ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Trần Xuân Hoàng
CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT TỪ CỦA CÁC MẪU HẠT NANO Y3
GdxFe5O12
x
Chuyên ngành: Vật lý nhiệt
Mã số:
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội 2015
Công trình được hoàn thành
tại viện ITIMS Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Phúc Dương
GS.TS. Lưu Tuấn Tài
Phản biện 1: TS. Lê Tuấn Tú
Phản biện 2: TS. Trần Thị Việt Nga
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi 10 giờ 00’, ngày 29 tháng 12 năm 2015
Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn thạc sĩ khoa học
MỞ ĐẦU
Công nghệ nano là một trong những công nghệ tiên tiến bậc nhất hiện
nay. Vật liệu nano đã được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống như y
học, điện tử, may mặc, thực phẩm v.v... và vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu
để tìm ra những ứng dụng mới. Trong số đó vật liệu nano từ đặc biệt là các hệ
hạt pherit rất thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài
nước cả về các tính chất cơ bản cũng như các khả năng ứng dụng của vật liêu.
Khi đạt kích thước nanomet, các vật liệu này có những tính chất đặc biệt và ưu
việt hơn so với vật liệu khối.
Vật liệu Ytri ganet sắt chỉ có hai phân mạng từ do Ytri là nguyên tố không
có từ tính. Cho nên tính chất từ được quyết định bởi tương tác giữa các ion Fe
trong hai phân mạng a và d. Trong khi đó đối với vật liệu ganet sắt với các
nguyên tố đất hiếm khác thì phân mạng đất hiếm có từ tính và do vậy xuất hiện
thêm tương tác từ của mômen từ trong các phân mạng c. Để làm sáng tỏ cơ chế
đóng góp vào từ độ và các tham số từ khác của các ganet chứa đất hiếm, luận văn
này được chọn đề tài “ Cấu trúc và tính chất từ của các mẫu hạt nano Y 3
GdxFe5O12”
x
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Các mẫu hạt nano pherit ganet Y3
GdxFe5O12 (x =0; 1; 1,5; 2; 2,5; 3) được tổng hợp bằng phương pháp solgel.
x
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu cấu trúc tinh thể và tính
chất từ của hạt nano pherit ganet Y 3xGdxFe5O12 (x =0; 1; 1,5; 2; 2,5; 3) chế tạo
bằng phương pháp solgel. Từ đó làm rõ ảnh hưởng của sự pha tạp Gd lên cấu
trúc tinh thể và tính chất từ của vật liệu cụ thể như: hằng số mạng, kích thước
hạt, mômen từ, nhiệt độ Curi và nhiệt độ bù trừ.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được tiến hành bằng phương pháp
thực nghiệm kết hợp với phân tích số liệu dựa trên các mô hình lý thuyết và kết
Trần Xuân Hoàng
1
Luận văn thạc sĩ khoa học
quả thực nghiệm đã công bố. Các mẫu nghiên cứu được chế tạo bằng phương
pháp sol gel tại viện ITIMS, Trường đại học Bách Khoa Hà Nội.
Bố cục của luận văn: Luận văn được trình bày trong 3 chương, 47 trang
bao gồm phần mở đầu, 3 chương nội dung, kết luận, cuối cùng là tài liệu tham
khảo. Cụ thể cấu trúc của luận văn như sau:
Mở đầu: Mục đích và lý do chọn đề tài.
Chương 1: Tổng quan về vật liệu pherit ganet. Chương này trình bày
tổng quan về cấu trúc và tính chất từ của pherit ganet dạng khối, các tính chất
đặc trưng của vật liệu ở kích thước nanomet và một số ứng dụng điển hình của
hạt nano pherit ganet.
Chương 2: Thực nghiệm. Chương này giới thiệu về phương pháp solgel
chế tạo vật liệu có kích thước nanomet và các phương pháp thực nghiệm sử
dụng để nghiên cứu cấu trúc và tính chất từ của các mẫu hạt nano chế tạo được.
Chương 3: Kết quả và thảo luận.
Kết luận: Các kết luận chính rút ra từ kết quả nghiên cứu của luận văn.
Trần Xuân Hoàng
2
Luận văn thạc sĩ khoa học
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU PHERIT GANET
1.1. Cấu trúc tinh thể và tính chất từ của vật liệu pherit ganet dạng khối.
1.1.1.Cấu trúc tinh thể.
