Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tiếp cận yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn viết tiếng Anh theo đường hướng ngữ pháp chức năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.12 KB, 10 trang )

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

TIẾP CẬN YẾU TỐ MẠCH LẠC
TRONG VĂN BẢN DIỄN NGÔN VIẾT TIẾNG ANH
THEO ĐƯỜNG HƯỚNG NGỮ PHÁP CHỨC NĂNG
PHAN THỊ LỆ HOA *

*
Đại học Ngân hàng TPHCM, ✉
Ngày nhận bài: 17/01/2018; ngày sửa chữa: 10/5/2018; ngày duyệt đăng: 20/5/2018

TÓM TẮT
Mạch lạc được xem là một trong những đặc điểm thiết yếu để có một văn bản viết hiệu quả. Mạch
lạc đề cập đến kết cấu của diễn ngôn viết mà qua đó tất cả những yếu tố phải được nối kết với
nhau một cách rõ ràng và hợp lý. Có nhiều phương pháp tiếp cận đề cập đến vấn đề nâng cao nhận
thức của người học tiếng Anh như một ngoại ngữ về tầm quan trọng của yếu tố mạch lạc trong
diễn ngôn viết. Trong bài viết này, chúng tôi sơ lược một vài nét về các phương pháp tiếp cận
yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn tiếng Anh theo đường hướng của Ngữ pháp chức năng.
Cụ thể, bài viết trình bày một số nét về vấn đề mạch lạc và các mối quan hệ của mạch lạc được
giải thích trong khuôn khổ của Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar). Qua đó, tìm hiểu các
phương pháp tiếp cận mối quan hệ giữa ngữ pháp và diễn ngôn: phương pháp tiếp cận theo tầng
bậc (Layering approaches); phương pháp tiếp cận theo mô-đun; phương pháp tiếp cận hợp nhất
(Integrative), hay còn gọi là Ngữ pháp diễn ngôn chức năng (Functional Discourse Grammar),
nhằm định hướng cho người dạy và học tiếng về việc hiểu yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn
ngôn một cách khoa học hơn.
Từ khóa: diễn ngôn viết, mạch lạc, ngữ pháp chức năng

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo tác giả Butler và các cộng sự (2000),
những gì diễn ra bên trong ngôn ngữ của một văn
bản bao gồm hai mức độ: mức độ nội dung và mức


độ diễn đạt. Học ngôn ngữ là học cách diễn đạt
nghĩa bằng cách hình thành ngôn bản hay văn bản
thành một thể thống nhất trong ngữ cảnh. Việc dạy
ngữ pháp của một ngôn ngữ nào đó cũng vậy: ngữ
pháp chức năng khuyến khích người dạy suy nghĩ
về việc dạy ngữ pháp theo mô hình chức năng của

cú, những cú này được diễn đạt và khả năng tạo
nghĩa trong toàn bộ ngôn bản hay văn bản như thế
nào. Đặc biệt là, khi giảng dạy kỹ năng viết cho
sinh viên, người dạy nên chú trọng đến khía cạnh
này, tức là làm thế nào để sinh viên khi hoàn tất
một văn bản thì văn bản đó hay về nội dung và
mạch lạc về ý. Bài viết này nghiên cứu một vài nét
về các phương pháp tiếp cận yếu tố mạch lạc trong
văn bản diễn ngôn tiếng Anh theo đường hướng
của Ngữ pháp chức năng. Bài viết trình bày:
nghiên cứu vấn đề mạch lạc và các mối quan hệ
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 13 - 5/2018

111


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
của mạch lạc được giải thích trong khuôn khổ của
Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar). Qua
đó, tìm hiểu các phương pháp tiếp cận mối quan
hệ giữa ngữ pháp và diễn ngôn: phương pháp tiếp

cận theo tầng bậc (Layering approaches), phương
pháp tiếp cận theo Mô-đun (Modular approaches)
hay phương pháp tiếp cận Hợp nhất (Integrative)
(phỏng theo Butler, 2000; Mackenze, 2004, tr.121), nhằm định hướng cho người dạy tiếng về việc
hiểu yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn một
cách khoa học hơn.
2. MẠCH LẠC VÀ LIÊN KẾT
Thuật ngữ mạch lạc chỉ mới xuất hiện trong
những thập kỷ gần đây, cụ thể là trong giai đoạn
thứ hai của việc nghiên cứu văn bản. Tuy nhiên,
khái niệm mạch lạc văn bản là một vấn đề hoàn
toàn không mới nhưng lại rất phức tạp. Một diễn
ngôn mạch lạc là một diễn ngôn mà người nghe/
người đọc tạo lập một mối quan hệ giữa một diễn
ngôn cụ thể nào đó với những diễn ngôn trước đó
(Nunan, 1998). Sự liên kết này thường được giải
thích là mối liên kết giữa các đơn vị diễn ngôn,
nhưng cũng có thể quy chiếu đến các mối quan hệ
giữa một diễn ngôn hiện hành và ngữ cảnh.
Theo quan điểm Halliday và Hasan (1976),
mạch lạc và liên kết không phải là một. Mạch lạc
thể hiện ở bề sâu của quan hệ nghĩa, còn liên kết
thể hiện ở bề mặt bằng các hình thức liên kết khứ
chỉ, hồi chỉ, quy chiếu, lặp lại, đồng nghĩa,... giữa
các yếu tố giả định và được giả định trong một
văn bản và là một phương thức góp phần tạo nên
mạch lạc trong văn bản. Trong ví dụ (1) sau đây
‘it’ trong câu thứ hai giả định ‘the bread’ trong câu
thứ nhất. Chúng có quan hệ thông qua mối quan hệ
quy chiếu.

