BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Minh Kim
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT
THƠ BÙI GIÁNG
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀI THANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
`
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Bùi Giáng là một trường hợp đặc biệt và độc đáo của nền thi ca hiện đại
Việt Nam cuối thế kỉ XX. Nhắc đến Bùi Giáng người ta nghĩ đến một hiện
tượng mà cho đến tận hôm nay hãy còn đó rất nhiều vấn đề hấp dẫn vẫn chưa
được tỏ tường.
Các nhà phê bình chính thống hầu như ít “chạm” đến ông trong khi số
lượng người yêu thích thơ ông lại rất đông đảo. Báo chí có ghi chép lại rằng
đám tang của ông có tới hàng ngàn người tham dự, là một trong những đám
tang lớn nhất kể từ sau năm 1975. Nhà thơ Huy Cận cũng có lần bày tỏ lòng
yêu mến với Bùi thi sĩ:
Đôi lời thăm bạn thơ
Thăm tấm lòng tri kỷ
Bao giờ đến bây giờ
Tình thơ không hoen rỉ
(Thân tình gửi anh Bùi Giáng)
Dường như xưa nay độc giả yêu thơ ông, đến với thơ ông chỉ mới bằng
tâm thế “kính nhi viễn chi” mà thôi. Ai cũng dễ dàng cảm nhận Bùi Giáng
“rất Bùi Giáng”, Bùi Giáng rất “không giống ai”, thế nhưng cái bản chất Bùi
Giáng rất riêng, rất độc đáo ấy là gì thì lại không mấy ai đủ tự tin để lý giải
cặn kẽ. Chung quanh Bùi Giáng có vô số giai thoại đáng nhớ lại càng dễ
khiến người ta cảm thấy mơ hồ khó nắm bắt.
Trước nay đã có rất nhiều người viết về Bùi Giáng nhưng phần lớn đều
là những bài viết tản mạn đăng báo hoặc đăng ở các tập san chuyên đề về Bùi
`
Giáng. Hiện nay vẫn chưa có một tài liệu nào nói đầy đủ về toàn bộ cuộc đời
và tác phẩm của ông nói chung và nghiên cứu chuyên sâu về thơ Bùi Giáng
nói riêng.
Bùi Giáng là tác giả của khoảng sáu bảy mươi đầu sách đủ mọi thể loại,
từ văn thơ cho đến dịch thuật, từ giới thiệu tác giả tác phẩm nước ngoài cho
đến bàn luận về triết học phương Tây…
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số tập thơ của Bùi Giáng đã
được xuất bản và lưu hành hợp pháp tại Việt Nam.
Luận văn hướng tới xác định những cảm hứng chủ đạo và đặc điểm
nghệ thuật thơ Bùi Giáng, góp phần đánh giá thơ Bùi Giáng- một thi sĩ được
xem như một hiện tượng độc đáo trên thi đàn Việt Nam cuối thế kỷ XX.
Nghiên cứu về Bùi Giáng quả là một thử thách không nhỏ nhưng chúng
tôi thiết nghĩ đó cũng là điều nên làm để góp phần giải mã và giới thiệu một
chân dung văn học rất đáng quan tâm của nền thơ ca Việt Nam cuối thế kỉ
XX.
Tìm hiểu ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ BÙI GIÁNG là cách
chúng tôi chọn để mở một lối nhỏ trên hành trình tiếp cận thi sĩ tài hoa và dị
biệt này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Khi tìm hiểu và khảo sát các nguồn tư liệu viết về Bùi Giáng, chúng tôi
nhận thấy số lượng các công trình nghiên cứu về Bùi Giáng đã được công bố,
xuất bản và hiện đang lưu hành hợp pháp ở Việt Nam không nhiều.
Về luận văn, chúng tôi có dịp khảo sát được ba luận văn đã chọn Bùi
Giáng làm đối tượng nghiên cứu, mỗi luận văn tiếp cận vấn đề ở những góc
độ khác nhau. Trong luận văn tốt nghiệp của mình, với đề tài Bùi Giáng –
`
Một cuộc đời, một cõi thơ, năm 2000, Đinh Vũ Thùy Trang đã sống trong
tiếng thơ Bùi Giáng bằng sự thẩm âm của một người mong mỏi là một khách
tri âm. Luận văn biểu đạt những Ngổn ngang nỗi niềm tâm sự: yêu quê
hương, tuổi thơ hồn nhiên, nỗi buồn, tình yêu… trong thơ ông. Bên cạnh đó,
luận văn đã cảm thụ và lý giải quan niệm của nhà thơ về thế giới về con
người, với một tiêu đề Khởi nguyên cõi tinh mật. Và cõi tinh mật trong thơ
ông là gì? Là một thực tại đầy ắp nhiên giới, là thế giới của hoài niệm, chiêm
bao, là nguyên lý mẹ, là kinh thơ? Tựu trung lại, luận văn đã đi đến một kết
luận: cõi thơ u mật…thơ và ngôn ngữ của Bùi Giáng vốn viên mật , nhưng có
lẽ “mẹ huyền nhiệm” là cõi tinh mật sâu kín chỉ sau Kinh thơ, mà ông sở dĩ
có nguồn thơ thâm mật, trác tuyệt bởi nó đã được lấy từ cõi nguồn Phật giáo
uyên nguyên (trang 52). Tất cả những nhận định, nghiên cứu trên của người
viết giúp ta tiến thêm một bước khi thâm nhập vào cõi thơ Bùi Giáng. Luận
văn tiếp theo mà chúng tôi khảo sát là luận văn cử nhân của tác giả Nguyễn
Văn Quốc, với đề tài Đặc điểm nghệ thuật ngôn từ trong thơ Bùi Giáng. Ở
luận văn này, phần gợi nhiều hứng thú nhất có lẽ chính là phần nghiên cứu về
hình thức khẩu ngữ trong thơ Bùi Giáng. Đáng tiếc, phần này lại không được
xây dựng thành một tiêu đề riêng và chưa được nghiên cứu sâu. Gần đây nhất
là luận văn thạc sĩ với đề tài Thơ Bùi Giáng của tác giả Trương Thị Mỹ
Phượng đã bảo vệ thành công vào năm 2007. Tác giả đã cố gắng bao quát một
đề tài khá rộng là Thơ Bùi Giáng bằng việc đi sâu nghiên cứu hệ thống những
đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ Bùi Giáng. Tuy nhiên, trong phần
kết luận ở cuối công trình nghiên cứu, dường như tác giả cũng còn khá lúng
túng và chưa đưa ra được một nhận định thực sự có sức nặng về một chân
dung văn học độc đáo của văn học Việt Nam thế kỉ XX.
Về sách, tính đến tháng 06 năm 2009, chúng tôi tiếp cận được với bốn
cuốn sách viết về Bùi Giáng. Có hai cuốn sách viết về Bùi Thi Sĩ đã được
`
xuất bản cách đây vài năm và khá quen thuộc với những người quan tâm đến
Bùi Giáng. Đó là cuốn Bùi Giáng trong tôi của tác giả Hồ Công Khanh, do
Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh in năm 2005 và cuốn Bùi
Giáng – thi sĩ kì dị của tác giả Trần Đình Thu do Nhà xuất bản Trẻ xuất bản
năm 2005 và đã tái bản lần thứ hai.
