ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
o0o
VŨ TÙNG LÂM
CHẾ TẠO VÀ NGHIÊN CỨU VẬT LIỆU
MULTIFERROIC LaFeO3 PZT
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
1
HÀ NỘI 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
o0o
VŨ TÙNG LÂM
CHẾ TẠO VÀ NGHIÊN CỨU VẬT LIỆU
MULTIFERROIC LaFeO3 PZT
Chuyên ngành: Vật lý chất rắn
Mã số: 60 44 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐẶNG LÊ MINH
2
HÀ NỘI 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, bản luận văn này do chính tôi học viên Vũ Tùng
Lâm chuyên ngành Vật lý chất rắn, Khoa Vật lý, trường Đại học Khoa
học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội hoàn thành dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS. Đặng Lê Minh. Bản luận văn không sao chép kết
quả từ bất kỳ các tài liệu nào. Nếu bản luận văn này được sao chép từ bất
kỳ tài liệu nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước đơn vị đào tạo và
pháp luật.
3
4
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Đặng Lê
Minh, người thầy đã tận tình chỉ bảo em suốt trong quá trình tham gia
nghiên cứu khoa học và làm luận văn tốt nghiệp.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô bộ môn Vật lý chất rắn,
Khoa Vật lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã trang bị cho em những
kiến thức cần thiết, cũng như được tạo điều kiện thuận lợi nhất trong học
tập và nghiên cứu khoa học.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới gia đình và bạn bè
của em, những người đã luôn giúp đỡ, động viên, khuyến khích em trong
hai năm học, cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn.
5
6
MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................7
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................55
MỞ ĐẦU
Vật liệu perovskite ABO3 thuần được phát hiện rất sớm từ đầu thế
kỷ 19, perovskite thuần được biết đến như là một chất điện môi, có hằng
số điện môi lớn và một số trong đó có tính sắt điện, áp điện, như BaTiO 3.
Vật liệu có cấu trúc perovskite đặc trưng ABO3, trong đó A là cation có bán
kính lớn định xứ tại các nút (đỉnh), B là các cation có bán kính nhỏ định xứ
tại tâm của hình lập phương. Từ những năm cuối thế kỷ 20, người ta phát
hiện ra rằng, khi vật liệu perovskite được biến tính, nghĩa là khi một phần
ion ở vị trí A hoặc B được thay thế bằng các ion kim loại có hoá trị khác,
thường là các cation kim loại đất hiếm (La, Nd, Pr…) hoặc kim loại
chuyển tiếp (Fe, Mn, Ni, Co…) thì nó xuất hiện các hiệu ứng vật lý lý thú
và hứa hẹn nhiều ứng dụng giá trị trong công nghiệp điện tử, viễn thông,
7
như hiệu ứng từ trở khổng lồ (CMR), hiệu ứng từ nhiệt khổng lồ
(CMCE), hiệu ứng nhiệt điện lớn ở nhiệt độ cao (HTME).
Trong những năm gần đây việc tổ hợp hai tính chất sắt điện và sắt từ
trên cùng một loại vật liệu (Vật liệu Multiferroic) đang là một hướng
nghiên cứu mới trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Vật liệu đó có thể
được sử dụng để chế tạo: thiết bị cộng hưởng sắt từ điều khiển bởi điện
trường, bộ chuyển đổi với module áp điện có tính chất từ, linh kiện nhớ
nhiều trạng thái, hơn nữa với việc tồn tại cả hai trạng thái sắt điện và sắt
từ trong cùng một loại vật liệu có ứng dụng trong việc làm máy phát, máy
truyền và lưu dữ liệu.
Thực chất, vật liệu multiferroics là một dạng vật liệu tổ hợp mà điển
hình là tổ hợp các tính chất sắt điệnsắt từ, do đó vật liệu ở dạng khối
được ứng dụng làm các cảm biến đo từ trường xoay chiều với độ nhạy
cao, các thiết bị phát siêu âm điều chỉnh điện từ, hay các bộ lọc, các bộ dao
động hoặc bộ dịch pha mà ở đó các tính chất cộng hưởng từ (sắt từ, feri
từ, phản sắt từ...) được điều khiển bởi điện trường thay vì từ trường.