(1) The bread is stale. You can feed it to the birds.
(Bánh mì đã để lâu hư rồi. Con có thể đem cho
lũ chim ăn đi.)

112

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 13 - 5/2018

Trong những trường hợp khác, liên kết được
tạo lập thông qua các hình thức biểu đạt như ‘but’,
‘so’, ‘in that case’. Những quan hệ này là quan hệ
liên hợp, nghĩa là những quan hệ cấu trúc được báo
hiệu bởi từ nối biểu thị mối quan hệ đẳng lập hay
quan hệ phụ thuộc. Halliday và Hasan (1976) cho
rằng, để có tính mạch lạc trong một văn bản, người
đọc phần nào dựa vào các công cụ liên kết được sử
dụng trong văn bản như quan hệ liên hợp, quan hệ
phi liên hợp, phép quy chiếu, phép lặp lại,... Hai ví
dụ sau (2) và (3) đưa ra hai trường hợp về quan hệ
chỉ thời gian, một trong hai mối quan hệ liên hợp
cơ bản nhất về công cụ liên kết văn bản.
(2) As soon as she finished that project, she
started working on the next.
(as soon as: từ nối biểu thị mối quan hệ phụ
thuộc) (Ngay khi cô ấy hoàn tất đề án đó, cô ấy bắt
tay vào đề án tiếp theo.)
(3) She finished her work at her office.
Afterwards, she rushed to her daughter’s school.

(Cô ấy hoàn tất công việc ở văn phòng. Sau đó, cô
vội vã đến trường của con gái.)
Ví dụ (3) có thể được diễn đạt lại bằng cách
dùng công cụ liên kết hai câu thành một câu nhưng
nghĩa của văn bản không thay đổi.
(3a) After she finished her work at her office,
she rushed to her daughter’s school. (after: từ nối
biểu thị mối quan hệ phụ thuộc)
(3b) She finished her work at her office;
afterwards, she rushed to her daughter’s school.
(afterwards: từ nối biểu thị mối quan hệ đẳng lập)
Tuy nhiên, theo tác giả Brown và Yule (1983,
tr.196), sự tồn tại các mối liên kết tuyệt nhiên
không phải là điều kiện tiên quyết cho sự mạch
lạc. Nghĩa là, có nhiều chuỗi phát ngôn/câu được
thể hiện rõ ràng dưới dạng văn bản mà không có
mối liên kết được đánh dấu rõ ràng nào.


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

3. CÁC PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN SỰ
MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN THEO QUAN
ĐIỂM NGỮ PHÁP CHỨC NĂNG
3.1. Phương pháp tiếp cận theo tầng bậc
(Layering Approaches)
Theo phương pháp tiếp cận theo tầng bậc,
về mặt cơ bản, Dik (1977) và Hengeveld (1997,
tr.1-16) đưa ra mô hình so sánh sự tương quan
giữa diễn ngôn với ngữ pháp. Nói chung, phương

pháp tiếp cận này là khung lý thuyết dựa trên cơ
sở quan điểm từ vựng – ngữ nghĩa học (lexicosemantically), có kết cấu gồm ba tầng bậc trên câu.
Theo kết cấu này, mô hình/cấu trúc ngữ pháp có
thể được mở rộng hướng lên trên bậc câu nhằm
khẳng định mối tương quan giữa đơn vị cao nhất
trong kết cấu cú theo tầng bậc là cú phức (complex
clause), và đơn vị thấp nhất trong kết cấu diễn
ngôn là hành động ngôn từ (speech act)/phát ngôn
(utterance). Qua đó, có thể thấy rằng, cả hai tác
giả Dik và Hengeveld, đặc biệt là Hengeveld có
xu hướng bàn về mối quan hệ liên kết hơn là mạch
lạc, có lẽ là do họ theo quan điểm từ hình thức đến
chức năng (form-to-function) trong khuôn khổ của
Thuyết Chức năng luận (Functionalism).

mô hình dưới lên trên gọi là mô hình diễn ngôn
phổ quát được tiếp cận theo cả hai quan điểm:
cấu trúc và quan hệ. Để giải thích cấu trúc của
diễn ngôn, Dik dùng lại những tên gọi đã được
Hengeveld sử dụng cho các cấp độ trong phạm
vi cấu trúc cú và giải thích rằng một sự kiện diễn
ngôn có tầng bậc liên nhân (interpersonal layer)
bao gồm các bộ phận tương tác và thái độ; và tầng
bậc đại diện (representational layer) bao gồm bố
cục về nội dung và các yếu tố truyền tải nội dung.
Tương đương với hai tầng bậc này là hai bộ đơn vị
được sắp xếp theo thứ bậc. Xét theo tầng bậc liên
nhân, cả hai hành động ngôn từ (được nhận biết
là cú đơn hoặc cú phức) và lượt (hay chuỗi ngôn
ngữ do cùng một người phát ngôn) có thể được kết

hợp thành chuỗi liên tục qua các mối quan hệ phụ
thuộc. Còn xét theo tầng bậc quan hệ biểu trưng,
chuỗi các mệnh đề và vị ngữ trong cú đơn hoặc cú
phức tạo thành hồi (truyện) (có thể bao gồm những
hồi phụ) (Hình 1).