Pherit ganet có cấu trúc lập phương tâm khối, thuộc nhóm không gian Oh10
– Ia3d [78]. Một ô đơn vị của pherit ganet chứa 8 đơn vị công thức {R3}[Fe2]
(Fe3)O12, trong đó R là Y và các nguyên tố đất hiếm như Sm, Eu, Gd, Ho, Dy, Tb,
Er, Tm, Yb, Lu. Các ion kim loại phân bố trong 3 vị trí tinh thể học tạo bởi các
ion oxy: ion đất hiếm chiếm vị trí lỗ trống 12 mặt (vị trí 24c), các ion Fe3+ phân
bố trong hai vị trí lỗ trống 8 mặt (vị trí 16a) và 4 mặt (vị trí 24d). Các lỗ trống này
tạo thành 3 phân mạng tương ứng của các ion kim loại: phân mạng đất hiếm
{c}, 2 phân mạng sắt [a] và (d). Hình 1.1 miêu tả vị trí các ion và hình ảnh mô
phỏng các phân mạng trong cấu trúc của pherit ganet.
(a) (b)
Hình 1.1: (a) Vị trí các ion và hình ảnh mô phỏng các phân mạng trong cấu trúc
của pherit ganet (b) [15].
1.1.2. Tính chất từ.
1.1.2.1. Mô men từ và nhiệt độ Curie.
Mômen từ của pherit ganet phụ thuộc vào mômen từ của các ion Fe3+ trong
phân mạng a, d và ion kim loại đất hiếm R3+ trong phân mạng c. Theo mô hình lý
thuyết Néel, mômen từ của các ion Fe3+ trong cùng một phân mạng là song song
Trần Xuân Hoàng
3
Luận văn thạc sĩ khoa học
với nhau, mômen từ của phân mạng a và phân mạng d là đối song. Tương tác
giữa các ion đất hiếm trong cùng phân mạng rất yếu nên có thể coi phân mạng
đất hiếm như một hệ các ion thuận từ trong từ trường tạo bởi các phân mạng
sắt. Mômen từ của phân mạng c định hướng ngược với vectơ tổng của mômen
từ của hai phân mạng a và d. Hình 1.2 dưới đây mô tả trật tự từ trong các phân
mạng của pherit ganet:
{R33+} [Fe3+] (Fe3+)
c a d
(c) (d – a)
Hình 1.2: Mô hình trật tự từ trong các phân mạng của pherit ganet
Mômen từ trong một phân tử ganet phụ thuộc nhiệt độ và được tính theo
công thức:
(1.1)
M (T)= 3MR(T) – [3MFe(T) – 2MFe(T)]
3+
Đặc biệt đối với YIG, do Y không có từ tính nên mômen từ của YIG do
các ion Fe ở hai phân mạng d và a quyết định, hay MYIG(T) = MFed(T) MFea(T).
Trần Xuân Hoàng
4
Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 1.3: Sự phụ thuộc nhiệt độ của giá trị mômen từ tự phát của các
phân mạng và mômen từ tổng của YIG [78].
Hình 1.4. Sự phụ thuộc nhiệt độ của mômen từ của các pherit ganet R3Fe5O12
Có thể nhận thấy, ở nhiệt độ thấp giá trị Ms của các pherit ganet đất hiếm
lớn hơn nhiều so với YIG, là do đóng góp của mômen từ phân mạng c nhưng ở
nhiệt độ phòng, giá trị Ms của pherit ganet đất hiếm giảm rất nhanh cùng với sự
giảm của mômen từ phân mạng c. Để minh họa, hình 1.5 biểu diễn sự phụ thuộc
nhiệt độ của mômen từ tự phát của cả ba phân mạng d, a và c của Gd3Fe5O12. Giá
trị mômen từ tự phát Ms của một số pherit ganet ở 4 K và 300 K được liệt kê
trong bảng 1.3.