Đối với các vật liệu dạng màng mỏng, các thông số trật tự liên kết sắt
điện và sắt từ có thể khai thác để phát triển các linh kiện spintronics (ví dụ
như các cảm biến TMR, hay spin valve... với các chức năng được điều
khiển bằng điện trường. Một linh kiện TMR điển hình kiểu này chứa 2
lớp vật liệu sắt từ, ngăn cách bởi một lớp rào thế (dày cỡ 2 nm) là vật liệu
multiferroics. Khi dòng điện tử phân cực spin truyền qua hàng rào thế, nó
sẽ bị điều khiển bởi điện trường và do đó hiệu ứng từ điện trở của hệ
màng sẽ có thể được điều khiển bằng điện trường thay vì từ trường.
Những linh kiện kiểu này sẽ rất hữu ích cho việc tạo ra các phần tử nhớ
8
nhiều trạng thái, mà ở đó dữ liệu có thể được lưu trữ bởi cả độ phân cực
điện và từ.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Chế tạo và nghiên cứu vật liệu
Multiferroic (LaFeO3PZT)” làm đề tài cho luận văn với mong muốn được
hiểu biết về loại vật liệu mới này.
Nội dụng chính của bản luận văn gồm:
Mở đầu.
Chương 1. Vật liệu Multiferroic vật liệu Perovskite sắt điện, sắt
từ..
Chương 2. Các phương pháp thực nghiệm.
Trình bày phương pháp chế tạo mẫu và các phương pháp khảo sát cấu trúc
tinh thể, cấu trúc tế vi, tính chất điện và tính chất từ của vật liệu chế tạo
được.
Chương 3. Kết quả và thảo luận.
Trình bày những kết quả chế tạo mẫu, nghiên cứu cấu trúc tinh thể, cấu
trúc tế vi, tính chất điện và tính chất từ của mẫu đã chế tạo và đưa ra
những nhận xét, giải thích kết quả.
Kết luận.
Tóm tắt các kết quả đạt được của luận văn.
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.
Chương 1. VẬT LIỆU MULTIFERROIC
VẬT LIỆU PEROVSKITE SẮT ĐIỆN, SẮT TỪ.
1.1. Vài nét về vật liệu Multiferroics.
9
1.1.1. Lịch sử và một số hiểu biết về vật liệu Multiferroic [3, 4]
Các vật liệu từ và điện có tầm quan trọng trong kỹ thuật hiện đại.
Thí dụ, vật liệu sắt điện (vật liệu có phân cực điện tự phát, nó có thể
được thay đổi trạng thái nhờ điện trường ngoài) được sử dụng rộng rãi
làm các tụ điện và là cơ sở của bộ nhớ điện (FeRAM) trong các máy tính.
Vật liệu được sử dụng rộng rãi nhất để ghi và lưu trữ thông tin, thí dụ
trong các ổ cứng, là vật liệu sắt từ (vật liệu có phân cực từ tự phát và có
thể được biến đổi trạng thái từ thuận nghịch nhờ từ trường ngoài). Kỹ
thuật ngày nay có khuynh hướng tiểu hình hóa các thiết bị, dụng cụ nên xu
hướng tích hợp các tính chất từ và điện vào các thiết bị đa chức năng đang
được đặt ra. Vật liệu trong đó các tính chất sắt từ và sắt điện cùng tồn tại
như ta đã biết là vật liệu “đa tính sắt” –“multiferroic”. Vật liệu multiferroic
được quan tâm không chỉ vì chúng đồng thời thể hiện các tính chất sắt từ
và sắt điện mà cũng còn do chúng có “hiệu ứng điện từ”, phân cực từ và
phân cực điện được tạo ra có thể được điều khiển bởi cả từ trường và
điện trường ngoài. Hiệu ứng này có thể được sử dụng rộng rãi để tạo nên
các thiết bị spintronic mới, thí dụ, các cảm biến từ trở tunel (TMR), các van
spin với chức năng được điều khiển bằng điện trường, và bộ nhớ đa trạng
thái trong đó các dữ liệu được ghi bằng điện trường và đọc bằng từ
trường. Tuy nhiên, để có thể sử dụng được dễ dàng, thuận tiện các linh
kiện đó thì đòi hỏi vật liệu phải có sự liên kết (coupling) điện từ mạnh và
hoạt động ở nhiệt độ phòng.
