưu triết học lớn vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trào lưu này cho rằng
tư duy triết học xuất phát từ chủ thể con người, không chỉ là chủ thể tư duy mà là
cá thể sống, cảm xúc và hành động. Trong triết học hiện sinh, xuất phát điểm của
con người được đặc tả bởi cái từng được gọi là “thái độ hiện sinh” hay là một tình
trạng nhất định hướng vào bối cảnh khi đứng trước một thế giới có vẻ như vô
nghĩa và phi lý. Nhiều nhà hiện sinh cũng coi triết học hàn lâm hoặc triết học
truyền thống ở phong cách cũng như nội dung là quá trừu tượng và tách biệt khỏi
trải nghiệm cụ thể của con người. Vì thế, họ đưa tính đặc thù độc đáo của tồn tại
con người lên vị trí hàng đầu. Tính độc đáo này không thể nhận thức bằng khái
niệm và cũng không thể diễn đạt qua ngôn ngữ.
Chủ nghĩa hiện sinh bắt nguồn từ học thuyết của S. Kierkegaard và trở
thành một trào lưu tư tưởng phổ biến ở Đức vào những năm 20 của thế kỷ XX. Khi
đó nước Đức thua trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất và bị tàn phá nghiêm
trọng. Triết học hiện sinh của Martin Heidegger phản ánh tâm trạng bi quan của xã
hội Đức trước sự tàn phá đó. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, trung tâm của chủ
nghĩa hiện sinh từ Đức chuyển sang Pháp. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, mâu
thuẫn trong chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển gay gắt. Các cuộc khủng hoảng
nhiên liệu, khủng hoảng sinh thái cùng với đạo đức xã hội suy thoái đã làm tăng sự
khủng hoảng về tâm hồn của con người trong xã hội các nước tư bản chủ nghĩa,
khiến cho tư tưởng hiện sinh lan tràn trên nước Mỹ và sang nhiều nước phương

13


Tây khác. Phương thức sản xuất chạy theo lợi nhuận tối đa đã đẩy con người vào
tình trạng tha hoá cùng cực, lấy đi của họ cái vị trí làm người đích thực. Những tệ
nạn xã hội cùng với sự tàn phá khủng khiếp từ hai cuộc thế chiến do chủ nghĩa đế
quốc gây ra đã đẩy con người vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc trong đời sống
tinh thần. Nhiều luận điểm của chủ nghĩa hiện sinh cùng với phong trào hiện sinh

ra đời thể hiện sự nổi loạn trong lòng xã hội tư bản nhằm lên án xã hội, chống lại
xã hội, kêu gọi con người phải tự cứu lấy mình. Nhưng con người chưa xác định
được họ cần dựa vào cái gì để cứu mình và cứu xã hội. Nguyên nhân nữa là con
người phản ứng trước việc các nước phương Tây tuyệt đối hoá vai trò của khoa
học, sùng bái kỹ thuật đã hạ thấp, bỏ rơi con người hoặc chỉ quan tâm đến mặt vật
chất mà xem nhẹ mặt tâm hồn, đời sống tình cảm của họ. Triết học duy lý đã từng
có vai trò tích cực nhất định trong việc làm cho các nước phương Tây đạt được
những thành tựu vượt bậc trong chinh phục tự nhiên bằng khoa học, công nghệ
hiện đại. Nhưng mặt trái của nó là bắt con người phải gánh chịu những hậu quả
nặng nề về xã hội, về môi trường sinh thái. Một xã hội phương Tây giàu có về vật
chất lại nghèo nàn về văn hoá, tinh thần; tăng trưởng nhanh về kinh tế lại suy thoái
nhanh về văn hóa, đạo đức. Các nhà triết học hiện sinh hoàn toàn có lý khi họ kịch
liệt phê phán sự tuyệt đối hoá vai trò của lý trí, của khoa học khi họ vạch rõ sự
thiếu hụt tinh thần nhân đạo trong chính nền tảng của văn minh phương Tây. Họ
chỉ thừa nhận vai trò của cảm giác, của xúc cảm cá nhân, tức là ngả sang chủ quan
phi duy lý.
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, tự do là bản chất hiện sinh của cá nhân con
người, nó không phục tùng Thượng đế hoặc bất cứ quyền uy nào, cũng không chịu
sự ràng buộc của bất cứ tính tất yếu khách quan nào, nó là tuyệt đối. Giá trị hiện
sinh của cá nhân được thể hiện trong sự lựa chọn của tự do cá nhân. Chủ nghĩa
hiện sinh còn đặt tự do của cá nhân này đối chọi với tự do của cá nhân khác. Tự do

