Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Khảo sát ý kiến phản hồi của sinh viên chuyên ngành tiếng Trung thương mại về chương trình giảng dạy khối kiến thức tiếng Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.25 KB, 10 trang )

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

KHẢO SÁT Ý KIẾN PHẢN HỒI CỦA SINH VIÊN
CHUYÊN NGÀNH TIẾNG TRUNG THƯƠNG MẠI
VỀ CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY
KHỐI KIẾN THỨC TIẾNG TRUNG QUỐC
HOÀNG THANH HƯƠNG *
Đại học Ngoại thương, ✉
Ngày nhận bài: 11/12/2017; ngày sửa chữa: 22/02/2018; ngày duyệt đăng: 28/02/2018
*

TÓM TẮT
Khối kiến thức tiếng Trung Quốc trong Khung chương trình giảng dạy cho sinh viên chuyên
ngành tiếng Trung thương mại tại Khoa tiếng Trung Quốc trường Đại học Ngoại thương gồm 27
môn học, với thời lượng mỗi môn 54 tiết (chia 18 buổi học), được sắp xếp theo mức độ tăng dần
về kiến thức và kỹ năng. Tuy nhiên, nhiều sinh viên cảm thấy số lượng, thời lượng và cách sắp
xếp một số môn học chưa thực sự hợp lý. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã khảo
sát lấy ý kiến phản hồi của sinh viên về ba nội dung “số lượng môn học”, “thời lượng môn học”
và “cách sắp xếp môn học” trong chương trình giảng dạy khối kiến thức tiếng Trung Quốc. Kết
quả nghiên cứu này sẽ giúp Khoa tiếng Trung Quốc trường Đại học Ngoại thương nắm bắt nhu
cầu học tập của sinh viên và có định hướng điều chỉnh phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả học tập
cho sinh viên.
Từ khóa: chương trình giảng dạy tiếng Trung Quốc, khảo sát, tiếng Trung thương mại

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiếng Trung Quốc từ lâu đã được đưa vào
giảng dạy tại nhiều trường đại học ở Việt Nam,
trong đó có trường Đại học Ngoại thương. Năm
học 2006-2007, Khoa tiếng Trung Quốc trường
Đại học Ngoại thương bắt đầu tuyển sinh chuyên
ngành tiếng Trung thương mại theo quyết định số


4866/QĐ-BGH-ĐT ngày 13 tháng 8 năm 2005
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đây chính
là mốc đánh dấu điểm khác biệt giữa Khoa tiếng
Trung Quốc trường Đại học Ngoại thương với các
khoa có đào tạo chuyên ngành tiếng Trung thuộc
các trường đại học khác. Bởi vì, đồng thời với việc

học kiến thức ngôn ngữ thông thường, sinh viên
Khoa tiếng Trung Quốc trường Đại học Ngoại
thương còn được cung cấp thêm kiến thức ngôn
ngữ chuyên ngành kinh tế thương mại. Trước các
yêu cầu ngày càng cao của xã hội về chất lượng
đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực, Khoa tiếng
Trung Quốc trường Đại học Ngoại thương cũng đã
đặt ra các yêu cầu đổi mới về chương trình giảng
dạy nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cũng
như hiệu quả học tập cho sinh viên chuyên ngành
tiếng Trung thương mại. Đây cũng là lý do nhóm
nghiên cứu đi sâu tìm hiểu các ý kiến phản hồi của
sinh viên về chương trình giảng dạy tiếng Trung
thương mại.
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 12 - 3/2018

85


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
2. TỔNG QUAN VỀ CHƯƠNG TRÌNH

GIẢNG DẠY TIẾNG TRUNG THƯƠNG MẠI
TẠI KHOA TIẾNG TRUNG QUỐC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Giảng dạy tiếng Trung thương mại là chương
trình đào tạo cử nhân chính quy tập trung được áp
dụng cho sinh viên thi đầu vào thuộc ngành Ngôn
ngữ Trung, chuyên ngành tiếng Trung thương mại
(TTTM) tại Khoa tiếng Trung Quốc trường Đại
học Ngoại thương (KTTQ – ĐHNT). Theo Khung
chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ (Quyết
định số 2360/QĐ-ĐHNT-QLKH ngày 30 tháng 12
năm 2014 của Hiệu trưởng trường Đại học Ngoại
thương), chuyên ngành TTTM có tổng số lượng
kiến thức toàn khóa 139 tín chỉ, trong đó: 37 tín chỉ
thuộc Khối kiến thức giáo dục đại cương (26,62%),
là các kiến thức chung trong chương trình đào tạo
cử nhân, cung cấp cho sinh viên kiến thức nền

tảng, trang bị cho sinh viên kỹ năng, phương pháp
luận, nhân sinh quan và thế giới quan để học tập và
nghiên cứu; 102 tín chỉ thuộc Khối kiến thức giáo
dục chuyên nghiệp (73,38%), bao gồm các kiến
thức ngành (57 tín chỉ), kiến thức chuyên ngành
(18 tín chỉ), kiến thức bổ trợ tự chọn và bắt buộc
(15 tín chỉ), thực tập giữa khóa (3 tín chỉ) và học
phần tốt nghiệp (9 tín chỉ).
Theo cách phân bổ ở trên, trong tổng số 102 tín
chỉ thuộc Khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp,
sinh viên chuyên ngành TTTM có 78 tín chỉ (TC)
dành cho việc học kiến thức tiếng Trung Quốc,

bao gồm 27 môn học được sắp xếp trong 8 học kỳ
thuộc 4 năm học. Như vậy, mỗi môn học có từ 2
đến 3 TC, được thực hiện trong 18 buổi học (tương
đương 54 tiết). Các môn học thuộc khối kiến thức
tiếng Trung Quốc được sắp xếp giảng dạy từ năm
thứ nhất cho đến năm thứ tư như bảng 1:

Bảng 1. Bảng khái quát về chương trình giảng dạy các khối kiến thức tiếng Trung Quốc cho sinh
viên chuyên ngành tiếng Trung thương mại

Năm học

Khối kiến thức

Môn học

78TC

Năm thứ 1

Kiến thức tiếng

- Tiếng Trung Quốc cơ bản 1,2
- Tiếng Trung Quốc tổng hợp 1,2,3,4

18

Năm thứ 2

Kiến thức tiếng


- Nghe 1,2
- Nói 1,2
- Đọc hiểu 1,2
- Viết 1
- Ngữ âm – Văn tự TTQ
- Từ vựng học TTQ
- Ngữ pháp học TTQ
- Đất nước học
- Văn hóa giao tiếp kinh doanh

21

Năm thứ 3

Kiến thức ngôn ngữ
Kiến thức đất nước – văn hóa

Năm thứ 4

6
6

Kiến thức chuyên ngành tiếng - Ngôn ngữ kinh tế thương mại 1,2
Trung thương mại

6

Kiến thức tiếng (liên quan - Viết 2
chuyên ngành

- Nghe 3
- Nói 3
Kiến thức chuyên ngành tiếng - Ngôn ngữ kinh tế thương mại 3,4
Trung thương mại
- Ngôn ngữ kinh tế thương mại 5,6 (Dịch)

9
12

Nguồn: Khung chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ

86

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 2 - 3/2018


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

Tuy nhiên, với số lượng 27 môn học tiếng
Trung Quốc (78 tín chỉ), thời lượng mỗi môn 54
tiết (18 buổi học) và được sắp xếp theo các mức
độ (kiến thức từ cơ sở đến chuyên ngành; kỹ năng
từ cơ bản đến nâng cao), nhiều sinh viên chuyên
ngành TTTM tại KTTQ – ĐHNT vẫn cảm thấy
chưa thực sự hợp lý và mong muốn có sự điều
chỉnh về số lượng, thời lượng và cách sắp xếp một
số môn học. Xuất phát từ vấn đề này, nhóm nghiên
cứu đã phát phiếu khảo sát, thu thập ý kiến phản

hồi của sinh viên về ba nội dung “số lượng môn
học”, “thời lượng môn học” và “cách sắp xếp môn
học” trong chương trình giảng dạy khối kiến thức
tiếng Trung Quốc, để Khoa và Nhà trường có sự
nắm bắt kịp thời nhu cầu học tập của sinh viên
và có sự điều chỉnh phù hợp nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy và hiệu quả học tập cho sinh viên.
3. PHẢN HỒI CỦA SINH VIÊN CHUYÊN
NGÀNH TIẾNG TRUNG THƯƠNG MẠI VỀ
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY CÁC KHỐI
KIẾN THỨC TIẾNG TRUNG QUỐC
Trong quá trình thu thập thông tin phản hồi về
ba nội dung “số lượng môn học”, “thời lượng môn
học” và “cách sắp xếp môn học” trong chương
trình giảng dạy (CTGD) khối kiến thức tiếng Trung
Quốc, để việc lấy ý kiến phản hồi được chính xác
và khách quan, chúng tôi đã đồng thời khảo sát
hai nhóm đối tượng sinh viên: Thứ nhất là sinh
viên chưa tốt nghiệp, bao gồm ý kiến phản hồi từ

sinh viên năm thứ nhất đến sinh viên năm thứ tư;
Thứ hai là sinh viên đã tốt nghiệp, bao gồm ý kiến
phản hồi của sinh viên 5 khóa gần nhất K48, 49,
50, 51, 52. Sau đây là kết quả nghiên cứu của bài
viết dựa trên thông tin phản hồi của hai nhóm sinh
viên được khảo sát:
3.1. Phản hồi của sinh viên chưa tốt nghiệp
3.1.1. Về chương trình giảng dạy năm thứ nhất
Như đã trình bày tại Bảng 1, năm thứ nhất sinh
viên chuyên ngành TTTM sẽ có 6 môn học thuộc

khối kiến thức tiếng, bao gồm: 2 môn Tiếng Trung
Quốc cơ bản (1-2), với nhiệm vụ cung cấp kiến
thức ngôn ngữ cơ sở về ngữ âm, chữ Hán, từ vựng
và ngữ pháp ở trình độ sơ cấp cho sinh viên, từ
đó tạo tiền đề để sinh viên giao tiếp cơ bản và là
cơ sở để học lên các học phần tiếp theo; 4 môn
tiếng Trung Quốc tổng hợp (1-2-3-4), với nhiệm
vụ cung cấp kiến thức ngôn ngữ mở rộng và nâng
cao cho sinh viên, đồng thời trang bị thêm cho sinh
viên một lượng kiến thức nhất định về lịch sử và
văn hóa xã hội Trung Quốc, tạo tiền đề cho sinh
viên thực hành giao tiếp nâng cao. Để hiểu hơn
quan điểm của sinh viên về việc phân bổ số lượng,
thời lượng và cách sắp xếp các môn học trong năm
thứ nhất, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát
51 sinh viên đã kết thúc các học phần năm thứ nhất
và chúng tôi tổng hợp kết quả phản hồi tại bảng 2:

Bảng 2. Phản hồi của sinh viên về chương trình giảng dạy năm thứ nhất

Nội dung đánh giá

Phản hồi của SV
Đồng ý

Không đồng ý

Số lượng môn học

40 (78,4%)


11 (21,6%)

Thời lượng môn học

34 (66,6%)

17 (33,4%)

Sắp xếp môn học

51 (100%)

0 (0%)

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ phiếu khảo sát của bài viết
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 12 - 3/2018

87


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Theo bảng trên, 100% sinh viên đã nhất trí với
cách sắp xếp các môn học, tuy nhiên chưa phải tất
cả sinh viên đều đã hài lòng về số lượng và thời
lượng môn học cho năm thứ nhất. Bên cạnh 78,4%
và 66,6% sinh viên cảm thấy hài lòng về số lượng
và thời lượng các môn học, còn có 21,6% sinh viên

không nhất trí về số lượng môn học và 33,4 %
không nhất trí về thời lượng môn học. Cụ thể, có
11 sinh viên cho ý kiến: “Cắt giảm các môn tiếng
Trung cơ bản, tăng thời lượng các môn nâng cao”
đối với sinh viên thi đầu vào bằng tiếng Trung, đặc
biệt những sinh viên từng học chuyên ngoại ngữ
tiếng Trung từ 4 đến 7 năm, vì nhiều kiến thức
tiếng Trung các em đã được học từ giai đoạn phổ
thông; Ngược lại, 17 sinh viên cho ý kiến “tăng
thời lượng tiếng Trung cơ bản cho các sinh viên
thi đầu vào bằng tiếng Anh vì với số lượng và thời
lượng môn học được phân bổ hiện tại sinh viên
cảm thấy không đủ. Từ những ý kiến này, nhóm
nghiên cứu có thể đánh giá nhu cầu điều chỉnh số
lượng và thời lượng các môn học tiếng Trung cho
năm thứ nhất xuất phát từ sự khác nhau ở đầu vào

của sinh viên. Đối với những sinh viên đã học tiếng
Trung nhiều năm trước khi vào đại học thì các em
không có nhu cầu học lại các kiến thức tiếng Trung
cơ bản mà muốn thay thế các môn học này bằng
các môn học nâng cao. Còn đối với những sinh
viên thi đầu vào bằng tiếng Anh, thì việc bắt đầu
với những môn học này là rất cần thiết và các em
mong muốn được tăng thêm số lượng cũng như
thời lượng môn học để có thể chắc chắn các kiến
thức cơ bản ngay từ khi mới tiếp cận.
3.1.2. Về chương trình giảng dạy năm thứ hai
Chương trình giảng dạy cho năm thứ hai gồm
các môn: Nghe, Nói, Đọc, Viết tiếng Trung Quốc,

được phân bổ thành các cấp độ từ dễ đến khó:
Nghe 1-2, Nói 1-2, Đọc 1-2 và Viết 1, với mục tiêu
trang bị, rèn luyện các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ
và cung cấp thêm các kiến thức kinh tế văn hóa xã
hội. Đối với vấn đề phân bổ số lượng, thời lượng
và cách sắp xếp các môn học Nghe, Nói, Đọc, Viết
cho năm thứ hai, 65 sinh viên được khảo sát cho ý
kiến như sau: (xem bảng 3)

Bảng 3. Phản hồi của sinh viên về chương trình giảng dạy năm thứ hai

Nội dung đánh giá

Phản hồi của SV
Đồng ý

Không đồng ý

Số lượng môn học

55 (84,6%)

10 (15,4%)

Thời lượng môn học

47 (72,3%)

18 (27,7%)


Sắp xếp môn học

65 (100%)

0 (0%)

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ phiếu khảo sát của bài viết
Bảng trên phản ánh, đa số sinh viên
(72,3%~84,6%) thấy số lượng và thời lượng các
môn Nghe, Nói, Đọc, Viết được phân bổ trong
năm thứ hai là phù hợp, 100% sinh viên nhất trí
các môn học được sắp xếp hợp lý trong năm học.
Tuy nhiên, một số sinh viên cho rằng, các môn học
kỹ năng thực sự rất cần thiết, nhưng với thời lượng
18 buổi lên lớp, mỗi buổi 3 tiết cho một môn học,
các em thấy lượng kiến thức thu nhận được ở mỗi
buổi học còn ít, sinh viên sau khi kết thúc học phần
vẫn còn khó khăn khi vận dụng các kỹ năng Nghe,