Hiệu ứng điện từ lần đầu tiên được giả thiết bởi Pierre Curie trong
thế kỷ 19 [3]. Năm 1959, Dzyaloshinskii đã mô tả hiệu ứng này trong Cr2O3
trên cơ sở xem xét tính đối xứng và Asrov đã khẳng định bằng thực nghiệm
10
năm 1960[46]. Nhiều nghiên cứu về hiện tượng này được thực hiện vào
năm 19601970, nổi trội là hai nhóm ở Nga của Smolenskii và Venevtsev.
Vật liệu sắt điệnsắt từ đầu tiên được phát hiện là Boraxit niken sắt
từ yếu, Ni3B7O13I. Nó mở đầu cho một loạt các vật liệu tổng hợp Boraxit
multiferoic sau này, chúng có cấu trúc phức tạp với nhiều nguyên tử trên
một đơn vị công thức và nhiều hơn một đơn vị công thức trên một ô cơ sở.
Số lớn các tương tác giữa các ion trong boraxit ngăn trở tính cách điện của
các yếu tố bản chất gây nên tính đa tính sắtmultiferoic và là bản chất của
liên kết giữa phân cực từ, phân cực điện và các thông số trật tự cấu trúc.
Nghiên cứu về tính sắt từsắt điện bắt đầu từ ở Nga trong những năm
1950, với sự thay thế một số cation vị trí B có phân lớp quỹ đạo d0 trong
các oxit perovskite sắt điện bằng các cation từ có phân lớp quỹ đạo dn .Vật
liệu sắt từsắt điện đầu tiên được chế tạo vào những năm đầu tiên của
thập kỷ 60 thế kỷ 20 là
(1x)Pb(Fe2/3W1/3)O3 – xPb(Mg1/2W1/2)O3. Ở đây, ion Mg+2 và W+6 là nghịch
từ và gây nên tính sắt điện và ion d5 Fe+3 tạo nên trật tự từ. Các thí dụ khác
có thể kể đến hợp chất Pb2(CoW)O6 là sắt điệnsắt từ. Hợp chất
Pb2(FeTa)O6 chúng là sắt điệnphản sắt từ có tính sắt từ yếu xung quanh
10K như là kết quả của các ion sắt từ pha loãng, các vật liệu này có điểm
Curie hay Néel khá thấp.
Tuy nhiên, do sự liên kết từđiện yếu trong hầu hết các vật liệu nên
khó có thể ứng dụng trong thực tế. Vì vậy sau đó các hoạt động nghiên
cứu đã bị giảm sút trong hai thập kỷ tiếp theo. Sự quay trở lại vấn đề
nghiên cứu đó đã được bắt đầu bằng nghiên cứu lý thuyết của N.Hill năm
2000 và bởi phát minh gần đây về cơ chế mới trong sắt điện TbMnO 3,
hexagonal YMnO3, RMn2O5, và Ni2V3O8. Các nghiên cứu cũng được khuyến
11
khích bởi các triển khai gần đây về kỹ thuật chế tạo màng mỏng và các
phương pháp thực nghiệm quan sát các đômen điện và từ.
Schimit đã đưa ra thuật ngữ “multiferroic” vào năm 1994 để định
nghĩa các vật liệu trong đó hai hay ba kiểu trật tự tính sắt (tính sắt điện,
tính sắt từ và tính sắt đàn hồi Ferroelectric, ferromagnetic and
ferroelasticity) xảy ra đồng thời trong cùng một vật liệu. Ngày nay, việc sử
dụng ngôn từ đó đã được mở rộng ra để chỉ cả những vật liệu thể hiện
tính trật tự từ xa cùng với phân cực tự phát. Ngôn từ “sắt điện
từ”“Ferroelectromagnets” đã được sử dụng trước đây là để mô tả các vật
liệu như thế.
Một nhóm vật liệu quan trọng khác nữa là “Vật liệu điện từ tuyến
tính”(Linear magnetoelectrics) thường được biết đến như là vật liệu điện
từ (magnetoelectrics), chúng có trật tự từ xa nhưng lại không có phân cực
tự phát. Tuy nhiên, phân cực điện có thể được tạo ra bởi từ trường ngoài.