Tác giả Hồ Công Khanh hiện đang sinh sống tại Đà Nẵng, còn tác giả
Trần Đình Thu sống tại TPHCM. Qua tiếp xúc và trò chuyện với hai tác giả
này, chúng tôi có cơ hội hiểu thêm về họ, cũng như tiếp cận thêm nhiều thông
tin về Bùi Giáng- con người mà họ rất quan tâm và dành nhiều tâm huyết để
giới thiệu với độc giả khắp nơi. Tác giả Hồ Công Khanh tự nhận mình là
người “cuồng si” Bùi Giáng và cũng là người có khá nhiều kỉ niệm riêng tư
với Trung Niên Thi Sĩ khi Bùi Giáng còn tại thế. Bùi Giáng là người ảnh
hưởng rất mạnh mẽ đến cuộc sống và cách sống của tác giả Bùi Giáng trong
tôi. Hồ Công Khanh trong nhiều năm liền đã dày công sưu tầm, bảo quản gần
như đầy đủ các tác phẩm của Bùi Giáng, thuộc đủ mọi thể loại, trong đó có cả
những tài liệu chưa được xuất bản chính thức tại Việt Nam.Có thể nói không
ngoa, ở Việt Nam bây giờ, Hồ Công Khanh là một trong số ít những người
gìn giữ cái “thư viện riêng” về Bùi Giáng, bằng tất cả tấm lòng của mình với
tiền nhân. Hồ Công Khanh hầu như chưa bao giờ vắng mặt trong những buổi
lễ kỉ niệm, tưởng niệm về cố thi sĩ. Đây cũng là cách tác giả thể hiện sự kính
trọng và ngưỡng mộ một tài năng độc đáo. Bên cạnh đó, Hồ Công Khanh còn
là một nhà thư pháp có tiếng. Trong cuốn Bùi Giáng trong tôi, Hồ Công
Khanh đã trổ tài viết thư pháp rất nhiều tác phẩm thơ Bùi Giáng. Còn tác giả
Trần Đình Thu xuất thân là nhà báo, là cộng tác viên của nhiều tờ báo tại
TPHCM. Sau cuốn Bùi Giáng- thi sĩ kì dị, Trần Đình Thu vẫn ấp ủ ý định sẽ
có một công trình nghiên cứu sâu hơn về thi sĩ Bùi Giáng. Cả hai tác giả đều
rất yêu mến con người và thơ ca của Bùi thi sĩ, hai cuốn sách ra đời đầu tiên
`
để thoả mãn những cảm xúc của chính bản thân tác giả , và sau nữa cũng là
góp phần giới thiệu một chân dung lạ trên thì đàn Việt Nam thế kỉ thứ XX.
Tác giả Hồ Công Khanh không phải là người viết sách chuyên nghiệp.
Cuốn Bùi Giáng trong tôi như là một cuốn sách lưu giữ kỉ niệm nhiều hơn là
một công trình nghiên cứu mang tính học thuật về Bùi Giáng. Tác giả tìm
thấy sự đồng điệu lớn lao với nhà thơ này. Cuốn sách gồm năm phần: Một vài
cảm nhận về thi sĩ Bùi Giáng, Thông lộ Bùi Giáng, Bùi Giáng- những điều
chưa nói hết, Bùi Giáng- người không đem trần gian giấu vào hạt bụi, Bùi
Giáng- cội nguồn bí ẩn của thơ ca. Những bài viết của Hồ Công Khanh nặng
về cảm nhận hơn là phân tích, phê bình những thi phẩm của Bùi Giáng. Hồ
Công Khanh tìm thấy bóng dáng cùa mình trên hành trình sống, hành trình
thơ ca của Bùi Giáng.Với tất cả tấm lòng trân trọng một tài năng và niềm yêu
kính một nhân cách, tác giả của Bùi Giáng trong tôi cũng có gợi mở ít nhiều
cho chúng ta đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thêm về nhà thơ này.
So với cuốn Bùi Giáng trong tôi của Hồ Công Khanh, cuốn sách Bùi
Giáng- thi sĩ kì dị làm tốt hơn vai trò của một công trình nghiên cứu nhiều
mặt về văn nghiệp Bùi Giáng. Cuốn sách được ra đời trong kế hoạch viết một
bộ sách “phác hoạ chân dung các nhà văn nhà thơ trong đời sống thường
ngày và trong lao động nghệ thuật. Nó không phải là sách phê bình văn học.
Nhưng đôi chỗ vẫn kết hợp việc phân tích tác phẩm để minh hoạ cho cuộc đời
tác giả. Tuy nhiên việc phân tích này sẽ không đi quá sâu như những cuốn
sách phê bình” (Vài lời đầu sách). Cuốn sách chia làm hai phần, phần đầu
dành cho những bài viết về Bùi Giáng, phần sau dành để tuyển chọn và giới
thiệu một số thi phẩm tiêu biểu của Bùi Giáng theo tiêu chí phân loại của tác
giả cùng một số bài Bùi Giáng trả lời phỏng vấn các tờ báo. Các bài thơ trong
phần sau này được trích từ nhiều tập thơ của Bùi Giáng đã được xuất bản
hoặc sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau. Phần đầu gồm gần ba mươi bài viết
`
đi vào rất nhiều khía cạnh khác nhau về cuộc đời và văn nghiệp của Bùi
Giáng. Trần Đình Thu kể chuyện cuộc đời Bùi Giáng, kể về tài viết sách với
tốc độ kinh hồn, về những nguồn thi hứng dào dạt trong thơ ông, về những tác
phẩm văn học dịch mang đầy tính tư tưởng và triết lý…Có thể nói Trần Đình
Thu đã bao quát khá rộng về đề tài Bùi Giáng mà ông đã chọn để nghiên cứu.
Không chỉ dừng lại nghiên cứu các phần nội dung tư tưởng trong các tác
phẩm của Bùi Giáng, Trần Đình Thu còn có những bài đi sâu vào Ngôn ngữ
thơ Bùi Giáng- vốn là thế mạnh và là một trong những dấu hiệu khiến Bùi
Giáng không thể lẫn vào với ai. Trần Đình Thu nhận định dường như Bùi
Giáng “chơi” vốn ngôn ngữ chứ không có ý thức vận dụng ngôn ngữ theo kĩ
thuật này nọ để làm thành thơ. Tác giả đề cập đến một số cách “chơi” với
ngôn ngữ ở Bùi Giáng: nói lái, vờn chữ…
Chúng tôi khá tâm đắc với một đoạn mà Trần Đình Thu nhận định về
toàn bộ văn nghiệp của Bùi Giáng- thi sĩ tự khoác và được thiên hạ khoác cho
mình danh xưng “nhà thơ điên”: “ Bản chất của văn chương Bùi Giáng là sự
tổng hòa của những nghịch lý. Trong cái cà rỡn có sự đau xót, trong bỡn cợt
có nỗi ngậm ngùi, trong sự nghịch ngợm hồn nhiên trẻ thơ có sự uyên bác,
trong điên loạn cuồng si là một cõi mộng bát ngát đẫm tình…Cái nét riêng ấy
không ai có được, không ai bắt chước được và không thể có người thứ hai”.
Trong năm 2008, để kỉ niệm mười năm ngày mất của Trung Niên Thi
Sĩ ( 1998 – 2008), có thêm hai cuốn sách về Bùi Giáng đã được Nhà xuất bản
Lao động và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây phối hợp xuất bản. Đó là
Bùi Giáng qua 99 giai thoại do Huyền Li sưu tầm và biên soạn, và Bùi Giáng
trong cõi người ta do Đoàn Tử Huyến chủ biên. Hai cuốn sách xuất hiện trên
thị trường vào khoảng cuối năm 2008 và gây được một “cơn sốt” nho nhỏ
trong cộng đồng độc giả yêu thơ ông. Bùi Giáng và 99 giai thoại là một cuốn
sách đễ đọc và và gây nhiều hứng thú. Người ta tìm thấy trong đó những giai
`
thoại về một con người chưa bao giờ thôi đặc biệt. Từ những người đã từng
tiếp cận văn nghiệp Bùi Giáng cho đến những người chưa hề đọc qua một tác
phẩm nào của ông cũng đều tìm thấy sự thú vị khi đọc tập sách mỏng này.