3.1.1. Mô hình diễn ngôn của Dik (1997)
Khi giới thiệu khái niệm về mạch lạc, Dik
(1977, tr.433-441) có đề cập đến nghiên cứu về
mạch lạc và liên kết của Halliday và Hasan (1976).
Công trình của hai tác giả này chủ yếu bàn về liên
kết và liệt kê nhiều công cụ mà các nhà ngôn ngữ
học (đặc biệt là các nhà ngôn ngữ học theo Thuyết
Hệ thống) phân loại là công cụ liên kết như phép
trùng lặp (anaphora), chuỗi quy chiếu (reference
chains). Theo Dik (1977, tr.415-422), các phương
thức mạch lạc được phân biệt thành: mô hình diễn
ngôn phổ quát (global discourse decisions) và mô
hình cấu trúc phổ quát (global structural patterns),
theo quan điểm diễn ngôn là sản phẩm (discourseas-product) (Dik, 1977, tr.422-432).
Trong số những phương thức diễn ngôn bậc
cao, Dik (1977) miêu tả mối quan hệ mạch lạc theo

Hình 1: Sự kiện diễn ngôn (Dik, 1977, tr.428)
Mặc dù tác giả Dik (1977, tr.430) lưu ý rằng:
mối quan hệ giữa các đơn vị của hai tầng bậc này
không cần phải là một đối một (one-to-one), nhưng
tác giả lại thừa nhận rằng, một chuỗi lượt lời thông
thường xảy ra đồng thời với một cuộc hội thoại (ví
dụ như một lời đồng ý đến dự một bữa ăn tối được tạo

lập bằng một chuỗi gồm có năm thành tố nêu trên).
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 13 - 5/2018

113


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Theo quan điểm quan hệ hay chức năng, tác giả
Dik (1997, tr.432) một lần nữa tán đồng mối tương
quan giữa kết cấu chức năng của cú phức và cấu
trúc tu từ trong diễn ngôn. Tác giả cho rằng “mô
hình cấu trúc cú có thể được xem là một mô hình
bộ phận của diễn ngôn nói chung”. Ngoài ra, tác
giả còn giải thích thêm rằng, những mối quan hệ
này liên tục được điều chỉnh bởi các vai tương tác
(interectants) thông qua các đặc trưng về hình thức
và nghĩa (ví dụ như thức và thì) và thông qua dấu
hiệu siêu giao tiếp rõ ràng. Những dấu hiệu này
đánh dấu của sự chuyển tiếp giữa các giai đoạn
hay phản ánh cấu trúc diễn ngôn theo thứ bậc.
Trở lại vấn đề mạch lạc, tác giả Dik liên đới
khái niệm này với các nguyên tắc về sự sắp chuỗi
tự nhiên hoặc theo cú (mạch lạc cục bộ – local
coherence) hoặc theo các đơn vị diễn ngôn (mạch
lạc phổ quát – global coherence). Dik khẳng định
rằng, nói chung những công cụ ngôn ngữ giống
nhau đều được sử dụng để tạo ra sự mạch lạc ở cả
hai cấp độ, gồm có sáu loại công cụ có thể được

miêu tả như sau: khung (frames), chuỗi hình tượng
(iconic sequences), tính liên tục của đề ngữ (topic
continuity), tiêu điểm (focus), liên kết đuôi-đầu
(Tail-Head linking) và từ nối (connectors).
Khung (frames) được định nghĩa là “sự biểu
đạt về tinh thần và mặt kết cấu của những hành
động có thể được chấp nhận và những sự kiện ngôn
từ trong mối quan hệ với bối cảnh theo thể chế
đã biết” (Dik, 1977, tr.434). Nếu cấu trúc thể chế
bao gồm một chuỗi các sự kiện theo tiêu chuẩn, thì
khung (frames) được gọi là “bản thảo (script)” (ví
dụ như các công thức nấu ăn). Cho dù khung/bản
thảo có liên quan đến cấu trúc hay nội dung hay
không thì vẫn được xem là một phần của kiến thức
nền tổng quát của người phát ngôn giúp họ đánh
giá sự mạch lạc của diễn ngôn (xét về tính tương
thích với các điều kiện đặt ra bởi khung thích hợp)
hay để tạo ra sự mạch lạc trong một diễn ngôn nhờ
vào phép suy luận (nghĩa là bằng cách điền vào
những giả thiết bắc cầu có liên quan đến khung
nhưng không nêu rõ trong văn bản).

114

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 13 - 5/2018

Chuỗi biểu tượng được xem như một nguồn
mạch lạc khác trên giả định rằng, những chuỗi đó