14


của cá nhân không bị gò bó bởi người khác hay bất kỳ lực lượng xã hội nào. Chủ
nghĩa hiện sinh xuất phát từ tự do cá nhân tuyệt đối, cho rằng chỉ có cá nhân mới là
hiện sinh chân thực, xã hội chỉ là một phương thức hiện sinh của cá nhân, hơn nữa
là phương thức hiện sinh không chân thực. Bởi vì xã hội và cá nhân liên hệ chặt
chẽ thì sự tồn tại của cá nhân sẽ không còn là cá nhân thực sự mà là cá nhân bị đối

tượng hoá, bị mất cá tính do bị ràng buộc với người khác và với xã hội, là cá nhân
bị tập thể, bị xã hội lấn át. Do đó, tồn tại xã hội đã bóp chết hiện sinh chân chính
của con người. Để khôi phục sự hiện sinh chân chính của mình, con người cần
thoát khỏi sự ràng buộc của những người khác và của xã hội. Xã hội chính là sản
vật tha hoá của con người, bản thân nó không phải là cái tồn tại khách quan tự thân
phát triển theo quy luật mà là một mớ ngẫu nhiên những con người bị tha hoá.
Động lực phát triển tất nhiên cũng không nằm trong bản thân xã hội mà là do hiện
sinh của cá nhân quyết định. Vì thế cần tìm hiểu tiến trình và đặc điểm của lịch sử
thế giới ở bên trong cá nhân con người.
Theo chủ nghĩa hiện sinh, một mặt lịch sử xã hội là sự tha hoá của tồn tại cá
nhân, nên bản thân nó không có thực tại khách quan; mặt khác con người lại bị nô
dịch bởi những cái mà họ sáng tạo ra, đó là sức mạnh tha hóa. Hơn nữa, mọi cố
gắng thoát khỏi sự nô dịch đó đều vô ích, đều bị thất bại. Do đó, lịch sử loài người
chỉ là một bi kịch không có kết thúc. Vậy con người làm thế nào để giải thoát khỏi
sức mạnh tha hoá và bi kịch của họ? Chủ nghĩa hiện sinh nhận định rằng không thể
dựa vào khoa học và lý tính hay bất cứ cái gì khác mà chỉ có thể tự cứu mình bằng
những hành động tự phát, mạo hiểm hoặc chờ mong sự giải thoát ở các lực lượng
tôn giáo thần bí. Đó là con đường bế tắc mà chủ nghĩa hiện sinh chỉ ra cho con
người.
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học rất phức tạp. Tuy rằng, tất
cả những người theo chủ nghĩa hiện sinh đều coi sự hiện sinh của cá nhân là nội
15


dung cơ bản trong triết học của mình, đều coi hiện sinh là sự cảm thụ chủ quan, sự
thể nghiệm tâm lý có tính chất phi lý tính của cá nhân, hiện sinh có trước bản chất
(có nghĩa là con người hiện hữu trước, tự nổi lên trong thế giới, và sau đó nó mới
được định nghĩa với câu nói rất nổi tiếng: con người không có cái gì khác ngoài cái
mà nó đang hiện ra); nhưng quan điểm của những đại biểu triết học lại có sự khác
nhau. Ngoài phân biệt quốc gia như chủ nghĩa hiện sinh Đức, chủ nghĩa hiện sinh