Cuộc đời Bùi Giáng bao phủ bởi số lượng không đếm được những giai thoại
mà người ta không thể rõ thực hư. Con số 99 chỉ là một con số tương đối,
mang tính giới hạn để làm hấp dẫn thêm “một hiện tượng lạ, có thể nói, độc
nhất vô nhị, là Bùi Giáng”. Bùi Giáng trong cõi người ta là một công trình
biên soạn nghiêm túc, tập hợp một số lượng lớn những bài nghiên cứu về Bùi
Giáng từ trước đến nay, từ nhiều nguồn khác nhau. Mỗi nhà nghiên cứu đều
chọn cho mình một khía cạnh tâm đắc nhất để nhìn về con người cũng như
phê bình, nhận định về văn nghiệp của Bùi Giáng. Cuốn sách này thuộc vào
loại đầy đặn và chỉn chu mà mang tính học thuật cao trong số những công
trình nghiên cứu về Bùi Giáng đã được xuất bản hợp pháp từ trước đến nay ở
Việt Nam.
Về những nguồn tài liệu khác như sách, báo và mạng internet, chúng
tôi nhận thấy thông tin về Bùi Giáng khá đa dạng và đáng được lưu tâm,
nhưng cũng đòi hỏi người nghiên cúu phải có kĩ năng thẩm định và chọn lọc
thông tin để có thể nhìn nhận về Bùi Giáng một cách khách quan và khoa học
nhất. Tuy sách viết bề Bùi Giáng hiện không có nhiều nhưng các bài viết đăng
trên các báo, tạp chí hoặc trên mạng internet lại khá phong phú và đa dạng,
được viết từ trước và sau năm 1975.
Đầu tiên là giai phẩm Văn, số đặc biệt về nhà thơ Bùi Giáng tháng 5
năm 1973, đăng hàng loạt những bài viết: Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn –
Thanh Tâm Huyền, Thi ca và tư tưởng – Tuệ Sỹ, Bùi Giáng về cố quận –
Nam Chữ, Bùi Giáng cải lương ca – Cao Huy Khánh, Bùi Giáng trên đường
về cố hương – Trần Hữu Cư, Ẩn ngữ cung bậc thi ca – Thục Khư, Chung
quanh vấn đề Bùi Giáng – Trần Tuấn Kiệt... Phần lớn những bài viết này đều
`
cố gắng chỉ ra cái độc đáo trong sáng tác của nhà thơ, nhất là ở bình diện
ngôn ngữ và tư tưởng. Có người, thậm chí còn đồng thuận trong cách đánh
giá, gọi ông là một thiên tài, thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca Việt
Nam hiện đại. Có người đánh giá rất cao khi đọc tác phẩm Thi ca tư tưởng
của ông, cho ông là người đầu tiên mở ra một cuộc Hội thoại của Tại thể
chúng ta giữa Tồn sinh và Lịch sử, và mượn ý của M. Heidegger, Wozu
Dichter để ngợi ca: Trong thời đại của đêm tối cõi đời, của cái vực sâu không
đáy kia của cõi đời phải được thể nghiệm và được kiện tận miên bạc bình
sinh. Mà muốn được như vậy, thì điều cần thiết là phải có vài kẻ đạt tới cái
chỗ cùng tận của cái vực sâu không đáy (Tuệ Sĩ – Thi ca và tư tưởng – Giai
phẩm Văn – tháng 5 – 1973 – trang 27). Tìm hiểu về một tác giả, những cứ
liệu trên cũng chỉ dừng ở mức độ tham khảo.
Đến năm 1997, tạp chí Thời Văn, số 19, ra số đặc biệt về nhà thơ
Bùi Giáng, đã xuất hiện một số cây bút phê bình mới: Đôi nét về thi sĩ Bùi
Giáng – Phạm Văn Hạng , Tản luận về Bùi Giáng – Ban biên tập báo, Bùi
Giáng – Cuộc đùa vui ngôn ngữ - Vũ Đức Sao Biển, Mượn lời anh Sáu Giáng
– Nguyễn Lương Vy, Bùi Giáng – Đào Hiếu, Bùi Giáng – Đi vào cõi thơ –
Trần Hữu Dũng, Nguyên khởi về cõi tinh mật Bùi Giáng – Khiêm Lê Trung,
Thử một lần đối diện với thơ và con người thơ Bùi Giáng – Trương Vũ Thiên
An, Mùa xuân trong thơ Bùi Giáng – Hồ Ngạc Ngữ, Bùi Giáng với Ly Tao –
Bửu Khánh Hồ, Vài cảm nghĩ về Bùi Giáng – Nhất Thanh, Bùi Giáng – Thi sĩ
kỳ dị - Huỳnh Ngọc Chiến… Đọc qua những bài viết này, tôi thấy có những
điểm nhìn quen thuộc trong các bài viết trước và một vài điểm mới. Cách nhìn
của giới văn nghệ về thơ Bùi Giáng nhìn chung vẫn nghiêng về tư tưởng và
ngôn từ. Tuy nhiên, một số cây bút đã có phần dè dặt hơn trong tiếp cận thế
giới thơ ca Bùi Giáng. Họ đã có cái nhìn cẩn trọng hơn , nhưng đều đồng nhất
Bùi Giáng là một hiện tượng độc đáo của văn học, một hiện tượng rất khó
`
nắm bắt và thấu hiểu một cách chính xác. Vẫn còn đó những lời khen tặng,
nhưng đã bớt phần dị thường. Ta thử điểm lại: Bùi Giáng là một hiện tượng
thơ khá phức tạp của miền Nam trước 1975… Có thể nói cả đời ông là sự tận
hiến cho thơ và vì thơ (Khiêm Lê Trung – Nguyên khởi về cõi tinh mật Bùi
Giáng – trang 45). Có quá nhiều người viết về thơ Bùi Giáng – ông được gọi
là tài hoa, ông là người nghỉ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ, chứ
không phải nghĩ ra thơ, làm thơ (Trần Hữu Dũng – Bùi Giáng – Đi vào cõi
thơ – trang 43). Chưa có ai dám sống và dám chết hết mình cho thi ca nhu
Anh. Và cũng có thể nói rằng Anh là một trường hợp cực kỳ hiếm trong lịch
sử thi ca Việt Nam (Nguyễn Lương Vỵ - Mượn lời anh Sáu Giáng – trang 42).
Thêm vào hành trang cho chuyến du hành của tôi vào cõi thơ Bùi Giáng, đó là
những đánh giá có sắc thái song hành trong lời đề tặng và phê phán: Hiện
tượng Bùi Giáng không phải là hiện tượng thi ca hay tư tưởng mà là hiện
tượng về sự phá hủy… Toàn bộ những suy nghĩ của ông chỉ là sự tập hợp của
những khát vọng vụn vặt về tình ái và lẽ tử sinh… Hễ ai dính dáng tới ái tình,
tới chuyện tử sinh là ông khen, bất chấp hay dở, cũ mới, lớn bé, bất chấp
người đó là ông A bà B nào mà ông tình cờ nhặt được trong cơn nổi hứng. Đủ
thấy “Thi ca tư tưởng” là một phê bình nhận định ngẫu hứng vừa sâu sắc vừa
ba phải tào lao đến cở nào (Đào Hiếu – Bùi Giáng – trang 40). Những góc
nhìn đó đã góp phần không nhỏ trong quá trình tìm hiểu đầy đủ hơn về con
đường thơ đầy phức tạp của thí sinh Bùi Giáng. Và gần đây nhất, báo Thanh
niên, những số báo trong tháng , năm 2005, ở trang Văn hóa nghệ thuật, tiêu
đề Bùi Giáng – Thi sĩ kỳ dị, đã cho đăng tải nhiều kỳ các bài viết về con người
và thơ Bùi Giáng. Nhìn chung, đó là những bài viết phần lớn nghiêng về
thông tin hơn là tính nghiên cứu, học thuật.