phản ánh những sắp xếp theo thứ tự mặc định trên
cơ sở tri nhận, như trong ví dụ (4) dưới đây:
(4a) She got caught in the rain yesterday and fell
ill. (Hôm qua cô ấy bị mắc mưa và cô ấy bị bệnh.)
(4b) Before falling ill, Mary got caught in the
rain. (Trước khi bị bệnh, cô ấy đã bị mắc mưa.)
Ví dụ trên đưa ra chuỗi nguyên nhân – kết quả.
Những mặc định tự nhiên khác cũng được đề cập
đến đó là đặt sự kiện trước khi kết quả xảy ra, điều
kiện trước khi hậu quả gây ra hay đặt hành động
trước mục đích.
Tính liên tục của chủ đề được đề cập như là
một phương thức quan trọng khác để đạt được
sự mạch lạc thông qua những cơ cấu như phép
quy chiếu hồi chỉ, phép song song cú pháp, quy
chiếu chuyển mạch, hiện tượng tỉnh lược và mối
quan hệ giữa chủ đề đã biết (chủ đề cũ) (given
topics) và chủ đề phụ (sub-topics) dựa trên giả
định rằng chủ đề diễn ngôn cùng với khung cấu
trúc và khung nội dung (sub-topics) tạo ra một bố
cục tự nhiên của diễn ngôn. Dik (1977) giải thích
rằng, ví dụ như khi miêu tả một căn hộ (chủ đề)
người ta mong đợi rằng, các yếu tố trong khung
này như nhà bếp, các phòng,... sẽ được chọn làm
đề thể phụ và sẽ được khai triển thành chủ đề đã
biết trong những sản phẩm thể hiện tương đương
(episodes) (trong một sản phẩm tổng thể) theo
một thể loại nào đó – nguyên tắc sắp xếp cụ thể.
Ngoài ra, tác giả Dik (1977) còn nhận xét thêm
rằng mức độ mạch lạc cũng bị ảnh hưởng bởi việc

đặt yếu tố trọng tâm của diễn ngôn trong chuỗi
diễn ngôn, như trong ví dụ (5) sau đây.
(5) Q: Who are you going to meet in Paris?
(Bạn dự định sẽ gặp ai ở Paris?)
A1: MY BEST CHILDHOOD FRIEND in Paris.
A2: My best childhood friend in PARIS.


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

Trong ví dụ (5), trên yếu tố trọng tâm được xác
định trước trong câu hỏi, bởi từ để hỏi là “who” yêu
cầu một tiêu điểm song song như trong ví dụ A1.
Các tham tố của Tiêu điểm (Focality) và Chủ
đề (Topicality) được xem là ảnh hưởng đến tính
mạch lạc của diễn ngôn theo nghĩa là chúng cùng
xác định: sự lựa chọn khung vị ngữ mà qua đó một
cú/hành động ngôn từ được phối hợp; sự lựa chọn
loại cú/hành động ngôn từ; sự diễn đạt thực sự của
đơn vị diễn ngôn đã biết.
Cái gọi là liên kết đuôi-đầu (Tail-Head linking)
được xem như một công cụ khác trong đó “một cú
bắt đầu bởi một thành tố được tóm tắt một cách
ngắn gọn là một thành phần thiết yếu của cú hay
ngữ cảnh đi trước”. Rõ ràng là loại kết cấu này có
điểm chung với những loại phát triển Đề ngữ khác
theo trường phái Prague Scholars và trong phạm vi
Ngữ pháp Chức năng Hệ thống.
Cuối cùng, tác giả Dik (1977, tr.440) đề cập đến
những liên kết như một nguồn mạch lạc khác mà

vai trò chính của chúng là liên kết một cú mới với
một cú trước đó, đồng thời xác định mối quan hệ
nghĩa học giữa hai cú như trong ví dụ (6) sau đây.
(6) He says that he saw nothing.  However, I
don’t believe what he says is the truth.

(Anh ấy nói đã không nhìn thấy gì cả. Tuy
nhiên, tôi không tin những gì anh nói là sự thật.)
Trong ví dụ (6) trên, “however” báo trước
mệnh đề tiếp theo trái với nội dung được đề cập
trong mệnh đề trước đó. Dik (1977) cho rằng từ
nối (connectors) không phải là từ liên kết đẳng lập
(coordinators). Từ liên kết đẳng lập có chức năng
trong phạm vi ngữ pháp câu mặc dù rất nhiều từ nối
(connectors) lẫn từ liên kết đẳng lập (coordinators)
đều giống nhau về nghĩa (but/nevertheless).
3.1.2. Mô hình ngữ pháp diễn ngôn theo
Hengeveld (1997, tr.1-16)
Hengeveld (1977) xây dựng mô hình này trên
cơ sở lý thuyết của Dik (1977) và Kroon (1997,
tr.17-32). Tác giả phác thảo ra một mô hình
ngữ pháp diễn ngôn trên hai trục: trục thứ bậc
(hieratical axes) hay trục cấu trúc (structuralaxis)
và trục quan hệ (relational axis). Trục thứ bậc có
liên quan đến sự phân đoạn diễn ngôn thành những
đơn vị liên tiếp nhỏ hơn; trục quan hệ có liên quan
đến những liên kết giữa các tầng bậc của một và
cùng bậc trong cấu trúc diễn ngôn tuyến tính.
Mô hình ngữ pháp diễn ngôn của Hengeveld
(1997, tr.17-32) mặc định một thứ bậc đơn gồm

chín tầng bậc khác nhau, được nhóm thành ba cấp
độ. (Bảng 1).