Pháp và chủ nghĩa hiện sinh của Mỹ, còn có thể phân biệt chủ nghĩa hiện sinh theo
thái độ với tôn giáo như chủ nghĩa hiện sinh vô thần và chủ nghĩa hiện sinh hữu
thần.
Kế thừa tri thức của nhiều nhà tư tưởng, chủ nghĩa hiện sinh ra đời như là
một kết quả tất yếu sau các cuộc chiến tranh đẫm máu, hướng mọi suy tư, mọi câu
hỏi về thân phận của con người. Theo họ, con người có thể tự do lựa chọn cách
sống, thái độ sống của mình. Họ kêu gọi con người quay về với cá nhân bởi không
gì tha thiết với con người bằng chính con người. Bởi vậy, tiếng nói của hiện sinh
được mọi người, nhất là tầng lớp thanh niên sống trong xã hội khủng hoảng với
nhiều chuyển biến, lớp người nhiều lo âu về thân phận mình, chào đón một cách
nồng nhiệt. Và vì thế, từ một trào lưu triết học, nó đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu
sắc đến văn học và các ngành nghệ thuật khác. Các nhà hiện sinh không chỉ trình
bày những quan điểm của mình qua sách báo lý luận thuần túy mà họ còn truyền
tải tới đông đảo bạn đọc bằng các hình thức tác phẩm văn chương như truyện ngắn,
kịch, tiểu thuyết, nghiên cứu văn học… Cùng chung một đối tượng: con người,
cuộc sống và cái chết của con người nên triết học hiện sinh thường gắn liền với văn
học. Do vậy, triết học hiện sinh đã đi vào đời sống và văn học một cách trực tiếp
mà các triết thuyết khác không có, vô cùng tự nhiên và với mức độ phổ biến ngày
càng sâu rộng. Từ đó, một trào lưu văn học hiện sinh xuất hiện ở châu Âu với các
đại diện là những nhà văn đồng thời là những triết gia hiện sinh. Tuy nhiên, khi

16


ảnh hưởng đến tư tưởng của các nhà văn thì chủ nghĩa hiện sinh lại được phân hóa
một cách rõ nét hơn với hai khuynh hướng: hữu thần (hay còn gọi là hiện sinh tôn
giáo) và vô thần. Các khuynh hướng này được thể hiện rõ nét trong các tác phẩm
cụ thể của họ.
Đối với hiện sinh hữu thần: Kierkegaard2, Gabriel Marcel3, Karl Jaspers,
Martin Buber, Nikolai Berdyaev, Lev Shestov, … là những đại diện tiêu biểu.

Trường phái này cho rằng: ý nghĩa của tất cả hiện hữu là hướng lên một cách mạnh
mẽ, từ lĩnh vực những sự vật vật chất lầm lỳ, qua hiện sinh tinh thần của con người
đến miền siêu việt của Thiên Chúa mà họ gọi là “Tồn tại tự nó” (An-sich-Sein).
Nếu Nietzsche đặt con người ngang hàng với Thượng đế thì với Jaspers - một đại
diện khác của hiện sinh hữu thần - lại cho rằng: con người là hữu hạn, con người
không tự sáng tạo nên mình và do vậy, tự do của con người là một tặng phẩm do
Thượng đế ban tặng. Tự do của con người là không tuyệt đối; nó chỉ là một tự do
hữu hạn, vì bản tính con người là hữu hạn. Với phương pháp “soi vào hiện sinh”,
Jaspers đã vạch rõ, vô thần là con đường cùng (impasse), là giới hạn của hư vô, là
lời cảnh cáo, mách bảo chúng ta không thể đo lường vô thần để đạt tới siêu việt.
Jaspers còn sử dụng phương pháp “soi vào hiện sinh” để dõi theo sinh hoạt của con
người tôn giáo. Ông nhận ra ở đó những ưu điểm lớn và ông cũng chỉ rõ vai trò của
tôn giáo, không khước từ tôn giáo như đã khước từ vô thần: "Tôn giáo đã thực hiện
tất cả những gì là lợi ích và vững bền trong lịch sử nhân loại" [15, tr. 241]
Nhắc đến trường phái hiện sinh vô thần chúng ta không thể không kể đến
một số tác gia -triết gia như: F.Nietzsche, Jean-Paul Sartre, Albert Camus,
2