Nếu dùng công cụ tìm kiếm thông tin phổ biến nhất, nhanh nhất và hữu
hiệu nhất hiện nay là “Google” để search những từ khoá (key) liên quan đến
`
Bùi Giáng trên mạng internet, chúng ta sẽ không khỏi bất ngờ vì một số lượng
khá lớn các trang tin có liên quan đến Bùi Giáng. Lẽ dĩ nhiên, công cụ tìm
kiếm google chỉ có giá trị đầu tiên ở mặt cung cấp số lượng những trang tin,
chứ chúng tôi chưa đủ sức để kiểm chứng độ chính xác của toàn bộ các trang
tin vốn vẫn biến động từng ngày trong cái thế giới thông tin cứ rộng lên từng
ngày. Tuy nhiên, số lượng không nhỏ các trang tin liên quan đến Bùi Giáng
trên mạng internet cũng góp phần khẳng định sự hấp dẫn của tên tuổi cũng
như văn nghiệp Bùi Giáng đối với bạn đọc Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung.
Cuối cùng, chúng tôi xin trích lại nhận định đánh giá của tác giả T.
Khuê viết về Bùi Giáng trong Từ điển văn học – NXB Thế giới – bộ mới ,
xuất bản năm 2004, để khép lại tiêu mục này: Bùi Giáng viết rất nhiều, nhưng
những gì còn lại chính là thơ… Thơ Bùi Giáng ngay từ thuở đầu đã rong chơi
lãng mạn, tinh nghịch, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, luôn luôn là những lời vấn đáp
lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ sinh tồn, về những chuyện phù du, dâu bể,
ẩn khuất khía cạnh dục tình khép mở Xuân Hương… Tính chất “bất khả tri”
trong triết lý Đông phương và triết học hiện sinh gặp nhau trong thơ Bùi
Giáng: nếu trường phái hiện sinh vô thần bác bỏ tính chất định mệnh, thì ở
Bùi Giáng định mệnh và hiện sinh giao hưởng với nhau thành một cấu trúc tư
tưởng mới, tạo nên những vần thơ đậm dấu Đạm Tiên, hắt ra những ảnh siêu
thực… Bi kịch của Bùi Giáng là ông lặp lại chính mình, ngay cả trong thơ,
cho nên những hình ảnh đẹp, những tư tưởng tân kỳ, nhiều khi được dùng lại
nhiều lần trở thành sáo và vô nghĩa. Dù sao chăng nữa, Bùi giáng ao được
một mẫu ngông thời đại, sáng tạo một kiểu say sưa, chán đời của thế kỷ XX,
khác với Nguyễn Khuyến trong kỷ 19 hoặc Tản Đà đầu thế kỷ 20 (trang 163).
`
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng đa dạng phương pháp nghiên
cứu, trong đó đặc biệt phát huy tối đa tác dụng của phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp hệ thống và phương pháp thống kê, phân loại. Phương
pháp phân tích và tổng hợp giúp chúng tôi nhìn sâu vào đề tài đã chọn, không
những thế, phương pháp này còn giúp xem xét vấn đề đó trong mối liên quan
với những vấn đề khác có những sự tương đồng tương đối. Phương pháp hệ
thống giúp hệ thống hóa cách tiếp cận Bùi Giáng ở những phương diện khác
nhau. Phương pháp thống kê phân loại rất cần thiết trong quá trình thực hiện
luận văn này vì nó giúp chúng tôi thống kê được tần số xuất hiện của một số
từ ngữ đặc biệt, những kết cấu dòng thơ đặc biệt…trong thơ Bùi Giáng.
4. MỘT SỐ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn hướng đến việc cung cấp một cái nhìn tương đối toàn diện về
những cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong thơ Bùi
Giáng, để từ đó góp thêm tiếng nói khẳng định những đóng góp và vị thế của
nhà thơ trong tiến trình vận động và phát triển của thơ Việt Nam hiện đại. Bên
cạnh đó, luận văn cũng mong muốn góp phần bước đầu khắc hoạ chân dung
văn học của Bùi Giáng và khơi mở những hướng nghiên cứu tiếp theo.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Dẫn luận và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được
triển khai thành ba chương:
Chương 1: Giới thiệu chung về Bùi Giáng
Chương 2: Những cảm hứng chính trong thơ Bùi Giáng
Chương 3: Đặc điểm thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu thơ Bùi Giáng
`
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BÙI GIÁNG
1.1.VÀI NÉT VỀ CON NGƯỜI
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926, quê ở làng Thanh Châu, xã
Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông là con thứ hai trong gia
đình có 8 người con. Thân sinh của Bùi Giáng là cụ Bùi Thuyên, thân mẫu là
bà Huỳnh Thị Kiền. Khi vào miền Nam ông được gọi là Sáu Giáng. Thưở nhỏ
ông theo học tiểu học ở Hội An, học trung học tại Thuận Hoá- Thừa Thiên.
Năm 1948 gia đình ông tản cư về Trung Phước. Từ 1950 đến 1952 ông chăn
bò ở vùng rừng núi Trung Phước. Đây là khoảng thời gian mà ông gọi là 15
năm chăn dê như Tô Vũ thời xưa. Trong thập kỷ 60,70 của thế kỷ XX, ông có
dạy học tại một số trường tư thục của Sài Gòn. Có thời gian ông điều trị bệnh
ở dưỡng trí viện Biên Hoà. Ông mất ngày 7 tháng 10 năm 1998 tại TPHCM.
Bùi Giáng là một con người gây kinh ngạc cho bất kỳ ai quan tâm đến
ông. Làm thơ, dịch tiểu thuyết của các tác gia danh tiếng trên thế giới, viết
sách nghiên cứu triết học đông tây kim cổ với những kiến thức vô cùng uyên
bác… nhưng Bùi Giáng đồng thời lại còn chạy nhảy la hét ngoài đường trong
bộ dạng của những con người mà ta quen gọi là điên. Cuộc đời Bùi Giáng vì
vậy luôn được bao phủ bởi vô số những giai thoại ly kỳ, những thông tin hư
hư thực thực. Từ năm 1962 trở đi, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu
sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Càng về sau càng nhiều hơn. Nói về số
lượng, thì ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền
Nam trước giải phóng. Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ
`
thì phải kể bằng đơn vị ngàn bài. Tuy nhiên, ông hoàn toàn không phải một
học giả cần mẫn, suốt ngày giam mình trong thư viện, miệt mài bên trang
sách mà thậm chí còn ngược lại. Nhiều người từng gần gũi ông ngạc nhiên
nói rằng họ chỉ thấy Bùi Giáng suốt ngày lang thang rong chơi nhàn nhã, bia
rượu uống tràn, thế nhưng khi nhà xuất bản cần, chưa đến một ngày ông đã
mang đến cả năm bảy trăm trang sách. Vậy ông viết sách vào lúc nào? Một
nhà văn gần gũi với Bùi Giáng trước năm 1975 kể lại chuyện viết sách của
ông như sau: "Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy
Thanh Tuệ (Giám đốc Nhà xuất bản An Tiêm lúc đó) vì một tấm lòng liên tài
đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, đã dành trọn phương tiện cho ưu
tiên xuất bản tác phẩm của Bùi Giáng trước mọi tác giả khác. Và giai đoạn
có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt
nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ
sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy
giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy
giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm". Nhà
văn này kể tiếp: "Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng
giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất thong dong, tưởng chừng
như thi sĩ chẳng hề có điều chi vướng bận, rộn lòng cả”.