Bảng 1: Mô hình ngữ pháp diễn ngôn của Hengeveld (1997, tr.1-16)

Biến số
Cấp độ biểu trưng
xn
fn
en

Tên gọi

Đơn vị cơ bản

Cá thể
Quan hệ hay thuộc tính
Trạng thái sự việc

Thuật ngữ
Khung vị ngữ
Vị ngữ

Cấp độ liên nhân
XN
FN
EN

Nội dung mệnh đề
Ngôn trung

Hành động ngôn từ

Mệnh đề
Khung ngôn trung
Phát ngôn

Cấp độ tu từ
MN
TN
DN

Lượt lời
Loại diễn ngôn
Diễn ngôn

Đoạn văn
Khung diễn ngôn
Văn bản

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 13 - 5/2018

115


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Trong đó, (D) – cấp độ tu từ (Rhetorical
level) được bổ sung cho (E) và (e) – cấp độ liên
nhân (Interpersonal level) và cấp độ biểu trưng

(Represational level). Ở cấp độ tu từ (D) đơn vị
phân tích là văn bản, hành động ngôn từ được
nhóm thành (M) – các lượt lời. Lượt lời được nhận
biết bởi các đoạn văn trong phạm vi độc thoại hay
bởi lượt vai (M) trong phạm vi đối thoại. Các lượt
lời được nhóm thành (T) – một loại diễn ngôn cụ
thể (như đàm thoại) như trong mô hình cấu trúc
diễn ngôn theo thứ bậc (hierarchcal structure of
discourse).
Cấp độ 1: Cấp độ tu từ (Rhetorical level)
D1: [(T1: TYP (T1)) (M1: [E1] (M1))…(MN)](D1)
(7) He stayed home yesterday, because he was
ill. (Cấp độ tu từ)
(Hôm qua anh ấy ở nhà vì anh ấy bị ốm.)
Cấp độ 2: Cấp độ liên nhân (Interpersonal
level)

(Cậu bé vừa chạy về nhà vừa khóc.)
(10b) I am exhausted because I have overworked
all this week. (Vị ngữ (e) ‘am exhausted’ biểu đạt
nghĩa theo phương thức kết hợp với mệnh đề (X)
‘because I have overworked all this week’ để giải
thích lý do vì sao bị mệt.)
(Tôi mệt nhoài vì suốt tuần nay tôi làm việc
quá sức.)
(11c) If you try harder, you will pass the xam
with distinction. (Mệnh đề (X): ‘If you try harder’
biểu đạt nghĩa theo phương thức kết hợp.)
(Nếu bạn cố gắng hơn nữa, bạn sẽ thi đậu với
thứ hạng danh dự.)

(12d) Watch out, because the wall is going
to collapse. (Phát ngôn (E) ‘Watch out’ biểu đạt
nghĩa theo phương thức kết hợp.)
(Coi chừng! Bức tường sắp đổ.)

(E1: [(F1: ILL (F1))(S)(A)(X1: [e1] (X1))](E1)

(11) Ví dụ về phương thức chuỗi (phỏng theo
Hengeveld, Kees (1997), tr. 6-7)

(8) He stayed home yesterday. The reason he
did is that he was ill. (Cấp độ liên nhân)

(a) but we had a seamstress (nhưng chúng tôi
có một cô thợ may)

(Hôm qua anh ấy ở nhà. Lý do là vì anh ấy bị ốm.)

(b) and we were calling her Mietje (và chúng
tôi gọi cô ấy là Mietje)

Cấp độ 3: Cấp độ biểu trưng (Representational
level)
(e1: [(f1: Predβ (f1)) (x1) … (xn)] (e1))
(9) The reason he stayed home yesterday is
that he was ill. (Cấp độ biểu trưng)
(Lý do anh ấy ở nhà hôm qua là vì anh ấy bị
ốm.) (Hengveld, 1997, tr.4)
(10a) The little boy ran home crying. (Vị từ (f)
ran và crying biểu đạt nghĩa theo phương thức kết

hợp; ‘ran’ và ‘crying’ xảy ra đồng thời)

116

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 13 - 5/2018

(c) But I think we were calling everyone
Mietje back then.
(Nhưng tôi nghĩ chúng ta đang gọi mọi người
là Mietje.)
(d) You know, I don’t know why. (Bạn biết
đấy, tôi không hiểu tại sao.)
(e) but anyway, (nhưng dẫu sao)
(f) so that was also a Mietje (cũng là một
Mietje)


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

(g) And uh – she was from Belgium (Và ơ… cô
ấy đến từ Bỉ)

3.1.3. Các phương pháp tiếp cận diễn ngôn
theo Mô-đun (Modular Approaches)

(h) And there were – she was a Belgian refugee,
(Và cô ấy là một người tị nạn người Bỉ)


Theo Kroon (1997, tr.17-32) tác giả tiêu biểu
của đường hướng tiếp cận theo Mô-đun, đơn vị
nhỏ nhất của cấu trúc diễn ngôn không phải là
hành động ngôn từ (như theo Hengeveld (1997,
tr.1-16), mà là “hành động diễn ngôn.” Tác giả
Kroon (1997, tr.17-32) cho rằng, trong khi chức
năng giao tiếp của hành động diễn ngôn phụ thuộc
vào cấu trúc giao tiếp lớn hơn thì “hành động ngôn
từ” được xếp vào loại trong phạm vi câu, mà các
đặc điểm ngôn trung được xác định bởi các đặc
tính từ vựng và ngữ pháp của cú tách biệt. Tác giả
thừa nhận rằng, cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc diễn
ngôn có quan hệ với nhau thông qua hành động
ngôn từ (Mô-đun thứ nhất) và hành động diễn
ngôn (Mô-đun thứ hai).