Kierkegaard thường được gọi là triết gia, nhà thần học, ông tổ của triết học hiện sinh, nhà phê bình văn học, nhà
văn hài hước, nhà tâm lý học và nhà thơ. Một số tác phẩm của Kierkegaard: The Concept of Irony , Either/Or, Fear
and Trembling, Repetition , Philosophical Fragments, Stages on Life's Way , Concluding Unscientific Postscript to
The Philosophical Fragments, Edifying Discourses in Diverse Spirits, Works of Love.
3
Honoré Gabriel Marcel (7 tháng 12 năm 1889 - 8 tháng 10 năm 1973 là một nhà triết học người Pháp. Ông đã đưa
ra khái niệm chủ nghĩa hiện sinh sau thế chiến I dù lúc đó ông còn là một người vô thần, ông là một nhà hiện sinh
hàng đầu Kitô giáo, và là tác giả của khoảng 30 vở kịch. Một số tác phẩm chính: Huyền nhiệm hữu thể, Hiện hữu và
sở hữu, Nhật ký siêu hình học.

17



Martin Heidegger... Các cuộc chiến tranh cùng sự sụp đổ của các nước trong Thế
chiến làm họ tuyệt vọng. Nhưng họ đã tìm thấy một sức mạnh đáng kinh ngạc
trong tinh thần bất khuất của con người, một tinh thần mà ngay cả khi bị hành hạ
dã man vẫn có thể duy trì lòng phản kháng – một khả năng không thể bị triệt hạ để
có thể thốt lên tiếng “không”. Từ đó, họ dựng lên một triết thuyết mới phản bác
triết học Descartes “Tôi tư duy, tôi tồn tại” với câu nói: “ Tôi nói không, tôi tồn
tại”. Chủ nghĩa hiện sinh vô thần của J. P. Sartre4 (1905-1980) là sản phẩm của sự
dung hoà, sự kết hợp theo một cách riêng của ba khuynh hướng tư tưởng hiện đại chủ nghĩa Mark, hiện tượng học E. Husserl và chủ nghĩa hiện sinh Heidegger - trên
cơ sở lấy quan điểm chung của ba khuynh hướng tư tưởng này làm xuất phát điểm
- quan điểm khẳng định vai trò tích cực của con người trong việc tự sáng tạo nên
bản chất của chính mình. Nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa hiện sinh vô thần này
là “Tồn tại có trước bản chất”, còn vấn đề trung tâm của nó là sự tự do của con
người. Con người là tự do nên con người có thể làm cho mình trở thành một thực
thể hiện hữu, tồn tại với tư cách một “nhân vị”, một “hữu thể”. Bản tính con người
là cái không thể được “định nghĩa” trước bởi Thượng đế hay một Đấng sáng tạo
nào đó. Con người tự tạo nên bản tính của mình bằng sự tự do lựa chọn sau khi đã
tồn tại như một “hữu thể”, tồn tại một cách hiện sinh. J. Sartre cho rằng: “ Nó
tuyên bố rằng nếu Thượng đế không hiện hữu thì ít ra có một tồn tại (un être) trong
đó sự hiện hự đi trước bản chất, một tồn tại hiện hữu trước khi có thể được định
nghĩa bằng một khái niệm bất kỳ nào” và ông nhận định: “ sự tồn tại ấy chính là
con người” hay như Heidegger đó là “ thực tại người” (réalité – humaine). Tức là,
con người phải hiện hữu, gặp gỡ, xuất hiện trong thế giới trước rồi mới được định
4

Jean - Paul Sartre; 1905 - 80), nhà triết học, nhà văn Pháp. Thạc sĩ triết học. Những năm 1933 - 34, sống ở Đức, học
trò của giáo sư E. Husserl. Năm 1939, ông bị động viên; năm 1940, bị bắt làm tù binh; trốn thoát năm 1941, tiếp tục
dạy học và tham gia kháng chiến chống phát xít Đức. Từ 1945, ông làm báo, viết sách, và nổi tiếng từ đấy. Sartre là
nhà triết học (hiện sinh) và nhà hoạt động xã hội. Tác phẩm chính: "Buồn nôn" (truyện, 1938), "Bức tường" (tập truyện
ngắn,1939), "Cái tưởng tượng" (triết, 1940), "Hữu thể và hư vô" (triết, 1943), "Ruồi" (kịch, 1943). Sau 1945, chủ yếu là

bút ký, tiểu luận, phê bình (7 tập "Tình thế") và một số vở kịch.