Chưa bao giờ những người gần gũi Bùi Giáng bắt gặp ông đang ngồi
viết sách. Có người ngạc nhiên quá, tìm cách rủ Bùi Giáng tới quán uống
rượu để tìm hiểu. Nhưng chỉ tốn rượu đãi Bùi Giáng chứ chẳng khai thác
được chút thông tin nào. Vặn hỏi mãi ông cũng không giải thích điều gì. Bùi
Giáng chỉ cười cười, đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu và nói "vui thôi mà"
trước sự ngơ ngẩn của người hỏi chuyện. Trước sau ông không hề giải thích
bất cứ thắc mắc nào.
`
Bùi Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái
bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của nó. Quá trình tư duy và lao động
sáng tạo trong con người Bùi Giáng như thế nào? Ông đã hình thành những tứ
thơ ra sao? Vì sao ông có thể tuôn ra được những câu thơ mà không cần suy
nghĩ? Đó là những câu hỏi mà rất nhiều người tò mò muốn biết nhưng có lẽ
không ai tìm hiểu được. Ông Huỳnh Ngọc Chiến, một người quen biết với Bùi
Giáng kể, một lần nọ có mấy người bạn Quảng Nam cùng ngồi uống cà phê
với Bùi Giáng, một người rất ái mộ Bùi Giáng tò mò hỏi ông thường làm thơ
như thế nào, thì Bùi Giáng cười và nói: "Qua làm thơ cũng giống như em là
kỹ sư mà làm toán lớp ba rứa thôi".Theo ông Huỳnh Ngọc Chiến thì lúc đó
Bùi Giáng trả lời rất thành thật, chẳng có một chút biểu hiện cao ngạo nào cả.
Vì thế có thể tin lời Bùi Giáng rằng với ông, làm thơ là một công việc dễ
dàng, đơn giản như ta làm toán cộng toán trừ, đặt bút vào là làm chứ không
cần phải suy nghĩ. Chính nhờ khả năng viết nhanh đó mà Bùi Giáng đã cho ra
đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ như trên. Giai đoạn ra sách nhiều nhất của
Bùi Giáng là khoảng từ năm 1964 đến năm 1970. Riêng năm 1969 Bùi Giáng
cho ra đời đến mười cuốn sách. Cũng trong những năm này có những người
đứng ra thành lập nhà xuất bản với mục đích chủ yếu để in tác phẩm của Bùi
Giáng.
Có một số người Bùi Giáng nhắc lại mãi trong những trang viết của
mình như là một nỗi ám ảnh. Hình bóng họ đã ăn sâu vào tiềm thức ông do
những ấn tượng mạnh mẽ lúc ban đầu. Khi bệnh tình bộc phát, những hình
bóng đó sẽ xuất hiện trở lại trong văn thơ ông theo những cách khác nhau.
Trên lĩnh vực tri thức, đại thi hào Nguyễn Du và triết gia người Đức Martin
Heidegger được ông lặp lại nhiều nhất. Khi bước vào con đường nghiên cứu,
Bùi Giáng quan tâm đến Nguyễn Du đầu tiên cùng với một số tác giả cổ điển
khác. Chúng ta nhớ lại, cuốn Một vài nhận xét về Truyện Kiều và Truyện
`
Phan Trần được ông viết vào năm 1957 thật sáng trong mạch lạc. Kể từ đó,
thiên tài Nguyễn Du bắt đầu "nhập hồn" Bùi Giáng. Cái tên Nguyễn Du xuất
hiện với tần số dày đặc trong những bài viết của Bùi Giáng. Trong thơ, trong
văn, trong giới thiệu tư tưởng và triết học, thậm chí cả trong những bản dịch
tiểu thuyết nước ngoài… đâu đâu ta cũng bắt gặp hình bóng Nguyễn Du. Bùi
Giáng còn sáng tác nhiều bài thơ về Nguyễn Du. Một số bài thơ khác không
liên quan, thì ông lại đề tặng Nguyễn Du. Tuy nhiên, không phải như thế là
Bùi Giáng sẽ dành những câu chữ hay ho nhất để viết về "cố nhân" của mình.
Ngược lại, phần lớn những bài thơ viết về Nguyễn Du đều rất cà rỡn. Ta hãy
đọc vài đoạn thơ Bùi Giáng viết về Nguyễn Du. Đây là một đoạn trong bài
Nhớ ông: "Nhớ hoài ông Nguyễn ông Du / Ông Như ông Tố Điếu Đồ biển
Nam / Hồng Sơn Liệp Hộ hội đàm / Hồng Sơn sơn nguyệt minh quang một
mình". Hoặc một đoạn khác trong bài Tố Như nhớ quê: "Tôi nay lão nhược
hơn ông / Tôi ngoài bảy chục thong dong một mười / Ông chưa tới tuổi sáu
mươi / Lìa đời lúc mới tuổi ngoài năm lăm". Đó là trong thơ. Vì thơ thì không
phải lúc nào cũng đưa được một người nào đó vào mãi nên sự xuất hiện của
Nguyễn Du cũng có giới hạn. Nhưng trong văn xuôi thì Bùi Giáng liên tục
đưa Nguyễn Du vào. Đi sâu vào các trang sách của Bùi Giáng, ta thấy
Nguyễn Du xuất hiện dày đặc. Khen thơ Hồ Dzếnh, Bùi Giáng viết: "Cũng
may cho ông Nguyễn Du sinh ra ở thế kỷ trước. Nếu sinh ra đồng thời với Hồ
Dzếnh, ắt ông Nguyễn Du không còn chịu viết Đoạn Trường Tân Thanh làm
gì". Viết về một câu chuyện không đâu vào đâu, Bùi Giáng cũng lại nói về
Nguyễn Du: "Lại cũng như ông Nguyễn Du ham có hơn ba trăm năm sau có
kẻ khóc mình. Có một mẫu thân Phùng Khánh cho con bú trong hiện tại đã đủ
rồi, hà tất phải dỗ con nín khóc ba trăm năm sau". Viết về Albert Camus,
Bùi Giáng cũng không quên Nguyễn Du: "Rồi những điều Nguyễn Du nói với
ma, thì quỷ lại tưởng là nói với quỷ. Những điều Nguyễn Du nói với quỷ, thì
`
thần thánh lại tưởng là nói với thánh thần. Những ngộ giải chạy tràn lan. Quỷ
không hài lòng về Nguyễn Du, thần thánh bực bội vì Nguyễn Du". Trong
những cuốn sách như Mùa thu trong thi ca, Thi ca tư tưởng, Đường đi trong
rừng… cứ một đôi trang là ta bắt gặp hình ảnh Nguyễn Du hiện lên qua cái
lăng kính hài hước của Bùi Giáng: "Nguyễn Du không kinh hoàng nhảy lui.
Cũng không bị tẩu hỏa nhập ma, vùng vẫy rú lên một tiếng như Zarathustra
also sprach. Ông điềm nhiên làm Nam Hải Điếu Đồ. Kẻ câu ấy câu cái gì tại
Nam Hải?"… "Và đó cũng là duyên do kỳ dị thiên biến vạn hóa đã khiến
Nguyễn Du mở một trận Ẩn Tàng kỳ bí cổ kim bằng cách: cả hư không đặt để
nên lời, cả nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung của song trùng tịch hạp
thượng thừa huyền môn tâm pháp – Nguyễn Du đều đem gán vào môi miệng
Bạc Bà Tú Bà"… Bùi Giáng còn có cái thú làm thơ giả Kiều để ký tên chung
Bùi Giáng - Nguyễn Du hoặc Bùi Giáng - Tố Như. Đó là những đoạn lục bát
chen vào giữa những đoạn văn xuôi, có tí chút "chất Kiều". Trong cuốn
Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại có nhiều đoạn giả Kiều rất dài. Những
câu giả Kiều ấy có khi sai cả vần sáu tám.