(i) ‘cause during the war, during the First World
War (vì trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất)
(j) all those refugees were coming from
Belgium, (tất cả người tị nạn đó đều đến từ Bỉ)
(k) and they were coming to Zealand (và họ
đang đến Zealand)
(l) and they were looking for work there (và họ
đang tìm kiếm việc làm ở đó)
(m) And so SHE was ouir seamstress, (…)
Trở lại vấn đề về mối quan hệ liên kết,
Hengeveld cũng như Halliday và Hasan (1976)
miêu tả các mối liên kết này theo hiện tượng ngôn
ngữ học để nhận biết chúng. Tuy nhiên, thêm vào
đó, Hengeveld phân loại chúng theo thứ bậc, bản

chất và miền, và tùy theo khả năng chúng có thể
kết hợp hay liên kết chuỗi hay không (Bảng 2).
Bảng 2: Quan hệ liên kết

Quan hệ liên kết

Cấp độ

Chuỗi chủ thể

ở cấp độ thuật từ

Liên kết từ vựng

ở cấp độ vị từ (f)

Chuỗi thời gian và tiền/
ở cấp độ vị ngữ (e)
hậu cảnh sự kiện
ở cấp độ mệnh đề
Chuỗi tham luận
(X)
Chuỗi các hành động ngôn ở cấp độ ngôn trung
trung (câu hỏi/trả lời)
(F)
Động lực của chuỗi ngôn ở cấp độ phát ngôn
từ
(E)
ở cấp độ đoạn văn
Liên kết Đuôi-Đầu

(M)

Giống như miêu tả tầng bậc ngôn từ của
Hengeveld (1997, tr.1-16), mô-đun diễn ngôn của
Kroon chứng minh cấu trúc thứ bậc và quan hệ.
Kết cấu thứ bậc được mô hình dưới tên gọi thuật
ngữ là hành động (act), lượt lời (move), trao lời
(exchange), giao dịch và tương tác. Trong khi đó
kết cấu quan hệ bao gồm ít nhất ba loại quan hệ:
đẳng lập, phụ thuộc, hoặc hai lượt lời trong một
trao lời có thể tham gia trong một quan hệ tương
tác. Mối quan hệ này xác định mối quan hệ chức
năng giữa hai lượt lời trong một tương tác (ví dụ
như mời và chấp nhận lời mời).
Ngoài ra, Kroon (1997) nhận xét rằng một
nghiên cứu đầy đủ về các yếu tố diễn ngôn cần
phải cân nhắc đến: mối quan hệ giữa các đơn vị
diễn ngôn và bối cảnh ngoài văn bản, kết cấu đề
ngữ trong chuỗi chủ đề.
3.1.4. Các phương pháp tiếp cận Diễn ngôn
tích hợp (Integrative Approaches): Ngữ pháp
diễn ngôn chức năng (Functional Discourse
Grammar)
Ngữ pháp Diễn ngôn Chức năng đạt đến sự
hòa hợp giữa đường hướng tầng lớp và đường
hướng theo Mô-đun. Trong mô hình này (2004a),
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 13 - 5/2018


117


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Hengeveld cho rằng, thành tố khái niệm (có liên
quan đến sự phát triển ý định giao tiếp và sự kết
hợp các khái niệm hóa thích hợp), thành tố bối
cảnh (được hiểu là vùng diễn ngôn bao gồm phạm
vi kiến thức của các bên giao tiếp). Thành tố âm
học hay yếu tố tương đương của nó dưới dạng tình
thái vô thanh, và thành tố ngữ pháp từ trên xuống
(top-down) bao gồm các cấp độ: liên nhân, biểu
trưng và biểu đạt. Mỗi một cấp độ này được nhận
hiểu là một mô-đun riêng biệt và mỗi một mô-đun
được xếp theo tầng bậc nội tại. Bảng 3 minh họa
các quy tắc nhằm liên kết các mô-đun bao gồm các
cấp độ và các đơn vị phân tích.
Bảng 3: Mô hình về các cấp độ liên kết
(phỏng theo Kroon, Caroline, 1997, tr.17-32)

Mức độ

Đơn vị cơ bản
Khung ngôn trung

Liên nhân

Từ vị
Vận hành tố
Khung vị ngữ

Từ vị

Biểu trưng

Vận hành tố
Mô hình cấu trúc
Hình vị

Âm học

Mô hình ngôn điệu
Âm thanh

Hengeveld (1997) nhận xét rằng, sự phân biệt
trên xác định vị trí thành tố khái niệm một mặt
giữa ý định giao tiếp và mặt khác là các khái niệm
hóa được phản ánh trong thành tố ngữ pháp ở cấp
độ liên nhân và biểu trưng. Do đó, tiếp theo nghiên
cứu của Kroon (1997, tr.17-32), Hengeveld (1997,
tr.1-16) giải thích thêm rằng, đơn vị thấp hơn ở
mức độ liên nhân không phải là hành động ngôn từ
như được thừa nhận trong mô hình của ông mà là
hành động diễn ngôn. Ngoài ra, tác giả còn khuyến