Trong biểu thức Landau, biểu thức năng lượng tự do tổng mô tả hiệu
ứng ME (Magneto Electric) đối với các vật liệu phi tính sắt được viết như
sau [4]
F (E, H )
F0
1
2
0
j
1
2
Ei E j
0
ij
Hi H j
ij
Ei H j
1
2
ijk
Ei H j H k
1
2
ijk
H j Ei E k
...
(1.1)
Ở đây, ε0 và χ0 là điện thẩm và từ thẩm chân không, εij và χij là độ
điện thẩm và từ thẩm tương đối, αij là tensor điện từ tuyến tính, và βijk và
γijk là các hệ số điện từ bậc cao hơn. Nếu ta lấy đạo hàm năng lương tự do
này theo điện trường (E) thì khi đó ta nhận được độ phân cực (P). Nếu ta
lấy đạo hàm theo từ trường (H) thì khi đó ta nhận được độ từ hóa M :
Pi
F
Ei
1
2
0
ij
Ej
ij
Hj
1
2
ijk
H jHk
12
...
(1.2)
M j
F
Hj
1
2
0
ij
Hi
ij
Ei
1
2
ijk
Ei E jk
...
(1.3)
Tất cả các vật liệu điện từ tuyến tính chứa các số hạng tuyến tính α ijEiHj,
nhưng điều đó không có nghĩa nhất thiết chúng là đa tính sắt. Thí dụ, Cr 2O3
có tính điện từ nhưng không phải là sắt điện. Ngược lại cũng thế: không
phải tất cả các chất đa tính sắt nhất thiết là vật liệu điện từ. Thí dụ,
YMnO3 là đa tính sắt đó là phản sắt từ và sắt điện, nhưng hiệu ứng điện từ
không phải là do tính đối xứng trong hợp chất này. Tuy nhiên, đa tính sắt có
nghĩa là sắt từ và sắt điện (ferromagnetoelectric) nhất thiết phải trên cơ sở
tính điện từ đối xứng thí dụ, chất Ni3B7O13I là sắt điện và phản sắt từ
nghiêng (canted antiferromagnet) ở nhiệt độ thấp.
Đo hằng số điện môi là việc phải làm khi nghiên cứu vật liệu sắt điện.
Luôn luôn phải đo sự phụ thuộc nhiệt độ của hằng số điện môi ở nhiệt độ
chuyển (TC). Sự bất thường của tính điện môi cũng được quan sát ở nhiệt
độ chuyển pha từ (TN) của các vật liệu khác nhau, thí dụ như Cr2O3 điện từ
tuyến tính, chất đa tính sắt BaNiF4 và BaMnF4 và các vật liệu không phải
điện từ tuyến tính cũng không phải đa tính sắt như MnO, MnF2. Các vật
liệu đó có thể được xem là loại chất ”điện môi từ” (magnetodielectric).
Ngôn từ này lần đầu tiên được Landau và cộng sự đề nghị khi nghiên cứu
tính liên kết giữa hằng số điện môi và độ từ hóa của chất sắt từ SeCuO 3 và
chất phản sắt từ FeCuO3. Cả hai hợp chất này thể hiện điện môi bất
thường tại điểm chuyển pha từ và thể hiện “hiệu ứng điện môi từ”, đó là
sự thay đổi hằng số điện môi do từ trường ngoài. Hiện tượng tương tự
cũng được quan sát trong chất thuận điện lượng tử EuTiO 3, ở đó sự thay
đổi hằng số điện môi đến 7% xảy ra ở từ trường 1.5T. Không một hợp
chất nào trong số đó có phân cực tự phát và hiệu ứng ME tuyến tính mà
không liên quan đến tính đối xứng. Ba loại vật liệu: (i) Điện từ tuyến tính
13
Pi=aijH và Mi=aijEj, thí dụ: Cr2O3, Sm2O4, TeCoO3 GdVO4 Ho2BaNiO4; (ii)
Đa tính sắt M&P, thí dụ: Boracite, BiFeO3, TbMnO3, TbMnO3, MnVO4,
Ni3V2O8, CuO, và (iii) Điện môi từ không có hiệu ứng P và ME, thí dụ:
SeCuO3, TeCuO3, EuTiO3, MnO, MnF2, có mối liên quan chặt chẽ với nhau.