1.1.2.2. Nhiệt độ bù trừ Tcomp
Trần Xuân Hoàng
5
Luận văn thạc sĩ khoa học
Ở vùng nhiệt độ thấp gần 0K, mômen từ của phân mạng đất hiếm Mc(0)
lớn hơn hiệu mômen từ của hai phân mạng sắt (Md(0) – Ma(0)). Tuy nhiên, sự
giảm của mômen từ phân mạng c theo nhiệt độ nhanh hơn so với các phân mạng
a và d do vậy tại một nhiệt độ xác định Tcomp, (0 < Tcomp < TC), mômen từ của phân
mạng đất hiếm cân bằng với mômen từ tổng của hai phân mạng sắt Mc(T) =
Md(T) Ma(T). Nhiệt độ Tcomp được gọi là nhiệt độ bù trừ, tại đó mômen từ tổng
MRIG (Tcomp) = 0. Ở nhiệt độ trên nhiệt độ Tcomp (Tcomp < T < TC), mômen từ của
phân mạng sắt trở nên lớn hơn mômen của phân mạng đất hiếm (Md Ma > Mc)
như quan sát thấy trên hình 1.5 đối với pherit ganet Gd3Fe5O12.
Hình 1.5. Sự phụ thuộc nhiệt độ của mômen từ bão hòa của ba phân mạng của
Gd3Fe5O12 [25]
Các giá trị TC, Tcomp của một số pherit ganet đất hiếm theo các nghiên cứu
trước đây được liệt kê trong bảng 1.5. Điểm bù trừ của các pherit ganet đất hiếm
được quan sát thấy ở dưới nhiệt độ phòng. Bảng 1.5 cho thấy nhiệt độ Curie của
hệ pherit ganet không thay đổi nhiều (TC ~560 K) khi thay Y3+ bằng các ion đất
hiếm nặng, khẳng định tương tác của phân mạng d a là lớn nhất.
1.1.2.3. Tương tác siêu trao đổi.
Trong tinh thể pherit ganet các ion Fe3+ trong phân mạng a, d và ion kim
loại đất hiếm R3+ trong phân mạng c tạo thành 3 phân mạng từ tương ứng, ngoại
trừ tinh thể Ytri pherit ganet chỉ có 2 phân mạng từ do ion Y3+ không có từ tính.
Các ion kim loại Fe3+ và R3+ bị ngăn cách bởi các ion oxy có bán kính lớn nên
tương tác giữa các ion kim loại từ tính là tương tác trao đổi gián tiếp, thông qua
ion oxy còn gọi là tương tác siêu trao đổi. Theo mô hình giải thích tương tác trong
MnO được đưa ra bởi Kramer [6], tương tác siêu trao đổi trong pherit ganet là các
tương tác trao đổi gián tiếp thông qua ion oxy xảy ra giữa các ion Fe 3+ Fe3+ , R3+
R3+ và Fe3+ R3+ trong đó R là kim loại đất hiếm. Bản chất của tương tác là sự
Trần Xuân Hoàng
6
Luận văn thạc sĩ khoa học
xen phủ lẫn nhau của các đám mây điện tử d của ion Fe hoặc f của ion đất hiếm
R với đám mây điện tử p của ion oxy.
1.2. Tính chất từ của các hạt nano pherit ganet.
1.2.1. Dị hướng từ bề mặt và mô hình lõi vỏ.
Khi kích thước hạt bị thu nhỏ làm cho tính đối xứng trong tinh thể bị phá
vỡ và giảm các lân cận gần nhất, lúc đó xuất hiện dị hướng từ bề mặt. Sự mất
trật tự của cấu trúc từ tại bề mặt dẫn đến dị hướng từ bề mặt có độ lớn và tính
đối xứng khác nhau tại các vị trí bề mặt khác nhau. Khi kích thước các hạt càng
nhỏ, tỉ lệ diện tích bề mặt S trên thể tích hạt V càng lớn và do vậy sự đóng góp
của bề mặt vào từ tính của hạt sẽ trở nên quan trọng hơn so với hạt dạng khối.