118

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 13 - 5/2018


nghị rằng, một lượt lời, đơn vị tối thiểu trong cấu
trúc trao lời, có thể bao gồm chỉ một hành động
trung tâm hoặc có thể được bổ sung bởi một hoặc
hai hành động phụ. Mỗi một hành động phụ biểu
đạt khung ngôn trung của nó (bao gồm tham thể,
và luận cứ trong nội dung được giao tiếp). Cấp
độ biểu trưng có liên quan đến những miêu tả các
thực thể thuộc thứ tự khác nhau khi chúng xuất
hiện trong thế giới phi ngôn ngữ (nghĩa là thực thể
thuộc thứ tự thứ ba hay nội dung mệnh đề (p), thực
thể ở thứ tự thứ hai hay trạng thái sự vụ (e), thực
thể ở thứ tự thứ nhất hay cá thể (x), và thực thể
không có thứ tự hay đặc tính (f)). Cuối cùng, cấp
độ biểu đạt là sự biểu trưng của cấu trúc thành tố.
Cấu trúc này bắt đầu ở mức độ đoạn văn (Para), có
thể bao gồm một hoặc hai câu (S). Mỗi một câu có
thể bao gồm một hoặc hai cú (Cl), mỗi một cú bao
gồm một hoặc hai cụm vị từ (PrP) hoặc cụm quy
chiếu (RP), mỗi một cụm quy chiếu bao gồm một
hoặc hai từ vị (Lex).
Ngoài cấu trúc tầng bậc hướng xuống dưới ở
cả hai mức độ liên nhân và biểu trưng, Hengeveld
cũng nhận xét rằng, cấu trúc tầng bậc hướng lên
trên là một đặc tính của tất cả các cấp độ phân tích.
Do đó, ở cấp độ liên nhân, kết cấu tầng bậc hướng
lên trên có thể bao gồm các lớp lượt vai (turn) và
trao lời (exchange) trong các đối thoại, và ở cấp độ
biểu trưng các lớp hồi (episode) và truyện (story)
trong thể loại kể truyện, và ví dụ như ở cấp độ biểu
đạt có phần (section) và chương (chapter) trong

giao tiếp dưới dạng văn bản.
Mặc dù khả năng các lớp hướng lên trên này
cung cấp đầu mối về bản chất cho mô hình diễn
ngôn trong phạm vi Ngữ pháp diễn ngôn chức
năng, nhưng để giải thích đầy đủ về mạch lạc và
những mối quan hệ mạch lạc và cách mà các mối
quan hệ này có liên quan đến nhau như thế nào
trong ngữ cảnh diễn ngôn, rõ ràng là chúng ta cần
phải giải thích sâu hơn những vấn đề này dựa trên
sự phân tích toàn bộ những chuỗi diễn ngôn xác
thực theo đường hướng khiến nghị của Connolly
(1997, tr.89-116).


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ: ĐỊNH HƯỚNG
CHO NGƯỜI DẠY TIẾNG VỀ VIỆC HIỂU
YẾU TỐ MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN
DIỄN NGÔN

chú trọng và thể hiện nội dung cần diễn đạt cũng
như mục đích giao tiếp của văn bản hay ngôn bản.

Nói chung, các phương pháp tiếp cận trên
nhằm giúp người dạy có một cái nhìn khá bao quát
về mạch lạc và các mối quan hệ về mạch lạc theo
các mô hình theo đường hướng của Ngữ pháp chức
năng (Functional Grammar), làm mục tiêu định
hướng khi giảng dạy ngôn ngữ hướng người học

học ngôn ngữ là để sử dụng gắn liền với ngữ cảnh
sử dụng cụ thể (language to use in context). Người
dạy không nên gượng ép người học học các quy
tắc được lý tưởng hóa với những hình thức ngữ
pháp cố định tách rời với ngữ cảnh sử dụng. Cụ
thể là, ở Việt nam, ngay từ những năm học tiếng
Anh ở bậc phổ thông, khi giảng dạy kỹ năng viết,
giáo viên nên xem lại và bổ sung những bài tập
về luyện viết, chẳng hạn như, giảng dạy cách biểu
đạt những cấu trúc ngữ pháp dùng trong đoạn văn
trong ngữ cảnh và tình huống sử dụng, thay vì chỉ
dừng ở giới hạn là những câu tách biệt.

Tóm lại, vấn đề về lỗi diễn đạt rời rạc, dài
dòng, lủng củng hoặc ngắn ngủn, khô khan, không
mạch lạc chiếm đa số trong các bài luận của sinh
viên Việt Nam viết tiếng Anh là một trong những
vấn đề đáng được quan tâm nghiên cứu để có
những biện pháp giúp họ khắc phục và tạo lập văn
bản có hiệu quả hơn về mặt học thuật. Hơn nữa,
mức độ nhận định về mạch lạc của một văn bản
chủ yếu tuỳ thuộc vào khả năng tư duy, thái độ
tình cảm, trình độ hiểu biết và kiến thức nền của
người đọc. Bên cạnh đó, cũng còn có một số yếu tố
cơ bản khác giúp người đọc/người nghe xác định
được chuỗi câu mạch lạc và chuỗi câu không mạch
lạc. Do đó, việc giảng dạy cho người học hiểu tầm
quan trọng của vấn đề mạch lạc và viết diễn đạt
trôi chảy để tạo sự rõ ràng cho một văn bản là vô
cùng cần thiết. Điều đó đòi hỏi người dạy phải có

cái nhìn có hệ thống về mạch lạc và các mối quan
hệ về mạch lạc.