Theo định nghĩa một vật liệu là đa tính sắt điện từ phải đồng thời
phải có tính sắt từ và tính sắt điện. Do đó các tính chất vật lý, cấu trúc và
các tính chất điện bị bó hẹp trong những vật liệu xuất hiện cả hai tính
chất sắt điện và sắt từ. Các vật liệu đó phải đạt được các yêu cầu sau:
Tính đối xứng: Yêu cầu đầu tiên cho sự tồn tại tính sắt điện là sự
sai lệch cấu trúc làm cho chúng lệch khỏi tính đối xứng cao và làm loại bỏ
tâm đối xứng và hình thành phân cực điện. Có 31 nhóm điểm có thể có
phân cực điện tự phát, P, và 31 nhóm điểm này có thể có sự phân cực từ tự
phát, M. 13 nhóm điểm (1, 2, 2’, m, m’, 3, 3m’, 4, 4m’m’, m’m2’, m’m’2’, 6
và 6m’m’) được tìm thấy trong hai tập hợp đó, cho phép đồng thời tồn tại
hai tính chất sắt từsắt điện trong cùng một pha.
Tính chất điện: Theo định nghĩa vật liệu sắt điện phải là vật cách
điện (nếu không khi đặt vào một điện trường thì sẽ tạo ra một dòng điện
chạy qua nó chứ không phải là tạo nên phân cực điện). Vật liệu sắt từ
thường là kim loại. Thí dụ, các nguyên tố sắt từ Fe, Co, Ni và các hợp kim
của chúng có mật độ trạng thái cao ở mức Fermi tạo nên tính kim loại. Vì
vậy người ta có thể giả định rằng sự tồn tại đồng thời của tính chất từ và
sắt điện đơn giản chỉ có ở các vật liệu từ cách điện. Đa số các feritừ hay
sắt từ yếu là cách điện. Thêm vào đó, cũng có một số nhỏ chất sắt điện
phản sắt từ, thậm chí chất phản sắt từ thường là vật liệu cách điện.
Tính hóa học: Hầu hết các vật liệu sắt điện perovskite oxit đều có
các cation B có cấu hình điện tử ở phân lớp quỹ đạo d0. Đối với các chất
14
sắt từ, ferritừ, phản sắt từ có lớp quỹ đạo dn tạo nên các momen từ định
sứ. Tuy nhiên rõ ràng rằng, ngay cả khi phân lớp d trên các cation nhỏ bị
chiếm đầy một phần thì cũng không có khuynh hướng nó làm sai lệch
mạng để chuyển tâm đối xứng. Điều đó có thể là kết quả của một số yếu
tố sau đây không:
Kích thước của các cation nhỏ. Phải chăng các ion kim loại chuyển
tiếp có phân lớp d bị chiếm một phần có kích thước quá lớn làm lệch tâm
bát diện oxy? Bán kính ion của các cation d0 B của các perovskite sắt điện:
Ti+4
– 74.5 pm, Nb+5 – 78 pm và Zr+4 – 86 pm. Một số các cation dn điển hình
trong các peroskite oxit không sắt điện có kích thước nhỏ như Mn 3+(d4),Ti3+
(d1) và V+4(d1) có bán kính ion là 78.5 pm, 81pm và 72 pm tương ứng. Vì
vậy, các cation vị trí B điển hình có phân lớp d bị chiếm cũng không lớn
hơn bán kính của phân lớp d0. Vậy ta có thể kết luận rằng kích thước
cation B không phải là yếu tố quyết định sự tồn tại hay không tồn tại tính
sắt điện.
Sai lệch cấu trúc Vật liệu sắt điện phải chịu sự chuyển pha đến pha ở
nhiệt độ thấp và không có tâm đối xứng. Các chất sắt điện truyền thống có
sự dịch chuyển tâm của cation nhỏ (B) khỏi tâm của bát diện oxy. Tuy
nhiên đối với các cation có quỹ đạo d bị chiếm thì khuynh hướng chịu sai
lệch JahnTeller mạnh và nó sẽ là hiệu ứng cấu trúc chiếm ưu thế. Các sai
lệch cấu trúc Janh – Teller ít có khả năng làm dịch tâm hơn so với các cấu
trúc không bị méo khác.