88

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 2 - 3/2018

Nói, Đọc, Viết trong các tình huống giao tiếp. Do
đó, có 27,7% sinh viên mong muốn tăng thêm thời
lượng cho các môn Nghe, Nói, Viết. Đồng thời,
cũng có 15,4% sinh viên muốn điều chỉnh giảm
bớt số môn Đọc hiểu vì theo các em môn học này

có thể tự học ở nhà. Từ phản hồi trên của sinh viên
cho thấy, các em đã nhận thức được vai trò của
các môn học kỹ năng trong thực tế giao tiếp và có
nhu cầu tăng thêm thời lượng các môn Nghe, Nói,
Viết để có thể nâng cao hơn nữa năng lực sử dụng
ngôn ngữ.


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

3.1.3. Về chương trình giảng dạy năm thứ ba
Theo sự sắp xếp của Khoa tiếng Trung Quốc
và các Bộ môn trực thuộc, đến năm thứ ba sinh
viên chuyên ngành TTTM sẽ được học tất cả 10
môn tiếng Trung, tổng hợp nhiều khối kiến thức
liên quan đến chuyên ngành, bao gồm: 3 môn cung
cấp kiến thức lý luận ngôn ngữ (Ngữ Âm – Văn
tự, Từ vựng học, Ngữ pháp học), giúp sinh viên
hệ thống những kiến thức đã học trong các học
phần thực hành tiếng, cung cấp cho sinh viên các
kiến thức lý luận về ngữ âm – văn tự, từ vựng và
ngữ pháp, nâng cao khả nãng thực hành ngôn ngữ
cũng như khả năng nghiên cứu các vấn đề liên
quan; 2 môn cung cấp kiến thức đất nước và văn
hóa (Đất nước học, Văn hóa giao tiếp kinh doanh),
trang bị cho sinh viên các kiến thức về đất nước,
con người, phong tục tập quán, văn hóa và nghi

thức kinh doanh với người bản xứ để sinh viên
có kiến thức nền phục vụ giao tiếp nói chung và

giao tiếp thương mại nói riêng với người Trung
Quốc; 2 môn cung cấp kiến thức chuyên ngành
tiếng Trung thương mại (Ngôn ngữ kinh tế thương
mại 1-2) và 3 môn trang bị kỹ năng nâng cao, có
nội dung hỗ trợ chuyên ngành (Nghe hiểu 3, Viết
2, Nói 3). Đây là những môn học trực tiếp cung
cấp kiến thức chuyên ngành cho sinh viên, giúp
sinh viên vận dụng giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh
vực chuyên môn và có thể sử dụng uyển chuyển
ngôn ngữ chuyên ngành trong môi trường thương
mại quốc tế.
Khi được lấy ý kiến phản hồi về chương trình
giảng dạy, 37 sinh viên năm thứ ba đưa ra quan
điểm như sau: (xem bảng 4)

Bảng 4. Phản hồi của sinh viên về chương trình giảng dạy năm thứ ba

Nội dung đánh giá
Số lượng môn học
Thời lượng môn học
Sắp xếp môn học

Phản hồi của SV
Đồng ý

Không đồng ý

22 (59,4%)

15 (40,6%)


26 (70,2)

11 (29,8%)

17 (45,9%)

20 (54,1%)

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ phiếu khảo sát của bài viết
Theo nhiều em sinh viên, số lượng, thời lượng
và cách sắp xếp môn học giữa hai học kỳ trong
năm thứ ba chưa thực sự hợp lý và cần thiết có sự
điều chỉnh. Về số lượng môn học, 40,6 % sinh viên
cho ý kiến: Thứ nhất, bỏ môn Ngữ âm – Văn tự, vì
các em cảm thấy lý thuyết môn Ngữ Âm – Văn tự
rất khó học, hơn nữa môn học thuần túy kiến thức
lý luận ngôn ngữ, tính ứng dụng của môn học cho
sinh viên chuyên ngành TTTM tại Đại học Ngoại
thương không nhiều, các em muốn đổi môn học
này thành môn Dịch. Thứ hai, gộp môn Đất nước
học với một môn học khác vì theo các em nội dung
giảng dạy cho môn học này nên gọn lại, không
cần thiết phải kéo dài đến 18 buổi học. Về thời
lượng môn học, 29,8% sinh viên muốn rút ngắn

thời gian học các môn Đất nước học và Văn hóa
giao tiếp kinh doanh. Ngoài ra, sinh viên cũng
muốn tăng số tín chỉ cho các môn Từ vựng học và
Ngữ pháp học từ 02 TC lên thành 03 TC, vì hiện

tại số buổi học và số tiết học các môn này cũng
bằng với các môn học 3 TC khác. Về việc sắp xếp
môn học, 54,1% sinh viên thấy rằng, việc phân bổ
các môn cung cấp kiến thức lý luận ngôn ngữ (lý
thuyết tiếng) tập trung vào Học kỳ 1 của năm thứ
ba là thực sự chưa hợp lý, vì các em phải học cùng
lúc nhiều môn lý thuyết với độ khó cao. Theo các
em sinh viên, môn Ngữ âm – Văn tự nên sắp xếp
học vào năm thứ nhất để giúp các em ngay từ khi
mới bắt đầu có nền tảng ngữ âm vững chắc, còn
các môn Từ vựng học và Ngữ pháp học thì nên sắp
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 12 - 3/2018