Từ trước đến nay có rất nhiều người đặt câu hỏi: Bùi Giáng có phải là
một người bị mắc bệnh điên hay không? Cũng đã có rất nhiều bài viết về Bùi
Giáng đề cập đến vấn đề này, trong đó một số tác giả khẳng định Bùi Giáng là
người điên trong khi một số khác lại nói ngược lại. Trong một bài viết, tác giả
Trần Đới khẳng định: "Một sự thực là Bùi Giáng chưa bao giờ điên. Cũng
như anh chẳng bao giờ giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng bất mãn trước
bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo thời thế, mà
chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy càn khôn của anh. Thời kỳ của Bùi
Giáng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là điên, ấy là thời kỳ tỉnh lại và
hưng phấn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân thiện mỹ của nghệ thuật
thi ca từ nhiều đời nhiều kiếp đều dồn về lúc đó... Bây giờ người thi sĩ này chỉ
`
còn một cách duy nhất để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống". Một người
khác, ông Nhất Thanh, thì viết như thế này: "Ồ, chẳng có ngôn từ nào thích
hợp với Bùi Giáng cả. Ông chỉ là một ông già bình thường nhất, dễ thương
nhất. Nếu có điên chăng, có lẽ là tất cả chúng ta".Bùi Giáng hiển nhiên cũng
biết việc nhiều người tranh cãi nhau rằng ông có điên hay là không điên. Ông
đã tự viết về mình như sau: "Nó điên? Vâng nhưng điên một cách vui vẻ. Bạ
đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con. Người ta bảo rằng nó không điên.
Có kẻ bảo rằng nó giả vờ điên. Muốn biết nó điên hay không điên, hay giả vờ
điên, thì trước hết phải đáp vào câu hỏi: Sao gọi là điên? Nhưng mà? Nhưng
mà đó là một câu hỏi chưa hề có một lời giải đáp dưới gầm trời và suốt xưa
nay vậy". Đọc đoạn đó của ông người ta thấy hơi bối rối. Vậy thì Bùi Giáng là
người như thế nào? Ông là một người điên hay là một người bình thường?
Nhưng có một sự thật không thể chối cãi: Bùi Giáng đã từng là bệnh nhân của
bệnh viện tâm thần hẳn hoi. Năm 1969 là năm ông in được nhiều tác phẩm
nhất nhưng cũng là năm mà ông vấp phải cú sốc lớn thứ hai trong đời. Bùi
Giáng bị hỏa hoạn thiêu cháy hết toàn bộ sách vở quý hiếm, một số tranh và
đặc biệt nhiều bản thảo hoàn chỉnh mà ông rất tâm đắc. Con người hồn nhiên
của Bùi Giáng có lẽ không bị sốc vì chuyện này, nhưng sau đó người thân của
ông phải đưa ông vào Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa để chữa trị. Cung Tích
Biền kể: "Khoảng đầu thập niên 70 có lẽ người ta đưa ông vào nhà thương
điên Biên Hòa chữa cái bệnh đứng ngã ba nhìn ra ngã bảy. Từ nhà thương
điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh. Bèn hỏi một câu thường tình:
"Nhà thương Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay nhỉ!". Ông trả lời tỉnh queo: "Chữa
trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một, khi vô nhà
thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp;
trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình
nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên". Nghe Bùi Giáng nói như thế, hẳn
`
người ta cảm thấy ngờ ngợ rằng những việc làm không giống ai của ông là do
ông muốn thế chứ chẳng phải do bệnh tật gì gây ra. Nhà văn Đào Hiếu viết:
"Cũng có thể hiểu Bùi Giáng như thế này: Ông coi đời là hữu hạn, là phi lý,
là chốn lưu đày, là cõi phù du là cái mớ bòng bong vớ vẩn...". Chung quanh
vấn đề Bùi Giáng, có hai điều cần nêu ra sau đây. Một là, không phải chỉ có
mình Bùi Giáng vừa có những biểu hiện tâm thần vừa làm thơ viết văn. Có rất
nhiều bệnh nhân của các bệnh viện tâm thần là nhà văn, nhà thơ, họa sĩ... Họ
có thể vẽ tranh, sáng tác văn thơ ngay trong thời gian điều trị bệnh. Có điều
họ không có sẵn cái gốc tài năng xuất chúng như Bùi Giáng nên không trở
thành hiện tượng đặc biệt mà thôi. Hai là, những hành vi khác người của Bùi
Giáng đã được các nhà chuyên môn xác định có nguyên nhân bệnh lý hẳn hoi
chứ không phải là vấn đề tư tưởng hay nhân sinh quan gì cả. Có điều, vì ta
thấy cái điên của ông cũng hơi khác người nên cảm thấy ngờ ngợ. Nhưng dần
dần ta sẽ được rõ hơn khi xem xét đến các vấn đề khác. Cần biết rằng, không
riêng gì Bùi Giáng mà nhiều bệnh nhân tâm thần khác, tiếp xúc với họ đôi khi
ta cũng dễ nhầm lẫn vì thấy họ có vẻ thật thật giả giả, nửa điên nửa tỉnh. Cho
nên chúng ta không thể kết luận được về tình trạng của họ mà phải là các nhà
chuyên môn.
Không ai biết Bùi Giáng, đọc Bùi Giáng mà không yêu mến ông. Đó là
sự thật. Gọi ông là người tỉnh cũng được, điên cũng được, dù là tỉnh hay điên
ông cũng đã để lại cho đời những vần thơ mênh mang trác tuyệt. Ông mở ra
một thế giới thi ca cao vời, ảo diệu. Nói như một người từng gần gũi với ông:
"Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm cho tôi
là nếu có được thêm ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta còn được lạ lùng
được kỳ ảo biết bao nhiêu". Quả đúng như vậy !