18


nghĩa. Bởi theo quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh thì con người nếu không thể
định nghĩa được thì chính là hư vô. Nó chỉ tồn tại sau đó, tồn tại như những gì nó
sẽ được tạo ra, và vì không có Thượng đế nên con người tồn tại như nó được quan
niệm và nó muốn tỏ ra. Sartre viết: “Chúng ta thường nghĩ về Thượng đế như là
một thợ thủ công siêu nhiên, chúng ta quan niệm rằng khi Thượng đế sáng tạo ra
con người, thì ngài đã biết chính xác ngài tạo ra cái gì, chức năng của nó ra sao và
được dùng như thế nào, giống như con dao rọc giấy được tạo ra bởi trí tuệ của
người thợ thủ công”. Theo đó, bản chất tồn tại trước và mỗi cá nhân không có
quyền can thiệp vào số phận của mình vì vị trí, vai trò, tính chất của nó đã được tạo
ra trong ý thức của Thượng đế. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, song chủ
nghĩa hiện sinh vô thần của Sartre vẫn được thừa nhận là một chủ nghĩa nhân đạo,
một trào lưu triết học tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại thế kỷ XX.
1.2. F.Dostoevsky - nhà tƣ tƣởng hiện sinh
Văn học hiện đại Nga thế kỷ XIX là một trong những nền văn học phong
phú và tiên tiến của nhân loại, là một trong những thành tựu rực rỡ nhất của lịch
sử phát triển nghệ thuật thế giới. Nó ra đời và trưởng thành trong cuộc đấu tranh
lâu dài của nhân dân Nga chống lại chế độ nông nô chuyên chế tàn bạo và phản
động. Được phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân nuôi dưỡng, văn học
Nga đã phát triển nhanh chóng và đạt những thành tựu rực rỡ. M. Gorky viết:
“Trong lịch sử phát triển của văn học Châu Âu, nền văn học trẻ tuổi của chúng ta
là một hiện tượng kỳ diệu. Tôi sẽ không quá đáng khi nói rằng không một nền
văn học phương Tây nào lại vươn lên với một tốc độ nhanh chóng và trong ánh
hòa quang thiên tài chói lọi như vậy” [21, tr. 6]
Nước Nga thời kỳ này khủng hoảng đến tột độ: chính trị bất an, chiến tranh
liên miên, luật phát là những trò lừa đảo, tôn giáo không còn được kiêng nể, tâm

trạng con người luôn bị xáo trộn, lo âu và bi quan. Bên cạnh sự suy đồi về văn hóa,
19


xã hội, sự bất ổn của chính trị thì vấn đề tư tưởng cũng hết sức phức tạp. Nước Nga
đầu thế kỷ XIX sút giảm vì tính kém hiệu quả của chính quyền, sự cô lập của dân
cư và sự tụt hậu kinh tế. Các cuộc nổi loạn diễn ra bắt nguồn từ các cuộc chiến
tranh Napoléon, khi một số sĩ quan có học thức của Nga đến châu Âu trong các
chiến dịch quân sự, nơi họ học được chủ nghĩa tự do Tây Âu và muốn có sự thay
đổi với chế độ chuyên chế Nga. Kết quả là cuộc nổi dậy tháng Chạp (tháng 12 năm
1825), một nhóm nhỏ quý tộc và sĩ quan quân đội theo đường lối tự do bùng nổ.
Nhưng cuộc nổi dậy đã bị dập tắt dễ dàng khiến Nikolai I quay lưng lại với chương
trình Tây phương hóa đã khởi đầu từ thời vua Pyotr Đại đế và đề cao châm ngôn
"Chuyên chế, Chính Thống giáo và Quốc gia”. Trong hoàn cảnh ấy Mikhail Aleksandrovich
Bakunin xuất hiện như người cha của chủ nghĩa vô chính phủ. Tại đây ông đã hợp tác

cùng Karl Marx, dù có những sự khác biệt ý thức hệ và chiến thuật lớn. Các học
thuyết xã hội khác cũng được những người Nga cấp tiến đưa ra như Aleksandr
Ivanovich Herzen và Pyotr Alekxeyevich Kropotkin. Vấn đề phương hướng của nước