89


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
xếp giảng dạy lần lượt vào hai học kỳ của năm thứ
ba. Từ các ý kiến này của các em sinh viên năm
thứ ba, nhóm nghiên cứu thấy rằng ,các ý kiến điều
chỉnh của sinh viên chủ yếu tập trung vào hai khối
kiến thức (kiến thức lý luận ngôn ngữ và kiến thức
đất nước-văn hóa), trong đó nổi bật là ý kiến phân
bổ các môn học mang tính lý luận giữa các học kỳ
sao cho hợp lý để sinh viên có thể tiếp nhận kiến
thức với hiệu quả cao nhất, đồng thời giảm bớt 01
môn cung cấp kiến thức lý luận ngôn ngữ (Ngữ âm
– Văn tự) và điều chỉnh rút gọn thời lượng hai môn

cung cấp kiến thức đất nước-văn hóa (Đất nước
học và Văn hóa giao tiếp kinh doanh) để sinh viên
có thêm thời lượng học một môn học khác thực tế
và phù hợp với chuyên ngành TTTM hơn (chẳng
hạn như môn Dịch).
3.1.4. Về chương trình giảng dạy năm thứ tư
Ngay từ năm thứ ba, sinh viên chuyên ngành
TTTM đã được làm quen với 2 môn chuyên ngành

(Ngôn ngữ kinh tế thương mại 1-2) và 3 môn kỹ
năng (Nghe hiểu 3, Viết 2, Nói 3) bổ trợ chuyên
ngành với cường độ tăng dần. Đây chính là bước
đệm để các em sinh viên bước vào năm thứ tư –
một năm học then chốt với các môn học chuyên
ngành có nội dung khó hơn, bao gồm kiến thức
của các lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng, đầu
tư quốc tế… và đòi hỏi sinh viên có trình độ kỹ
năng cao hơn. Theo cách sắp xếp môn học trong
chương trình Khung, sinh viên sẽ tập trung học các
môn Ngôn ngữ kinh tế thương mại 3,4; Ngôn ngữ
kinh tế thương mại 5,6 (Dịch) vào Học kỳ 1 năm
thứ tư. Còn Học kỳ 2, sinh viên có nhiệm vụ hoàn
thành báo cáo thực tập tốt nghiệp hoặc khoá luận
tốt nghiệp.
Để hiểu rõ hơn quan điểm của sinh viên về
chương trình giảng dạy cho năm thứ tư, nhóm
nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 37 sinh viên năm
thứ tư. Kết quả khảo sát thu được nhóm nghiên
cứu thể hiện ở bảng 5:


Bảng 5: Phản hồi của sinh viên về chương trình giảng dạy năm thứ tư

Nội dung đánh giá

Phản hồi của SV
Đồng ý

Không đồng ý

Số lượng môn học

27 (72,9%)

10 (27,1%)

Thời lượng môn học

32 (86,4%)

5 (13,6%)

Sắp xếp môn học

37 (100%)

0 (0%)

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ phiếu khảo sát của bài viết
Theo bảng trên, 100% sinh viên thể hiện sự hài
lòng với cách sắp xếp chương trình giảng dạy của

năm thứ tư. Về số lượng môn học, có 72,9% sinh
viên đồng ý rằng, số lượng môn học phù hợp với
nhu cầu học tập của sinh viên; còn 27,1% sinh viên
cho ý kiến khác vì lý do các em mong muốn được
tăng thêm số lượng các môn học chuyên ngành như
marketing và kế toán. Về thời lượng môn học cũng
thu được sự nhất trí cao từ sinh viên (86,4%), chỉ
có một số ít sinh viên (13,6%) nhận định môn Dịch
rất quan trọng và hữu ích, nên mong muốn được
tăng thêm từ một đến hai học phần Dịch, để các em

90

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 2 - 3/2018

có thể hoàn thiện hơn kỹ năng dịch nói trực tiếp,
hay có thể dịch đa dạng các loại văn bản thương
mại khác. Như vậy, các ý kiến phản hồi về việc
điều chỉnh chương trình giảng dạy năm thứ tư của
sinh viên chủ yếu xoay quanh vấn đề tăng số lượng
và thời lượng các môn học liên quan đến chuyên
ngành. Đây là những môn học mà theo đánh giá
của các em sinh viên chuyên ngành TTTM là rất
cần thiết đối với việc cung cấp kiến thức bổ trợ
cũng như nâng cao trình độ kỹ năng thực hành
nghề nghiệp cho sinh viên sau khi tốt nghiệp.



NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

Đánh giá tổng thể kết quả nghiên cứu ý kiến
phản hồi của sinh viên chưa tốt nghiệp đối với bốn
năm học, nhóm nghiên cứu tổng hợp sinh viên có
các ý kiến nổi bật sau: Về cách sắp xếp môn học,
sinh viên hoàn toàn nhất trí với cách sắp xếp môn
học ở năm thứ nhất, năm thứ hai và năm thứ tư,
thể hiện ở con số 100% “đồng ý” với nội dung mà
nhóm nghiên cứu đưa ra. Riêng năm thứ 3, do đặc
thù năm học được sắp xếp giảng dạy đồng thời
nhiều khối kiến thức liên quan, nên sinh viên có
mong muốn điều chỉnh giảm bớt các môn lý luận
ngôn ngữ để việc học của các em đạt hiệu quả cao
hơn; Về số lượng và thời lượng môn học, bên cạnh
một bộ phận sinh viên đưa ra quan điểm “đồng ý”,
thì cả bốn năm học đều có sinh viên đưa ra nguyện
vọng điều chỉnh tăng hoặc giảm số lượng và thời
lượng một số môn học. Cụ thể: sinh viên năm thứ
nhất mong muốn điều chỉnh tăng hoặc giảm môn
tiếng Trung Quốc cơ bản sao cho phù hợp với đầu
vào của sinh viên; sinh viên năm thứ hai muốn
tăng thêm các môn Nghe – Nói – Viết và giảm bớt
môn Đọc để rèn luyện và phát triển hơn nữa kỹ
năng thực hành tiếng; sinh viên năm thứ ba đề đạt
nguyện vọng giảm bớt các môn lý luận ngôn ngữ
như Ngữ âm – Văn tự, Từ vựng học, Ngữ pháp
học và điều chỉnh ngắn lại thời lượng các môn học
thuộc khối kiến thức đất nước và văn hóa Trung
Quốc bằng cách ghép môn học, để các em có thêm

thời lượng cho các môn học chuyên ngành và các
kỹ năng liên quan; sinh viên năm thứ tư xuất phát
từ mong muốn nâng cao trình độ chuyên môn,

hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp mà đưa ra đề xuất
tăng thêm một vài môn chuyên ngành và kỹ năng
hỗ trợ chuyên ngành (Dịch). Kết quả nghiên cứu
này phản ánh, nguyện vọng điều chỉnh tăng giảm
số lượng và thời lượng môn học của sinh viên từ
năm thứ nhất đến năm thứ tư đều xuất phát từ thực
tế học tập của từng giai đoạn.
3.2. Phản hồi của sinh viên tốt nghiệp
Sinh viên tốt nghiệp là những sinh viên đã
hoàn thành tất cả các môn học trong chương trình
giảng dạy thuộc chuyên ngành liên quan. Do vậy,
các em sẽ có cái nhìn tổng quát về các khối kiến
thức nằm trong chương trình giảng dạy mà mình
đã được học. Đây chính là một trong những lý do
mà nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát và lấy ý
kiến phản hồi của sinh viên tốt nghiệp về chương
trình giảng dạy các khối kiến thức tiếng Trung
Quốc. Trong quá trình thu thập thông tin phản hồi,
nhóm nghiên cứu đã tập trung lấy ý kiến của năm
khóa sinh viên tốt nghiệp gần nhất, bao gồm các
khóa 48, 49, 50, 51, 52. Kết quả thu về 52 phiếu
trên tổng số 85 sinh viên tốt nghiệp (K48-17SV;
K49-16SV; K50-16SV; K51-19SV; K52-17SV).
Số lượng phiếu phản hồi của từng khóa lần lượt
là K48 (14 phiếu), K49 (13 phiếu), K50 (6 phiếu),
K51 (13 phiếu), K52 (6 phiếu). Dưới đây là kết

quả đánh giá của sinh viên tốt nghiệp về số lượng,
thời lượng và cách sắp xếp môn học ở các học kỳ
trong năm học: (xem bảng 6).

Bảng 6. Phản hồi của sinh viên tốt nghiệp (Khóa 48-52) về chương trình giảng dạy các khối kiến
thức tiếng Trung Quốc

Nội dung đánh giá

Phản hồi của SV
Đồng ý

Không đồng ý

Số lượng môn học

18 (34,6%)

34 (65,4%)

Thời lượng môn học

35 (67,3%)

17 (32,7%)

Sắp xếp môn học ở các năm học

46 (88,5%)


6 (11,5%)

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ phiếu khảo sát của bài viết
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 12 - 3/2018

91


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Trong ba nội dung lấy ý kiến phản hồi từ sinh
viên tốt nghiệp ở bảng trên, “số lượng môn học” là
nội dung được sinh viên đánh giá thấp nhất, vì có
đến 65,4% sinh viên cho ý kiến không tán thành
và phản hồi cần có sự điều chỉnh về số lượng môn
học. Trong đó nổi bật là các quan điểm: “Bỏ hoàn
toàn các môn lý thuyết tiếng (Ngữ âm – Văn tự, Từ
vựng học, Ngữ pháp học), vì thực tế công việc sau
khi sinh viên ra trường không sử dụng, hoặc nếu
không thể cắt bỏ cả ba môn học này trong Khung
chương trình đào tạo thì điều chỉnh giảm bớt môn
Ngữ âm – Văn tự. Với các môn thực hành tiếng thì
cần điều chỉnh giảm bớt các môn cơ sở. Bên cạnh
việc điều chỉnh giảm bớt, sinh viên cũng có yêu
cầu điều chỉnh tăng thêm đối với một số môn học,
cụ thể là điều chỉnh tăng thêm đối với môn Dịch,
môn chuyên ngành và một số môn kỹ năng như
Nghe, Nói”.
Về “thời lượng môn học”, số sinh viên có quan