Hình 1.6: Mô hình lõi vỏ trong hạt nano
1.2.2. Sự suy giảm mômen từ theo hàm Bloch.
Theo lý thuyết sóng spin, sự phụ thuộc nhiệt độ của mômen từ tự phát của
chất sắt từ hay pherit ở nhiệt độ thấp (T < TC) được mô tả theo hàm Bloch [29]:
3
�
�
2
�
�
T
�
M S (T ) = M S (0) 1 − � ��
� �TC ��
�
�
hay còn có thể viết: M S (T ) = M S (0)(1 − BT 3/2 )
(1.4)
(1.5) ở đây MS(0) là mômen từ tự phát ở 0 K, B là hằng số Bloch. Khi T
Trần Xuân Hoàng
7
TC thì
Luận văn thạc sĩ khoa học
M S (T ) (T − TC )α với α là số mũ tới hạn phụ thuộc vào cấu tạo hạt, nó có thể
giảm hoặc tăng so với giá trị 3/2. Đối với vật liệu sắt từ hay pheri từ dạng khối,
mômen từ tự phát MS tỉ lệ với T 3/2 nhưng khi kích thước hạt giảm xuống thang
nano mét thì số mũ có xu hướng tăng lên α > 3/2. Điều này là do các magnon có
bước sóng lớn hơn kích thước hạt không thể bị kích thích, do đó năng lượng
nhiệt cần phải vượt một ngưỡng nhất định để gây nên sóng spin trong các hạt
nano này.
Hình 1.7: Mômen từ phụ thuộc kích thước của các hạt nano YIG chế tạo bằng
phương pháp solgel (a) và mômen từ phụ thuộc nhiệt độ của các hạt nano YIG
kích thước 45,120 và 440nm (b) đường liền nét là đường khớp hàm Bloch.
Ta thấy, với các mẫu có kích thước trung bình 440 nm và 129 nm, mômen
từ bão hòa phụ thuộc nhiệt độ tuân theo sự biến đổi của mômen từ mẫu khối
trong khi đó mẫu có kích thước trung bình 45 nm thì đường Ms(T) lệch khỏi dạng
phụ thuộc như phương trình (1.5) ở vùng nhiệt độ thấp. Tính toán lí thuyết về
vật liệu sắt từ đã chỉ ra rằng sự thay đổi của spin bề mặt lớn hơn bên trong. Do
vậy, hằng số Bloch của các mẫu tăng khi nhiệt độ tăng thì mômen từ tự phát
trong các hạt kích thước nhỏ sẽ giảm nhanh hơn so với vật liệu khối. Điều này
có thể do các spin trong hạt nhỏ không ổn định so với trong vật liệu khối dẫn
đến sự giảm nhiệt độ Curie so với vật liệu khối.
8
Trần Xuân Hoàng
Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 1.8 Mômen từ bão hòa phụ thuộc nhiệt độ của các hạt YIG chế tạo bằng
phương pháp solgel so sánh với mẫu khối [21].
1.2.3. Lực kháng từ phụ thuộc kích thước hạt.
Lực kháng từ liên quan đến sự hình thành đơn đômen và phụ thuộc vào
kích thước của hạt, khi kích thước hạt giảm thì lực kháng từ tăng dần đến cực
đại và sau đó tiến về 0. Sự phụ thuộc của lực kháng từ vào kích thước hạt được
mô tả như trên hình 1.7 dưới đây và theo công thức:
3/2
� �DS �
�
1 − � � �
HC = HC 0 �
� �d � �
(1.6)
Trong đó, Ds là kích thước giới hạn siêu thuận từ, D là kích thước hạt, Hco là lực
kháng từ nhiệt độ T gần 0 K.
Trần Xuân Hoàng
9
Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 1.10: Lực kháng từ HC phụ thuộc kích thước hạt D của các hạt nano YIG
[23]
1.2.4. Tính chất siêu thuận từ.
Khái niệm siêu thuận từ của vật liệu từ tính ở kích thướ c nano đượ c
đưa ra bởi Frenkel và Dorfman vào năm 1930 [1]. Các nghiên cứu sau đó đã
chứng minh chính xác của dự đoán này. Đó là, nếu các hạt nano từ tính có kích
thước hạt là đủ nhỏ thì những hạt nano này sẽ có tính siêu thuận từ. Năm
1949, Néel đã chỉ ra rằng, với các hạt đơn đômen có kích thước đủ nhỏ, khi
năng lượng dao động nhiệt E = k BT (trong đó k B là hằng số Bolzmant, T là nhiệt
độ) lớn hơn năng lượng dị hướng E = KV (K hằng số dị hướng từ tinh th ể, V
thể tích hạt) thì mômen từ tự phát của hạt có thể thay đổi từ hướ ng từ hóa
dễ này sang hướng từ hóa dễ khác ngay cả khi không có từ trườ ng ngoài.