Nga đã dấy lên thậm chí từ chương trình Tây phương hóa của Pyotr Đại đế. Một số
người muốn học tập châu Âu trong khi số khác bác bỏ và kêu gọi một sự quay trở
lại với các truyền thống quá khứ. Ý tưởng sau này được những người thân Slav ủng
hộ, họ tỏ rõ sự khinh bỉ phương Tây "suy đồi”. Những người thân Slav phản đối
chủ nghĩa quan liêu, ủng hộ chủ nghĩa tập thể hay cộng đồng làng của Nga thời Trung
cổ, chứ không phải chủ nghĩa cá nhân của phương Tây. Trong thập niên 1860, một

phong trào được gọi là hư vô chủ nghĩa đã phát triển ở Nga. Nó là thuật ngữ lần
đầu được Ivan Sergeyevich Turgenev đưa ra năm 1862 trong tiểu thuyết Cha và con của
ông. Những người vô chính phủ ủng hộ việc thủ tiêu các định chế và pháp luật của

loài người, dựa trên ý tưởng rằng các định chế và pháp luật đó là giả tạo và sai lạc.
Cốt lõi của nó, chủ nghĩa vô chính phủ Nga dựa trên niềm tin cho rằng thế giới
thiếu ý nghĩa, sự thực khách quan hay giá trị có thể lĩnh hội được. Trong một số
thời điểm nhiều người Nga theo chủ nghĩa tự do đã bất bình bởi cái họ coi là những
20


cuộc tranh cãi vô bổ của giới trí thức. Những người vô chính phủ nghi ngờ tất cả các
giá trị cũ và làm rung chuyển định chế Nga. Họ chuyển từ triết lý thuần túy trở
thành một lực lượng chính trị chính sau khi tham gia vào quá trình cải cách. Con
đường của họ càng trở nên dễ dàng hơn với các hoạt động của nhóm Cách mạng
tháng Chạp, nổi dậy năm 1825, và sự khó khăn về tài chính, chính trị do cuộc
Chiến tranh Krym khiến nhiều người Nga mất lòng tin vào các định chế chính trị.
Phong trào "Dân ý" nổ ra, thể hiện sự phát triển của chủ nghĩa vô chính phủ Nga như
một lực lượng cách mạng hùng mạnh. Các cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt đã diễn
ra với nhiều trường phái khác nhau. Mâu thuẫn tư tưởng, mâu thuẫn giai cấp đã tạo
ra cơn khủng hoảng trầm trọng. Khi đó, con người biết lo âu là con người ta cảm
thấy đơn độc, con người cảm thấy mình bị bỏ rơi, bơ vơ trong thế giới, chơi vơi,
không có điểm tựa. Trong trạng thái mất cân bằng đó, các nhà tư tưởng nói chung
và F.Dostoevsky nói riêng sẽ không khỏi trăn trở về đời sống, về thân phận, về
hiện diện của con người trong thế giới.
Cũng trong hoàn cảnh đó, F.Dostoevsky ra đời. Ông là nhà văn nổi tiếng
người Nga, sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821 và mất ngày 9 tháng 2 năm 1881. Cùng
với Lev Tolstoy, F.Dostoevsky được xem là một trong hai nhà văn Nga vĩ đại thế kỷ
19. Các tác phẩm của ông như Anh em nhà Karamazov hay Tội ác và trừng phạt đã khai
thác tâm lí con người trong bối cảnh chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội Nga
thế kỷ XIX. Ông được giới phê bình đánh giá rất cao, phần lớn xem ông là người
sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ XX, chẳng
hạn, Walter Kaufman xem Bút ký dưới hầm là "tác phẩm về chủ nghĩa hiện sinh tuyệt
vời nhất từng được viết". Tuy nhiên ở Liên Xô, sau Cách mạng tháng Mười, người ta

hầu như phủ nhận toàn bộ các sáng tác của F.Dostoevsky. Từ 1972, tác phẩm của
F.Dostoevsky mới được nhìn nhận lại và đánh giá đúng mức ở quê hương của
mình.