điểm tán thành đã khá hơn, chiếm 67,3% (tương
đương với 2/3 số sinh viên đưa ra ý kiến phản
hồi). Tuy nhiên, 32,7% sinh viên còn lại cho rằng:
“Đối với sinh viên đã học tiếng Trung nhiều năm,
nên cắt giảm thời gian học các môn tiếng Trung
cơ bản. Ngoài ra, sinh viên chuyên ngành TTTM
cũng không cần học quá sâu và chi tiết các môn Lý
thuyết tiếng, do đó nên rút ngắn thời gian học của
các môn học này. Thay vào đó, cần thiết điều chỉnh
tăng thời lượng đối với một số môn như tiếng Hán
thương mại, Dịch (cả dịch nói và dịch viết) vì đây
là những môn học khó, kiến thức nặng mà thời
lượng học trên lớp lại ít, sinh viên cảm thấy không
đủ thời gian để học tốt môn học”.
Về cách sắp xếp môn học, số liệu tại bảng trên
phản ánh, đa số sinh viên tốt nghiệp (88,5%) hài
lòng với cách sắp xếp môn học ở các năm học,
chỉ có 11,5% sinh viên có mong muốn điều chỉnh.
Theo các em, việc phân bổ các môn học chuyên
ngành bằng tiếng Trung ở các kỳ học cần chú ý
sự hài hòa và phù hợp với thời gian học các môn
chuyên ngành được giảng dạy bằng tiếng Việt.

92

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 2 - 3/2018

Vì giữa các môn học này có sự hỗ trợ, bổ sung

cho nhau và cũng nhờ có những môn học chuyên
ngành được giảng dạy bằng tiếng Việt mà sinh
viên tiếp thu kiến thức chuyên ngành bằng tiếng
Trung dễ dàng và chắc chắn hơn. Ngoài ra, sinh
viên tốt nghiệp cũng cho ý kiến, một số môn học
cần có sự điều chỉnh để việc học tập đạt hiệu quả
hơn, cụ thể: các môn Lý thuyết tiếng nên sắp xếp
học ở năm thứ nhất và năm thứ hai; các môn Ngôn
ngữ kinh tế thương mại 1,2,3,4 nên đảm bảo đúng
trình tự, tránh sắp xếp giảng dạy đồng thời (song
song) để sinh viên hiểu kỹ các nội dung bài học có
liên quan”.
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, ý kiến phản
hồi của sinh viên tốt nghiệp có khá nhiều điểm
chung với ý kiến phản hồi của sinh viên chưa tốt
nghiệp. Đó là nhu cầu giảm bớt số lượng và thời
lượng các môn học tiếng Trung cơ bản (đối với
sinh viên đã học nhiều năm tiếng Trung), cắt bỏ
các môn học mang tính lý thuyết như Ngữ âm –
Văn tự, Từ vựng học và Ngữ pháp học để tăng
thêm số lượng và thời lượng các môn học chuyên
ngành và kỹ năng hỗ trợ chuyên ngành. Điều đó
phản ánh, nhu cầu điều chỉnh số lượng và thời
lượng của các môn học nói trên không phải chỉ ở
một bộ phận sinh viên chưa tốt nghiệp mà nhiều
sinh viên tốt nghiệp cũng có mong muốn như vậy.
Ngoài ra, sinh viên tốt nghiệp cũng có ý kiến riêng
về việc sắp xếp các môn học giảng dạy chuyên
ngành bằng tiếng Trung và tiếng Việt để phát huy
tối đa sự tương trợ giữa các môn học trong chương

trình giảng dạy. Đây là vấn đề sinh viên chưa tốt
nghiệp chưa đánh giá được do các em kết thúc năm
học nào thì đánh giá năm học đó mà chưa có cái
nhìn tổng thể và bao quát đối với tất cả các môn
học trong Khung chương trình đào tạo.
4. KẾT LUẬN
Tổng hợp các quan điểm trên của sinh viên
chưa tốt nghiệp và sinh viên tốt nghiệp, nhóm
nghiên cứu thấy rằng, đánh giá của các em sinh


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

viên về chương trình giảng dạy khối kiến thức
tiếng Trung Quốc chủ yếu tập trung vào các vấn đề
sau: Một là, sự phù hợp của các môn tiếng Trung
cơ bản đối với trình độ đầu vào của sinh viên, cụ
thể là sinh viên có trình độ tiếng Trung đầu vào
“bằng không” và sinh viên đầu vào đã học tiếng
Trung từ 4 đến 7 năm; Hai là, sự cần thiết và tính
ứng dụng của một số môn học mang tính lý luận
ngôn ngữ đối với công việc sau khi sinh viên ra
trường; Ba là, nhu cầu tăng thêm một số môn học
nhằm phát triển kỹ năng thực hành tiếng và nâng
cao kiến thức chuyên ngành như các môn: Nghe,
Nói, Viết, Dịch; Bốn là, sự phù hợp trong cách sắp
xếp các môn học giữa các kỳ học, đặc biệt là các
môn chuyên ngành bằng tiếng Trung và tiếng Việt
để tạo nên mối quan hệ tương trợ lẫn nhau. Các vấn
đề này cho thấy, mong muốn điều chỉnh chương