Trần Xuân Hoàng
10
Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 1.11: Cơ chế đảo từ của hạt từ nhỏ
Nhiệt độ tới hạn TB của các hạt tinh thể đơn trục kích thước không đổi, được
tính theo công thức:
TB =
KV
25k B
(1.8)
Lực kháng từ lúc này được tính theo công thức:
1/2
� �T �
� (1.9)
H C (T ) = H C (0) �
1− � � �
T
�
� �B � �
�
Vậy là với hạt nano từ, trạng thái siêu thuận từ có liên quan mật thiết tới
nhiều thông số, trong đó TB có một ý nghĩa quan trọng mà các nghiên cứu
thường rất quan tâm.
1.3. Một số ứng dụng của pherit ganet.
Hiện nay vật liêu nano từ pherit ganet đang được nghiên cứu và ứng
dụng mạnh mẽ các lĩnh vực y học, quang học, điện tử...
Trong y học, các hạt nano từ là vật liệu thích hợp cho phương pháp nhiệt
trị ung thư. Đây là phương pháp đốt nóng các tế bào ung thư lên nhiệt độ thích
hợp để tiêu diệt chúng mà không ảnh hưởng đến các tế bào bình thường xung
quanh. Các hạt nano YIG khi đặt trong từ trường tần số cao có hiện tượng nóng
lên cục bộ do sự hấp thụ năng lượng của từ trường tần số cao. Nghiên cứu cho
thấy các hạt đa tinh thể YIG kích thước khoảng 100 nm khi đặt trong từ trường
35,5 Oe và tần số 100 GHz thì nhiệt độ của chúng tăng lên 8 K so với nhiệt độ
ban đầu là nhiệt độ phòng. Đối với đơn tinh thể YIG, với ngưỡng từ trường 4
Oe và đặt trong trường cao tần 4,1 Oe, nhiệt độ của các hạt này có thể tăng lên
15 K. Do đó, chúng hứa hẹn các ứng dụng trong y học, là vật liệu thích hợp cho
phương pháp nhiệt trị để chữa trị cho các bệnh nhân mắc bệnh ung thư.
Trần Xuân Hoàng
11
Luận văn thạc sĩ khoa học
Trần Xuân Hoàng
12
Luận văn thạc sĩ khoa học
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM
2.1. Phương pháp chế tạo hạt nano Y3xGdxFe5O12
Tính chất của các hạt nano từ tính không chỉ phụ thuộc vào thành phần,
cấu trúc tinh thể, bản chất liên kết mà còn phụ thuộc vào phương pháp, quy
trình và các thông số kĩ thuật trong quá trình chế tạo. Có hai cách tiếp cận để
chế tạo các hạt nano từ:
Giảm kích thước vật liệu khối xuống kích thước nanomet (hay còn gọi
là
topdown). Theo con đường này, các phương pháp thường được sử dụng như:
nghiền bi hành tinh, nghiền rung,…
Tạo các hạt nano từ các nguyên tử, phân tử (hay còn gọi là bottomup).
Các phương pháp thường sử dụng theo con đường này bao gồm các phương
pháp vật lý (phún xạ, bốc bay,…) và phương pháp hóa học (đồng kết tủa từ
dung dịch, vi nhũ tương, đồng kết tủa từ pha hơi, thủy nhiệt, solgel,…)
Trong luận văn này, phương pháp chế tạo các mẫu nghiên cứu được lựa
chọn là phương pháp solgel.
Phương pháp solgel là phương pháp tổng hợp hóa học, rất thích hợp để
chế tạo các vật liệu dạng hạt hoặc dạng màng. So với các phương pháp vật lý
hoặc phương pháp gốm thì phương pháp solgel chỉ cần chế tạo mẫu ở nhiệt độ
thấp hơn, thiết bị đơn giản hơn.
2.2. Các phương pháp nghiên cứu cấu trúc và tính chất từ.
2.2.1. Phương pháp phân tích nhiệt DTATGA
2.2.2. Phổ hấp thụ hồng ngoại FT – IR.
2.2.3. Phương pháp nhiễu xạ tia X.
2.2.4. Ảnh hiển vi điện tử quét.