Không dễ dàng tìm ra những vật liệu multiferroic mới, bởi vì các cơ
chế dẫn đến sự liên kết (coupling) tính sắt từ và sắt điện trong vật liệu đó
nói chung còn chưa được làm sáng tỏ. Tính sắt điện thường được tạo ra
15
bởi các hợp chất kim loại có lớp quỹ đạo d còn trống. Thí dụ, trong
BaTiO3, tính sắt điện được gây ra do sự dịch chuyển tương đối của cation
Ti+4 dọc theo trục [111]; sự lệch tâm là bền vững bởi liên kết hóa trị giữa
các quỹ đạo 2p của Oxy và lớp d còn trống của Ti 4+. Mặt khác, tính sắt từ
thường đòi hỏi kim loại chuyển tiếp có lớp quỹ đạo d được điền đầy một
phần. Do đó, cơ chế được lựa chọn là làm sao để có sự kết hợp hai tính
chất đó lại.
Tiếp cận sớm vấn đề đó là Smolenskii và cộng sự. Họ đề xuất pha tạp
các cation thuận từ vào các hợp chất sắt điện phi từ đã biết. Trong trường
hợp các perovskite, ở vị trí B chứa cả hai cation có phân lớp d trống đối với
sắt điện và cation có phân lớp d chiếm đầy một phần, thí dụ,
Pb(Mn0.5Nb0.5)O3 và Pb(Fe0.5Nb0.5)O3. Phân cực tự phát và độ từ hóa trong
các perovskite hỗn hợp đó tương tự như tính chất sắt điện từ
(ferromagnetoelectric) đã biết ở các boratcites. Tuy nhiên, kiểu vật liệu này
có khuynh hướng TC hay TN khá thấp như là kết quả của sự pha loãng của
các ion từ. Cơ chế khác được sử dụng để kết hợp tính sắt từ và sắt điện là
sự hoạt tính lập thể (stereochemical actitity) của các “cặp đôi đơn lẻ”
(‘’lonepairs’’) Bi3+ và Pb2+. Thí dụ, trong BiFeO3 và BiMnO3 tính sắt điện
được tạo ra bởi 6 cặp đôi của Bi+3, chúng gây nên sự dịch chuyển khỏi vị
trí tâm đối xứng của cation tương đối với các ion Oxy phối vị. Các vật
liệu thể hiện kiểu cơ chế đó như ta đã biết là các chất “sắt điện thuần”
như BaTiO3, ở đó động lực chính của trạng thái phân cực là cấu trúc không
bền với các đôi điện tử liên kết. Tuy nhiên, bởi vì tính chất sắt từ và sắt
điện trong các hợp chất đó được tạo nên từ các ion khác nhau, sự liên kết
(coupling) giữa chúng nói chung là yếu. Các nghiên cứu cấu trúc gần đây đã
chỉ ra rằng BiMnO3 có cấu trúc đối xứng C2/c hơn là cấu trúc không đối
16
xứng C2 tại nhiệt độ phòng, vì thế BiMnO3 có thể không phải là đa tính sắt
mà là vật liệu điện từ tuyến tính. Các giả thiết khác đưa ra trong các tài
liệu là các hợp chất có thể là không tâm đối xứng địa phương và đối xứng
cầu cũng như đối với YCrO3 áp dụng phân tích hàm phân bố cặp.
Gần đây, các vật liệu multiferroic khác nhau đã được tìm ra trong đó
trạng thái phân cực được tạo ra bởi các kiểu trật tự như đã được biết là
“sắt điện có pha tạp”. Đại lượng phân cực trong các kiểu vật liệu đó
thường nhỏ, nhưng chúng thường thể hiện sự liên kết điện từ lớn và
chúng rất nhạy với từ trường đặt vào. Như trước đây, ta đã biết tính sắt
điện pha tạp có thể chia làm ba loại: sắt điện hình học (geometric
ferroelectrics), sắt điện điện tử (electronic ferroelectrics) và sắt điện từ tính
(magnetic ferroelctric).