trình giảng dạy của sinh viên hoàn toàn gắn liền
với thực tế học tập và công việc. Nổi bật trong đó
là mong muốn giảm bớt các môn học mang tính
lý thuyết và ít tính ứng dụng đối với sinh viên Đại
học Ngoại thương, thay vào đó là điều chỉnh tăng
thêm số lượng và thời lượng các môn học cung cấp
kiến thức chuyên ngành và hỗ trợ chuyên ngành.
Cũng từ các thông tin phản hồi này mà Khoa tiếng
Trung Quốc trường Đại học Ngoại thương hiểu
hơn về nguyện vọng cũng như nhu cầu học tập của
các em sinh viên chuyên ngành TTTM, để từ đó
có căn cứ điều chỉnh tăng hay giảm các môn học
trong chương trình giảng dạy và xây dựng lộ trình
học tập các môn học cụ thể và logic hơn.
Trước các vấn đề sinh viên đặt ra, hiện tại Khoa
tiếng Trung Quốc trường Đại học Ngoại thương
đã thực hiện được việc phân lớp theo đúng trình
độ thông qua việc phân loại đầu vào sinh viên thi
bằng tiếng Anh và tiếng Trung. Đồng thời, Khoa
tiếng Trung Quốc cũng đã điều chỉnh tăng thêm
02 môn học (môn Dịch và Tài chính đầu tư) để
đáp ứng nguyện vọng tăng thêm số lượng các môn
học chuyên ngành. Ngoài ra, đối với việc sắp xếp
môn học, Khoa tiếng Trung Quốc cũng đã chú ý
đến việc sắp xếp các môn học chuyên ngành bằng

tiếng Trung phù hợp với các môn học chuyên
ngành bằng tiếng Việt để mang lại hiệu quả học
tập cho sinh viên. Còn việc điều chỉnh tăng thêm
đối với các môn kỹ năng như Nghe – Nói – Viết và

điều chỉnh giảm bớt hoặc cắt bỏ các môn học mang
tính lý luận ngôn ngữ chưa được thực hiện. Nhưng
những vấn đề này sẽ được Khoa tiếng Trung Quốc
đưa ra họp bàn, thảo luận và chốt phương án điều
chỉnh khi ban hành Khung chương trình mới đáp
ứng chuẩn đầu ra được xây dựng năm 2017./.
Tài liệu tham khảo:
1. Đại học Ngoại thương (2010), Đổi mới và
nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Trung Quốc
nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, Kỷ yếu hội nghị
khoa học, Khoa tiếng Trung Quốc, Đại học Ngoại
thương, Hà Nội.
2. Đại học Ngoại thương (2014), Tuyển tập các
chương trình đào tạo trình độ đại học, Hà Nội.
3. Lê Thanh Thùy Dương (2016), Những vấn
đề còn tồn tại trong giảng dạy tiếng Hán thương
mại tại trường Đại học Ngoại thương, Kỷ yếu hội
thảo liên Khoa ngoại ngữ “Áp dụng chuẩn đầu ra
theo khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ thương mại
tại trường Đại học Ngoại thương”, Đại học Ngoại
thương, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Thanh Hằng (Chủ nhiệm đề tài,
2009), Khảo sát nhu cầu học tiếng Trung Quốc tại
Đại học Ngoại thương, Đề tài cấp trường, Đại học
Ngoại thương, Hà Nội.
5. Lê Quang Sáng (2015), Xây dựng chương
trình đào tạo chuyên ngành tiếng Hán thương mại
đầu vào tiếng Trung Quốc, nâng cao chất lượng
đầu ra, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Giảng dạy

ngoại ngữ thương mại tại Đại học Ngoại thương
đến năm 2020”, Đại học Ngoại thương, Hà Nội.
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 12 - 3/2018

93


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

A FEEDBACK SURVEY BY THE STUDENTS OF BUSINESS CHINESE
ON CHINESE TEACHING PROGRAM
HOANG THANH HUONG

Abstract: Chinese teaching curriculum for the students of business Chinese at Chinese Faculty,
Foreign Trade University consists of 27 subjects, the duration of each subject is 54 periods
(divided into 18 sessions), which are arranged by the level of knowledge and skills. However,
many students feel that the number, duration and arrangement of some subjects are not reasonable
so they express some desire to adjust them. To better understanding this issue, we made a students’
feedback survey on “the number of subjects”, “the duration of subjects” and “the arrangement
of subjects” in Chinese teaching program’s framework. The results of this research will help the
Chinese Faculty of Foreign Trade University to understand the student’s learning needs and then
make appropriate adjustments to improve students’ learning efficiency.
Keywords: Chinese teaching program’s framework, survey, business Chinese
Received: 11/12/2018; Revised: 22/02/2018; Accepted for publication: 28/02/2018

94

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ


Số 2 - 3/2018



×