2.2.5 Phương pháp đo tính chất từ bằng từ kế mẫu rung
Trần Xuân Hoàng
13
Luận văn thạc sĩ khoa học
Từ kế mẫu rung (VSM: Vibrating Sample Magnetometer) có nguyên lý
hoạt động dựa trên định luật cảm ứng điện từ: khi có một vật có mômen từ M
dao động cạnh cuộn dây sẽ gây ra trong cuộn dây một suất điện động cảm ứng tỉ
lệ với M. Do đó, mẫu đo có từ tính được gắn vào đầu một thanh rung không từ,
đặt giữa hai cuộn dây nhỏ giống nhau nhưng cuốn ngược chiều, mắc nối tiếp.
Tất cả hệ được đặt giữa hai cực của một nam châm điện. Khi mẫu dao động, hai
đầu các cuộn dây sẽ xuất hiện suất điện động. Hệ từ kế mẫu rung (VSM) được
sử dụng trong luận án này là DMS 880 đặt tại Viện ITIMS, trường Đại học Bách
khoa Hà Nội và Trung tâm Khoa học Vật liệu, trường Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc gia Hà nội với các thông số kĩ thuật chính như sau:
Từ trường tối đa: 13,5 kOe, bước thay đổi từ trường: 1Oe.
Độ nhạy: 105 emu.
Dải nhiệt độ đo: 77 ÷ 800 K (lò mẫu được thổi bằng khí nitơ sạch).
Trần Xuân Hoàng
14
Luận văn thạc sĩ khoa học
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1.Cấu trúc của hạt nano Y3xGdxFe5O12
3.1.1. Giản đồ phân tích nhiệt.
Phép đo phân tích nhiệt vi sai được tiến hành đối với mẫu gel sau khi chế
tạo để nghiên cứu sự hình thành xerogel, quá trình cháy xerogel và nhiệt độ hình
thành pha pherit ganet thông qua các quá trình thu và tỏa nhiệt khi đốt mẫu gel.
Hình 3.1 là giản đồ TG DTA đối với mẫu gel YIG, thực hiện trong dải nhiệt độ
từ nhiệt độ phòng đến 800oC, tốc độ quét 10oC/phút.
Trần Xuân Hoàng
15
Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.1. Giản đồ phân tích nhiệt của mẫu gel YIG
Đường cong TG cho thấy khối lượng mẫu giảm ~ 26% trong vùng nhiệt
độ từ 20150oC và có sự thu nhiệt ở quanh vùng nhiệt độ 148 oC trên đường DTA
tương ứng với quá trình giảm khối lượng này. Hiện tượng này được xác định là
do quá trình bay hơi nước còn lại trong gel. Giai đoạn tiếp theo, khối lượng mẫu
giảm thêm ~ 30%, tương ứng với sự tỏa nhiệt ở cực đại 169oC trên đường DTA.
Quá trình này là quá trình khử nước từ các hydroxyt. Khi tiếp tục tăng nhiệt độ,
khối lượng của mẫu giảm thêm ~12%, tương ứng với vùng tỏa nhiệt đạt cực đại
tại 312oC có thể được giải thích là do sự cháy của các gốc hữu cơ. Theo giản đồ
này, ở nhiệt độ trên 400oC, quá trình phân hủy các hydroxyt và bốc bay của các
Trần Xuân Hoàng
16
Luận văn thạc sĩ khoa học
chất hữu cơ đã xảy ra hoàn toàn, khối lượng mẫu sau đó không đổi khi tăng nhiệt
độ lên 800oC. Do đó, nhiệt độ được lựa chọn để tiến hành đốt gel là 400oC để
đảm bảo các chất hữu cơ đã cháy hoàn toàn. Gel sau khi đốt được nghiền mịn
bằng cối mã não và nung thiêu kết trong 5 giờ để thu được các mẫu hạt nano
pherit.
3.1.2. Kết quả đo nhiễu xạ tia X.
Cấu trúc tinh thể và pha của các mẫu hạt Y3xGdxFe5O12 chế tạo theo
phương pháp sol – gel được nghiên cứu qua phổ nhiễu xạ tia X và so sánh với
phổ chuẩn 12063 – 5 – 68. Tiến hành đo phổ nhiễu xạ tia X các mẫu hạt Y 3
GdxFe5O12 sau khi ủ ở nhiệt độ 800oC ta thu được kết quả như trong hình 3.2.
x
Theo kết quả nhiễu xạ tia X, các mẫu hoàn toàn đơn pha với các đỉnh nhiễu xạ
đặc trưng cho cấu trúc ganet tại các mặt phản xạ ( 400), (420), (422), (521), (532),
(444), (640), (642), (800), (840), và (842) phù hợp với phổ chuẩn. Các đỉnh nhiễu
xạ mở rộng, chứng tỏ các mẫu ở kích thước nano mét. Giản đồ nhiễu xạ tia X
cũng chỉ ra sự giảm góc nhiễu xạ khi tăng nồng độ Gd pha tạp.