21


Tùy thuộc vào cách giải thích sáng tác của F.Dostoevsky mà các nhà nghiên
cứu có thể xếp ông vào hoặc bỏ ông ra khỏi hàng ngũ các triết gia hiện sinh.
Nhưng vấn đề quan hệ giữa ông và chủ nghĩa hiện sinh là một thực tế không thể
chối cãi. Theo chúng tôi, F.Dostoevsky không lập thuyết với tư cách là triết gia mà
chỉ với tư cách nhà văn, nêu tư tưởng hiện sinh thông qua sáng tạo nghệ thuật.
Điều này đã được khẳng định ở nhiều công trình nghiên cứu về F.Dostoevsky gắn
liền ông với tư cách người nghệ sĩ, nhà tư tưởng hiện sinh. Chẳng hạn,
A.Lunacharsky với "Dostoevsky, với tư cách người nghệ sĩ và nhà tư tưởng" (Diễn
văn đọc tại lễ kỷ niệm 100 năm sinh F.M.Dostoevsky), E. Mikhailovna với
"F.M.Dostoevsky – nhà tư tưởng, người nghệ sĩ và con người" (Festival Bài học
mở)
Trong bài báo "F.Dostoevsky và chủ nghĩa hiện sinh", học giả người Nga
A.N.Latynina đã xem xét vấn đề này một cách linh hoạt. Nhiều học giả giải thích
khái niệm "chủ nghĩa hiện sinh" theo những cách khác nhau hoặc là mở rộng, hoặc
là thu hẹp lại. Thường những người nói về chủ nghĩa hiện sinh của F.Dostoevsky thì
lại ngụ ý đến một điều hoàn toàn khác. W.Kaufman trong công trình "Chủ nghĩa
hiện sinh từ F.Dostoevsky đến Sartre" đã coi Bút ký dưới hầm là "khúc dạo đầu đến
chủ nghĩa hiện sinh”. Có người lại coi những tư tưởng của F.Dostoevsky mang hình
thức của chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo. Thường các nhà nghiên cứu khi kiến giải chủ
nghĩa hiện sinh của F.Dostoevsky chỉ muốn đề cập đến những phương diện quan
trọng để giải quyết vấn đề hiện sinh của con người hiện hữu trong toàn bộ sáng tác
của ông.
Tư tưởng hiện sinh ở F.Dostoevsky chịu sự ảnh hưởng của hoàn cảnh nước

Nga thế kỷ XIX – một thế kỷ khủng hoảng từ văn hóa, xã hội đến tư tưởng. Các
cuộc chiến tranh xảy ra liên miên, các luồng tư tưởng chia thành các bè phái (sùng
phương Tây hay sùng Slavo). Khi đó, F.Dostoevsky gặp rất nhiều gian truân. Ông
22


đã phải trải qua những ngày cùng quẫn, túng thiếu, phải đi vay mượn, cầm cố đồ
đạc để kiếm sống qua ngày. F.Dostoevsky phải nếm trải cuộc sống đầy khó khăn
của những người dân nghèo thành thị, của những viên chức thân phận hèn kém.
Hoàn cảnh bắt buộc ông phải tích cực lao động bằng chính ngòi bút của mình. Và,
như một lẽ tất nhiên, hiện thực cuộc sống cùng những luồng tư tưởng thời kỳ đó đi
vào trong tác phẩm của ông và hiện lên một cách rõ nét. Giữa năm 1845,
F.Dostoevsky hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay Những người nghèo và đưa cho
người bạn văn đã từng học với ông ở trường Cao đẳng là Dmitri Grigorovich đọc
và góp ý. Đêm hôm đó, Grigorovich cùng nhà thơ trẻ Nikolai Nekrasov dự định chỉ
“lật vài trang bản thảo” rồi đi ngủ. Nhưng hai nhà văn trẻ đã không dứt được ra
khỏi cuốn tiểu thuyết của F.Dostoevsky mà đọc đến gần sáng, rồi cả hai hào hứng
chạy tới nhà F.Dostoevsky chia sẻ cảm xúc tràn ngập trong lòng họ. Ðây là một
quyển tiểu thuyết được viết dưới hình thức thư tín nhưng chứa đựng một tư duy
nghệ thuật hoàn toàn mới mẻ. Hai người bạn văn này đã đem bản thảo tới cho nhà
phê bình danh tiếng Belinsky và tuyên bố: “Một Gogol mới xuất hiện!”. Khi nhận
lấy bản thảo và đọc xong, Belinsky ngay lập tức cho mời F.Dostoevsky đến và vui
mừng nói với nhà văn trẻ: “Chính anh có hiểu là anh đã viết nên một tác phẩm như
thế nào không? Không thể nào, anh, với hai mươi tuổi đầu đã có thể hiểu hết được
điều đó… Là môt nghệ sĩ, anh đã được sự thật mở rộng cánh cửa và ban cho tài
năng, anh hãy biết quý trọng tài năng đó và trung thành với nó, anh sẽ trở thành
một nhà văn vĩ đại”[9, tr 47]. Qua tác phẩm đó, hình tượng người nhỏ bé có ý thức
lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Nga và đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa
hiện thực Nga thế kỷ XIX. Hình tượng nhân vật đã thể hiện được vẻ đẹp bên trong
của lớp người nhỏ bé và bóc trần được mọi thứ xấu xa của xã hội, đồng thời tố cáo