`
1.2 SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Genève về Đông Dương
được ký kết vào tháng 7 năm 1954. Do sự can thiệp của Mỹ, đất nước ta tạm
thời chia đôi, lấy vĩ tuyến 17, sông Bến Hải, làm ranh giới. Sau hai năm, cả
nước sẽ tiến hành tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Bản hiệp định chưa ráo
mực, Mỹ đã dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam, với chiêu bài
tự do, chống lại chế độ Cộng sản ở miền Bắc, phá vỡ hiệp định Genève. Như
vậy, tình hình chính trị xã hội của đất nước ta trong giai đoạn này cực kỳ phức
tạp. Miền Bắc bắt tay thực hiện kế hoạch ba năm rồi năm năm đầu xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Miền Nam, chính quyền Mỹ - Diệm đưa ra luật 10/59, dã
tâm xóa trắng những cơ sở cách mạng. Nhân dân miền Nam vẫn kiên cường
gầy dựng lại cơ sở cách mạng, đấu tranh chính trị. Đến năm 60, đồng bào
miền Nam làm nên phong trào Đồng Khởi, chính thức tiến hành cuộc đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang trên bình diện rộng. Từ đó, nhân dân cả
hai miền Nam Bắc cùng đấu tranh chống Mỹ - Ngụy. Miền Bắc vừa chiến đấu
chống cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, vừa trở thành hậu phương lớn của
tiền tuyến lớn miền Nam cho đến ngày chiến thắng 30/4/1975, thống nhất đất
nước. Tình hình chính trị xã hội ở các đô thị miền Nam, vùng giặc tạm chiếm
cũng không kém phần phức tạp. Nền kinh tế miền Nam trong thời kỳ này chủ
yếu tồn tại được là nhờ hàng viện trợ của Mỹ. Mỹ ồ ạt đổ hàng viện trợ vào
miền Nam Việt Nam, tạo nên một nền kinh tế phồn vinh giả tạo. Danh xưng
Sài gòn hòn ngọc viễn đông đã lừa bịp được một số người nhẹ dạ. Trong
quyển Nhìn lại một chặng đường văn học, giáo sư Trần Hữu Tá cũng đã viết:
Viện trợ của Mỹ chủ yếu là cung cấp hàng tiêu dùng, làm giàu cho những nhà
nhập cảng mà số lượng nhảy vọt từ vài trăm lên tới hai chục vạn người,
nhưng lại bóp chết nhiều ngành sản xuất bản xứ. Và ông cũng đã trích dẫn
nhận xét của tạp chí kinh tế Phát triển, của Pháp, tháng 6 năm 1972: Sự suy
`
sụp của dân chúng về sức khỏe, về nhà cửa, về giáo dục cũng không kém
phần bi thảm, cũng như sự tan nát hay đồi bại của cả môt thế hệ tài năng
dùng để xây dựng đất nước đều mất sạch. Đã nhiều năm rồi, miền Nam Việt
Nam sống nhờ của bố thí. Dân chúng ở các thành thị sống một mức sống
hoàn toàn giả tạo (trang15,16). Sống trong thời đại như thế, Bùi Giáng sống
và làm thơ trong thế giới của riêng ông. Không bị chi phối bởi chính trị,
không chọn con đường đến với cuộc đấu tranh chống Mỹ dữ dội và khóc liệt,
Bùi Giáng ngao du vào cõi riêng, ở đó, ông khóc cười với cuộc đời, với mọi
biến động của tha nhân. Ông bắt đầu sáng tác vào cuối năm 50 thế kỷ XX.
Ông sáng tác rất nhiều, nhưng chúng ta vẫn chưa thống nhất được số lượng
chính xác các tác phẩm của ông. Từ năm 1952 trở đi, ông liên tục sáng tác và
dịch thuật.
Những sáng tác của Bùi Giáng đã được in khá nhiều trong giai đoạn
này. Đầu tiên có thể kể đến sách giáo khoa và luận đề. Bùi Giáng đã nghiên
cứu về các tác giả sau đây: -Bà Huyện Thanh Quan - Lục Vân Tiên - Chinh
Phụ Ngâm - Quan Âm Thị Kính - Truyện Kiều - Truyện Phong Trần - Cung
Oán Ngâm Khúc - Nguyễn Công Trứ - Tản Đà - Phan Bội Châu - Chu Mạnh
Trinh - Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị, xuất bản từ 1957 - 1959.
Với khả năng am hiểu ngoại ngữ uyên thâm và năng lực chuyển dịch
ngôn ngữ tuyệt vời. Bùi Giáng đã để lại cho chúng ta một số lượng dồi dào và
phong phú những bản chuyển ngữ đậm chất văn chương. Có thể kể đến những
tác phẩm tiêu biểu sau đây: Cõi Người Ta của Saint Exupéry, Trăng Tỳ Hải
của Albert Camus, André Gide, Heidegger, Khung Cửa Hẹp của André Gide,
Hoa Ngõ Hạnh của W. Shakespeare, Bạo Chúa Caligula của Albert Camus,
Con Người Phản Kháng của Albert Camus, Ngộ Nhận của Albert Camus,
Mùa Hè Sa Mạc của Albert Camus, Kẻ Vô Luân của André Gide, Hamlet của
W. Shakespeare, Hòa Âm Điền Dã của André Gide, Hoàng Tử Bé của Saint-
`
Exupéry, Mùi Hương Xuân Sắc của Gérard De Nerval, Kim Kiếm Điêu Linh
của Ngoạ Long Sinh, Biển Đông Xe Cát của Albert Camus, Nhà Sư Vướng
Lụy của Đại sư Tô Mạn Thù.
Chúng tôi xin dành hẳn một phần riêng để viết về một tác phẩm văn
học của một tác giả Pháp mà bao thế hệ ngưởi đọc Việt Nam ta đã say mê
qua ngòi bút tài hoa và tinh tế của dịch giả Bùi Giáng. Bùi Giáng không phải
là người duy nhất chuyển dịch Việt ngữ tác phẩm Le petit prince của nhà văn
Pháp Saint Exupery, nhưng có thể nói không ngoa, rằng với Bùi Giáng,
Hoàng tử bé đã vĩnh viễn sống trong trái tim những người Việt Nam đắm say
thiên truyện ngắn u uẩn vế một “mặt đất trần trọng và đau thương này”.
Chúng tôi dừng lại ở Hoàng tử bé, bởi lẽ không chỉ đơn giản là dịch tác phẩm
này từ tiếng Pháp sang tiếng Việt mà dường như Bùi Giáng của chúng ta
dường như cũng chính là một hoá thân vĩnh viễn của Hoàng tử bé.
Có thể ví "Hoàng Tử Bé" với một bài thơ tuyệt tác, ý tại ngôn ngoại,
mở ra một thế giới vô cùng rộng lớn đằng sau những từ ngữ và hình ảnh, một
bài thơ mà vẻ đẹp của nó không có giới hạn, chỉ phụ thuộc vào sự nhảy cảm
và trí tưởng tượng của độc giả. Hoàng tử bé là một cuốn sách người ta sẽ
không bao giờ cảm thấy chán dù đã đọc hàng trăm lần. Những dòng văn đẹp
như một áng thơ của Hoàng tử bé luôn là lựa chọn số một của những người
yêu sách khi muốn giới thiệu về một cái gì đó tiêu biểu cho sự thơ mộng, sự
trong sáng, về tình yêu, tình bạn, về cái đẹp, về niềm hy vọng của con người
trước những hiểm họa mà chính con người sẽ gây ra cho thế giới của mình.