Mật độ khối lượng của các hạt nano Y3xGdxFe5O12 có thể tính được thông
qua giá trị hằng số mạng a theo công thức:
ρ=
8M
N A a3
g/cm3)
Trong đó M là khối lượng mol (g), 8 là số đơn vị công thức trên 1 ô đơn vị,
a là hằng số mạng và NA là số Avogadro. Bảng 3.1 dưới đây chỉ ra các kết quả
tính toán a và D của các mẫu hạt Y3xGdxFe5O12 (x = 0; 1; 1,5; 2; 2,5; 3).
3.1.2. Kết quả phân tích ảnh FESEM.
Kích thước và hình thái học của các mẫu hạt Y3xGdxFe5O12 đơn pha được
quan sát trên kính hiển vi điện tử quét (FESEM). Ảnh chụp FESEM của các mẫu
hạt nano Y2GdFe5O12 và Y1Gd2Fe5O12 được trình bày trên hình 3.3 và 3.4.
Trần Xuân Hoàng
17
Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.4: Ảnh FESEM của các mẫu hạt Y1Gd2Fe5O12
Kết quả ảnh chụp FESEM trên hình 3.3 và 3.4 cho thấy các hạt
Y2GdFe5O12 và Y1Gd2Fe5O12 có kích thước trong khoảng 30 nm đến 70 nm. Các
mẫu còn lại cũng có kết quả tương tự. Như vậy kích thước tinh thể trung bình
tính theo công thức (2.4) nằm trong dải kích thước quan sát được bằng ảnh
FESEM.
3.1.3 Kết quả phân tích phổ hấp thụ hồng ngoại FT – IR.
Hình 3.5 và hình 3.6 là kết quả phân tích phổ hấp thụ hồng ngoại của các
mẫu hạt nano Y2.5Gd0.5Fe5O12 và Y2GdFe5O12.
Trần Xuân Hoàng
18
Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.6: Phổ hồng ngoại của mẫu hạt nano Y2,5Gd0,5Fe5O12 . Hình nhỏ
mô tả phổ hồng ngoại của mẫu trong dải số sóng 400 – 600 cm1.
Theo phổ này ta thấy trong dải số sóng từ 550 – 587 xuất hiện các dao
động đặc trưng của liên kết Fe – O trong phân mạng tứ diện và bát diện. Các dao
của nguyên tố Y và Gd với O trong phân mạng c nằm ở vùng dưới 400 cm1 nên
không quan sát thấy trong phổ này. Điều này chứng tỏ mẫu đã chế tạo được có
cấu trúc của pherit ganet với các dao động đặc trưng của phân mạng tứ diện và
bát diện.
3.2. Tính chất từ của các hạt nano Y3xGdxFe5O12.
3.2.1. Từ độ.
Tính chất từ của các mẫu hạt nano Y3xGdxFe5O12 ( x=1; 1,5; 2; 2,5) được
nghiên cứu dựa trên các đường cong từ hóa mô tả sự phụ thuộc của từ độ M vào
từ trường ngoài H được khảo sát trong vùng nhiệt độ thấp (từ 88 K đến 273 K)
và vùng nhiệt độ cao (từ 300 K đến 570 K) với từ trường cực đại 10 kOe.
Trên hình 3.7, 3.8, 3.9 và 3.10 là các đường cong từ hóa của các mẫu hạt
nano Y3xGdxFe5O12 (x=1; 1,5; 2; 2,5) đo ở vùng nhiệt độ thấp và nhiệt độ cao. Các
Trần Xuân Hoàng
19
Luận văn thạc sĩ khoa học
đường cong M(H) thấy rằng tất cả các mẫu là vật liệu từ mềm đạt gần đến
trạng thái bão hòa ở vùng từ trường trên 2 kOe, sau đó giá trị mômen tăng chậm
theo từ trường ngoài. Với từ trường tối đa của thiết bị đo là 10 kOe thì mômen từ
của các mẫu đều chưa đạt đến giá trị bão hòa.