mạnh mẽ thế lực của đồng tiền đã chà đạp lên luân thường đạo lý. Lúc này, các nhà
văn đã tái hiện lại những thân phận hèn mọn, bị sỉ nhục, bị lăng mạ của đông đảo
quần chúng lao động. Song song với việc miêu tả con người nhỏ bé, các nhà văn tố
23


cáo xã hội, tố cáo chủ nghĩa tư bản Nga đang âm mưu sắp xếp lại xã hội, điều
khiển xã hội bằng quyền lực và sức mạnh của đồng tiền. Những vấn đề này, đặc
biệt là vấn đề thế lực và sức mạnh của đồng tiền đã được F.Dostoevsky hình tượng
hóa vào các tác phẩm của mình một cách vô cùng chân thật và sống động.
Những âm hưởng của cuộc cách mạng 1830, 1848 ở châu Âu cùng với
những cuộc nổi dậy của nông dân ở Nga đã tác động mạnh mẽ đến trí tuệ của
những trí thức tiến bộ đương thời. Họ suy ngẫm những tư tưởng của phương Tây,
tìm tòi con đường vận động chuyển biến của xã hội Nga. Hòa nhập trong không
khí chung đó, F.Dostoevsky đã tham gia vào nhóm những người tôn sùng chủ
nghĩa xã hội không tưởng - một diễn đàn do Mikhail

Vasilevich Petrashevsky

- một

người chịu ảnh hường của Fourier khởi xướng. Như phần lớn các diễn đàn của giới
trí thức ở kinh đô Peterburg bấy giờ, đó là một tập hợp phức tạp của trí thức, sinh
viên, viên chức... chủ yếu thảo luận văn học và nhất là triết học phương Tây, cũng
như một loạt các vấn đề xã hội khác. Tuy không có quan điểm chính trị rõ rệt, phần
lớn hội viên bất mãn với chế

độ quân chủ

Nga. Ngày 23 tháng 4 năm 1849,


F.Dostoevsky bị bắt. Sau 9 tháng nằm tù trong hầm pháo đài Petropavlovskaya,
ngày 16 tháng 11, F.Dostoevsky cùng 15 người khác bị đưa ra tòa và kết án tử
hình. Ngày hành hình, họ đứng trong thời tiết lạnh giá để chờ đợi một loạt súng mà
vào phút chót bị bãi bỏ bởi một lệnh ân xá của hoàng đế. Thay vào đó, họ bị kết án
4 năm lao động khổ sai tại Omsk, thuộc tây nam miền Xibia. Sau này F.Dostoevsky
có mô tả cho người em của mình rằng những năm tháng khắc nghiệt đó với ông
như "bị đóng trong quan tài". Về trại lính đổ nát mà "đáng lẽ phải sụp xuống từ
một năm trước", ông kể lại: “Mùa hè, ngột ngạt không chịu được. Mùa đông, rét
không thể nói hết. Tất cả các tầng đều đã hỏng. Rác dày tới một inch, người ta có
thể bị trượt ngã... Chúng tôi được đóng gói như cá trích trong thùng. Không có đủ
không gian để mà xoay người”. Ông ra khỏi nhà tù năm 1854, nhưng phải phục vụ

24


×