Khi đó, việc giảng dạy và nhấn mạnh với người
học rằng, liên kết và mạch lạc là một trong những
yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng một văn
bản viết. Vì trong một chừng mực nào đó, các loại
liên kết và tần suất sử dụng các mối liên kết trong
văn bản phản ánh kỹ năng sáng tạo của người viết
và ảnh hưởng đến những đặc tính về phong cách
và bố cục của văn bản mà người viết tạo lập.
Do đó, khi đánh giá văn bản viết của sinh viên
(ngay từ cấp độ thấp) về tính thống nhất mạch lạc
trong văn bản, người dạy nên áp dụng cách đánh
giá theo đề nghị của Feez (1998) qua cách mà
người học sử dụng: trường từ vựng (lexical sets),
liên kết được tạo lập thông qua các hình thức biểu
đạt mối quan hệ đẳng lập (coordinators) hay quan
hệ phụ thuộc (subordinators), phép quy chiếu, sự
phân phối thông tin trong đoạn văn và cú. Rõ ràng
rằng, việc dạy và học ngôn ngữ ngày nay ngay từ
cơ sở ban đầu người dạy không những giảng dạy
cấu trúc ngữ pháp, mà còn hướng người học nắm
vững những kỹ năng tạo lập một diễn ngôn biết

5. KẾT LUẬN

Do đó, mạch lạc và các mối quan hệ về mạch
lạc theo các mô hình tầng bậc, mô-đun và tích hợp
trong phạm vi quan điểm Ngữ pháp chức năng

(Functional Grammar) có mối tương quan đến
đường hướng Ngữ pháp chức năng. Tuy có những
giống nhau rõ ràng giữa mô hình của Hengeveld,
Kroon và Dik, nhưng cũng có những khác biệt
đáng lưu ý. Ý niệm về đường hướng tiếp cận theo
mô-đun dường như được nêu rõ trong nghiên cứu
của Dik (1977, tr. 409), trong khi đó, đường hướng
tiếp cận theo thứ bậc về diễn ngôn và ngữ pháp
được xem là tách biệt mặc dù chúng quan hệ và
kết cấu diễn ngôn được xem là chứa các thứ bậc
biểu trưng và liên nhân. Kroon tách biệt rõ ràng
hai thứ bậc này thành hai mô-đun tương đương
dù quan hệ nhau, còn Hengeveld (1997, tr.1-16)
mặc nhận một thứ bậc đơn gồm chín tầng lớp được
nhóm thành ba cấp độ: tu từ (rhetorical), liên nhân
(interpersonal) và biểu trưng (representational).
Hơn nữa, Hengeveld còn miêu tả lại ngữ pháp
trong phạm vi Ngữ pháp chức năng như là một
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 13 - 5/2018

119


v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
đơn vị cấu thành của mô hình phát sinh ngôn ngữ
học/mô hình khái niệm bao gồm cấp bậc liên nhân
(interpersonal), biểu trưng (representational), và
cấu trúc (structural)./.

Tài liệu tham khảo:
1. Nunan, D. (1998), Dẫn nhập phân tích diễn
ngôn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Butler, D., et al (2000), Using Functional
Grammar: An Explorer’s Guide. Sydney NSW:
Macquaie Univeristy.
3. Brown, G. and Yule, G. (1983), Discourse
Analysis. Cambridge: Cambridge University Press.

Edited by Kees Hengeveld. Berlin/New York:
Mouton de Gruyter.
7. Feez, S. (1998), Text-based Syllabus Design.
NCELTR, Sydney: Macquarie Univeristy.
8. Halliday, M.A.K. and Hasan, Ruqalya
(1976), Cohesion in English. London: Longman.
9. Hengeveld, K. (1997), Cohesion in
Functional Grammar. In Butler, Christopher S./
Connelly, John H./Gatward, Richard A./Vismans,
Roel M. (eds) Discourse and Pragmatics in
Functional Grammar. Mouton de Gruyter, Berlin/
New York, pp. 1-16.

5. Coulihard, M. (1977), An Introduction to
Discourse Analysis. Longman, London.

10. Kroon, C. (1997), Discourse Markers,
Discourse Structure and Functional Grammar. In
Butler, Christopher S./Connolly, John H./Gatward,
Richard A. and Vismans, Roel M. (eds). Discourse
and Pragmatics in Functional Grammar, Mouton

de Gruyter, New York, pp. 17-32.

6. Dik, S. C. (1977), The Theory of Functional
Grammar. Part II: Complex and derived
constructions (Functional Grammar Series 21).

11. Sinclair, J. and Coulihard, M. (1975),
Toward an Analysis of Discourse, Oxford: Oxford
University Press.

4. Connolly, J. H. (2004), “The Question of
Discourse Representation in Functional Discourse
Grammar”. In Machenzie, J. Lachlan/GosmezGonza1lez, Mária de los A1ngeles (eds), pp.89-116.

APPROACHES TO COHERENCE IN ENGLISH WRITTEN DISCOURSE USING
FUNCTIONAL GRAMMAR
PHAN THI LE HOA
Abstract: Coherence is considered one of the characteristics of effective writing. Coherence
refers to the organization of written discourse of text by which all elements are clearly and
logically connected to each other. There have been a variety of approaches which discuss on
how to raise EFL learners’ awareness of importance of textual coherence. This article aims to
briefly discuss charactersitics of some approaches using Functional Grammar on coherence in
English written discourse. Specifically the paper discusses coherence and its relations explained
in the scope of Functional Grammar; through which it tries to investigate some approaches on
relations between grammar and discourse: Layering approaches, Modular approaches, Integrative
approach: Functional Discourse Grammar in order to direct the teacher and learners to fully
comprehending coherence in written discourse in a more systematic way.
Keywords: written discourse, coherence, functional grammar
Received: 17/01/2018; Revised:10/5/2018; Accepted for publication: 20/5/2018


120

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 13 - 5/2018



×