Việc so sánh đường cong từ hóa của các mẫu hạt nano Y3xGdxFe5O12 (x=1;
1,5; 2; 2,5) ở nhiệt độ 88 K được thể hiện như trên hình 3.11.
Hình 3.11: Đường cong từ hóa của các mẫu hạt nano Y3xGdxFe5O12
( x= 1; 1,5;2; 2,5) tại các nhiệt độ 88 K.
3.2.2. Nhiệt độ Curie.
Từ giá trị mômen từ tự phát ở các nhiệt độ khác nhau tính được dựa theo
các đường cong từ hóa ta vẽ được đường biểu diễn sự phụ thuộc vào nhiệt độ
của Ms như dưới hình 3.12. Để tiện cho việc phân tích về từ độ của các phân
mạng, ở đây chúng tôi biểu diễn Ms theo đơn vị emu/cm3. Nhiệt độ Curie TC của
các hạt nano Y3xGdxFe5O12 được xác định dựa trên các đường cong từ nhiệt Ms(T).
Trần Xuân Hoàng
20
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nhiệt độ TC được xác định là giao điểm của đường tiếp tuyến tại độ dốc lớn
nhất của đường Ms(T) với trục nằm ngang ở vùng nhiệt độ cao. Các mẫu hạt
nano có nhiệt độ TC khoảng 560 K.
Y3Fe5O12
Y2Gd1Fe5O12
300
Y1.5Gd1.5Fe5O12
)
Y1Gd2Fe5O12
M s (emu/cm
3
Y0.5Gd2.5Fe5O12
Gd3Fe5O12
200
100
0
0
100
200
300
400
500
600
T (K)
Hình 3.12: Mômen từ tự phát Ms phụ thuộc nhiệt độ của các mẫu hạt nano
Y3xGdxFe5O12 (x = 0;1;1.5;2;2.5;3)
3.2.3. Nhiệt độ bù trừ Tcomp
Từ đồ thị sự phụ thuộc nhiệt độ của mômen từ bão hòa Ms trên hình 3.12,
ngoại trừ mẫu Y3Fe5O12 ta thấy ban đầu từ độ của các mẫu giảm khi nhiệt độ
tăng đến một nhiệt độ nhất định (nhiệt độ bù trừ) thì Ms sẽ bằng không. Tuy
nhiên tiếp tục tăng nhiệt độ thì Ms lại tăng lên và cuối cùng trở về không ở nhiệt
độ Curie (trạng thái thuận từ). Điều này là do ion Gd3+ đã thay thế ion Y3+ ở phân
mạng c tạo thành ba phân mạng từ trong tinh thể Y3xGdxFe5O12.
Bảng 3.3: Nhiệt độ Curie TC và nhiệt độ bù trừ Tcomp của các mẫu hạt
nano
Trần Xuân Hoàng
21
Luận văn thạc sĩ khoa học
Y3xGdxFe5O12 (x = 0;1;1.5;2;2.5;3)
x
0
1
1,5
2
2,5
3
TC
560
560
560
560
560
560
Tcomp
80
115
165
205
290
M c (emu/cm 3 )
600
Gd3Fe5O12
500
Y0.5Gd2.5Fe5O12
400
Y1.5Gd1.5Fe5O12
Y1Gd2Fe5O12
Y2Gd1Fe5O12
300
200
100
0
0
100
200
300
400
500
600
T (K)
Hình 3.13: Từ độ của phân mạng c phụ thuộc nhiệt độ của các mẫu hạt
nano Y3xGdxFe5O12 (x= 1;1.5;2;2.5;3)
Đồ thị trên hình 3.13 cho thấy từ độ của phân mạng c tăng theo nồng độ
Gd pha tạp do các ion Y3+ trong phân mạng c đã được thế chỗ bởi các ion Gd3+ có
từ tính. Ta có thể thây so với các phân mạng sắt đối với mẫu Y 3Fe5O12 thì các
phân mạng Gd giảm rất nhanh theo nhiệt độ và đây là nguyên nhân xuất hiện
Trần Xuân Hoàng
22
Luận văn thạc sĩ khoa học
nhiệt bù trừ trong vật liệu. Mẫu có nồng độ Gd càng thấp thì Tcomp có giá trị càng
giảm.
Trần Xuân Hoàng
23