Hoàng Tử Bé chỉ có một. Trăm năm ngàn năm sẽ không bao giờ có một
hoàng tử bé thứ hai. Hoa hồng của hoàng tử cũng chỉ có một. Dù trên thế gian
có triệu triệu khu vườn, mỗi khu vườn có trăm ngàn đóa hồng giống hệt nhau,
cuối cùng cũng chỉ có một đóa hồng cậu đã chăm sóc, đã yêu thương, đã giận
hờn... Thế gian thì vô cùng. Ước mơ thì vô tận. Hoàng tử bé đi chu du khắp
`
các thiên hà cuối cùng vẫn đau đáu nhớ về cái hành tinh bé nhỏ của mình. Sự
trở về khó khăn và đau đớn. Hoàng tử bé thật có quay về được không? Có
phải bao giờ cũng trở về được đâu...Chuyện mở vào lời kể của tác giả về một
bức tranh của mình vẽ khi còn bé. Bức tranh số một vẽ một con trăn đã nuốt
trọn một con voi vào bụng và nằm để tiêu hóa con mồi. Đưa cho mọi người
xem ai cũng bảo đó là một chiếc… nón nỉ. Cậu bé tức giận vẽ Bức tranh số
hai cũng y như bức số 1 nhưng có vẽ thêm hình con voi nằm bên trong bụng
con trăn cho mọi người… sáng mắt ra. Kết quả là cậu được khuyên… thôi
đừng vẽ nữa. Vậy đó, trẻ em bao giờ cũng giàu óc tưởng tượng hơn người
lớn… Và chúng thường bị người lớn đối xử bất công theo kiểu “cả vú lấp
miệng em” làm chúng nhiều khi… tức chịu không nổi. Từ đó tác giả cứ đem
hai bức tranh nọ ra như một bài test trắc nghiệm hết thảy những người lớn mà
ông gặp… Ông thất vọng vô cùng… vì nếu chỉ nhìn bức tranh số một thì
chẳng ai “nhìn” ra được con voi nọ trong bụng con trăn. Tác giả chán nản
không thèm nói chuyện văn thơ nghệ thuật với những kẻ đó. Và, để “hạ mình
xuống cho ngang tầm với họ” ông chỉ nói chuyện với họ về đánh bài, đánh
cầu, uống rượu hay về chính trị, về áo quần hay trang sức…Trong đời chúng
tôi sau này và có lẽ bạn nữa cũng vậy, nếu đầu óc bạn cũng đầy tưởng tượng
đầy mơ mộng như tác giả, bạn sẽ nhiều lúc cảm thấy mình “lạc lõng” như thế
giữa cái thế gian này, vốn đầy những kẻ thực dụng, phàm phu tục tử, thô hào,
chẳng chút gì thơ mộng thăng hoa văn nghệ văn gừng….Vậy nên tác giả khôn
xiết ngạc nhiên khi vẽ cho Hoàng tử bé xem cái bức tranh số một vốn có hình
giống như… cái mũ, thì cậu bé liền nhìn ngay ra con voi nằm ẩn tàng sâu kín
trong bụng con trăn nọ. Và khi ông lúng túng không vẽ được một con cừu cho
cậu (ông bỏ “nghề” vẽ đã lâu vì lâu nay phải sống chung với toàn những kẻ
phàm phu thô thiển chẳng thiết gì tới nghệ thuật văn chương) và ông bèn vẽ
đại một cái hộp mà bảo rằng: “Đấy,… con cừu của chú đó” vậy mà Hoàng tử
`
Bé lại mừng rỡ kêu lên đúng rồi con cừu của tôi đó rồi, nó nằm ngoan ngoan
trong cái hộp đây mà. Truyện bắt đầu ngộ nghĩnh như thế. Từ đó chúng ta
chuẩn bị đi vào thế giới ngụ ngôn triết lý đìu hiu thơ mộng của tác giả, cái thế
giới mà người ta không thể chỉ nhìn bằng mắt mà phải nhìn bằng trí tưởng,
bằng trái tim (Hay nói như Mộng Liên đường Chủ nhân trong bài tựa cho
Đoạn trường Tân Thanh là phải nhìn bằng “con mắt trông suốt cả bốn
cõi”)Truyện đầy rẫy những ngụ ngôn nho nhỏ, những lời thơ mộng thở than,
những ngẫm nghĩ ngậm ngùi bâng khuâng tơ tưởng, lãng đãng phất phơ…Tác
giả cùng ta cười buồn cái kiêu hãnh ngô nghê của người lớn bằng cái nhìn
ngây thơ trung thực của cậu Hoàng tử bé nhỏ. Cậu có cái nhìn trong suốt như
cậu bé trong truyện của Andersen đã phát hiện ra ông vua cởi truồng trong khi
tất cả bọn người lớn, vốn đầy mặc cảm, nên cứ nghĩ nhà vua đang mặc cái áo
thần kỳ….Chẳng hạn…Hoàng tử bé găp một ông vua đơn độc trên một hành
tinh nhỏ xíu nọ. Chỉ có một mình không bầy tôi, không thần dân…Nhưng ông
vua vẫn muốn ra cái oai của một đế vương. Ông ra lệnh cấm ngáp rồi lại ra
lệnh ngáp, rồi lại ra lệnh lúc ngáp lúc không… đổi tới đổi lui để sao cho
người ta phải... tuân lệnh mình. Đó là thế giới người lớn kỳ cục. Truyện tưởng
như đùa, nhưng sống lâu năm trên cõi đời này rồi thì bạn sẽ thấy chuyện đó
nhan nhản ở các nhà cầm quyền trên thế giới…Ông vua muốn Hoàng tử bé ở
lại làm bày tôi của ông nhưng chàng nhất định đi. Rốt cuộc nhà vua phải vội
vàng phong chàng làm đại sứ lưu động để …phù hợp với ý muốn của kẻ bầy
tôi duy nhất này!Chàng lang thang trong vũ trụ và gặp tòan những gã người
lớn kỳ cục như thế. Gã khoe khoang thì lúc nào cũng tưởng người ta vỗ tay là
để tán tụng gã. Gã nghiện rượu có đủ lý do để uống rượu. Gã kế tóan suốt
ngày loay hoay với những con số. Vậy đó người lớn là vậy đó. Bạn muốn giới
thiệu một hành tinh mới được khám phá ư? Bạn phải là một nhà khoa học Tây
phương mới được, chứ nếu bạn là một anh chàng Hồi giáo chẳng hạn thì
`
chẳng ai tin!!! Bạn muốn giới thiệu một người bạn mới ư? Bạn phải nói về số
cân của anh ta, tuổi tác, địa vị anh ta, thu nhập của anh ta… chứ đừng nói anh
ta thích gì, anh ta yêu gì…Bạn muốn giới thiệu một căn nhà ư? Đừng nói nó
xây kiểu gì, có sân có vườn có hoa cỏ, có chim chóc gì gì… Cứ nói nó trị giá
một trăm nghìn phật lăng là lập tức người ta xúyt xoa hít hà…Người lớn là
vậy đó.Và chú bé cứ phải lang thang trong cái xứ sở lạ lùng đó, với nỗi nhớ
khôn khuây về một đóa hồng nơi chốn quê nhà mà chàng đã từ bỏ.Tập truyện
là lời phản kháng của cái thế giới ngây thơ con trẻ mộng mơ lãng mạn chống
lại thế giới người lớn thực dụng, khô khan, tính tóan, thô hào, bỉ lậu….Rải rác
lãng đãng trong truyện là những ý tưởng đìu hiu thăm thẳm, bàng bạc thơ
mộng, hắt hiu mà trầm ngâm say đắm..…Cái qúy nhất nó vô hình……Vô
hình như đóa hồng nơi tinh cầu xa xôi mà chàng Hoàng tử giờ chỉ còn ấp ủ
trong tâm tưởng……Vô hình như nguồn nước đâu đó trong sa mạc mà người
ta cứ mãi mãi đi tìm trong vô vọng……Vô hình như tâm hồn khôn xiết ngây
thơ trong sáng, ẩn náu trong thân hình xinh xắn của chàng Hoàng tử bé
con.Vô hình như kho tàng chôn giấu đâu đó trong ngôi nhà cổ.Hoàng tử nhìn
vào cuộc đời của những con người trên quả đất đìu hiu này…Chàng thấy
gì?…Thấy những người lớn mệt nhòai trên những chuyến tàu ngược xuôi
xuôi ngược khắp thế gian. “Chẳng bao giờ người ta hài lòng với nơi chốn
mình đương ở”, nên họ cứ đi suốt, nhưng họ không biết mình đi đâu về đâu.
Họ ngủ suốt. Chỉ có những đứa trẻ là thức… chúng dùng hết thời gian để tiêu
phí cho một con búp bê rách: Chỉ có chúng là biết điều chúng tìm kiếm. Và
khi con búp bê rách bị cướp đi thì chúng khóc…Trong những ngày buồn
người ta thích ngắm Hoàng hôn. Và trên tinh cầu nhỏ xíu của mình có ngày
Hoàng tử bé đã ngắm bốn mươi ba buổi hòng hôn. Và tôi hiểu rằng trong cái
ngày đó cậu đã xiết bao là u sầu…“Thật huyền bí khôn xiết là cái xứ sở của lệ
vàng”“Chuyện hệ trọng là chuyện phi cơ hay truyện đóa hoa chứ?Bác nói