Trong sắt điện hình học, cơ chế sắt điện không chỉ bao gồm sự lệch
tâm của các cation kim loại, mà còn do sự xô lệch mạng phức tạp hơn. Thí
dụ, trong hexagonal RMnO3 tính sắt điện được tạo ra bởi sự nghiêng đồng
thời của các bipyramid MnO5 và sự uốn (buckling) của mặt RO. Một thí
dụ khác là BaFM4 (M=Mn, Fe, Co và Ni), trong đó tính sắt điện bắt nguồn
từ sự quay của octahedral MF6 trong mặt phẳng bc kéo theo sự dịch chuyển
của các cation Ba dọc theo hướng trục c.
Khái niệm tính sắt điện điện tử nói chung liên quan đến khái niệm trật
tự điện tích. Thí dụ, Efremov và cộng sự đã mô tả các perovskite pha tạp
cation hóa trị hai R1xAxMnO3 biểu hiện trạng thái trung gian giữa vị trí tâm
và trật tự điện tích tâm liên kết có thể là tính sắt điện. Đó là trường hợp
của Pr1xCaxMnO3 với x giữa 0,4 và 0,5, nhưng tính sắt điện trong hợp chất
đó khó mà chứng tỏ được là vì chúng có tính dẫn điện khá cao. Tính chất
17
sắt điện gây ra do trật tự điện tích đã được quan sát trong hợp chất
LuFeO4. Tuy nhiên trật tự điện tích của Fe2+ và Fe3+, nằm trên mạng tam
giác trong cấu trúc hai lớp, lại không có tác dụng tạo nên sự phân cực. Hoá
trị trung bình của Fe là 2.5+. Các lớp tam giác chứa hỗn hợp Fe3+ và Fe2+ với
tỷ số 1:2 và 2:1, và điện tích dịch chuyển giữa các lớp làm xuất hiện sự
phân cực. Cơ chế khác của loại này liên quan đến sự kết hợp của trật tự
điện tích và chuỗi Ising từ kiểu ↑↑↓↓. Tính sắt điện được tạo ra bởi sự thay
đổi kích thước hình dạng tương hỗ (exchange striction) kết hợp với sự
cạnh tranh giữa tương tác sắt từ gần nhất NN (nearestneighbor) và phản
sắt từ bên cạnh gần nhất NNN (nextnearestneighbor). Sự nghịch đảo đối
xứng bị phá vỡ là do khoảng cách giữa các nguyên tử ngắn hơn giữa các
cation có các spin song song và khoảng cách dài hơn giữa các cation có các
spin phản song, và như thế sự phân cực được tạo ra trong chuỗi mắt xích
đó, như thể hiện trong hình 1.1. Kiểu cơ chế này gần đây đã được quan sát
trong hợp chất Ca3CoMnO6.
Hình 1.1. Phân cực được tạo ra bởi sự đồng tồn tại của trật tự điện tích
và chuỗi mắt xích Ising spin kiểu ↑↑↓↓ . Các cation bị dịch chuyển khỏi vị
trí tâm của chúng bằng các biến dạng tương hỗ
Có lẽ, loại vật liệu quan trọng nhất thú vị nhất của sắt điện có pha
tạp là sắt điệntừ tính (magnetic ferroelectronics), trong đó tính sắt điện
được tạo ra bởi trật tự từ. Loại này là ứng cử viên tốt nhất cho ứng dụng
18
thực tế, bởi vì sự phân cực có thể xảy ra bởi từ trường đặt vào mẫu. Tính
sắt điện của loại này đã được báo cáo từ rất lâu rồi, trong hợp chất có spin
xoắn (Spin spiral) Cr2BeO4, nó có độ phân cực tự nhiên nhỏ hơn từ 4 đến 6
lần so với sắt điện thông thường. Kiểu hợp chất multiferroic này trở thành
lĩnh vực nghiên cứu rộng rãi sau khi phát hiện tính sắt điện trong TbMnO3
trong năm 2003 bởi Kimura và cộng sự, chúng được tạo nên bởi cấu trúc
spin xoắn trong phân mạng Mn. Trong TbMnO3 vectơ phân cực có thể
được quay đi 900 (a polarization flop) bởi từ trường ngoài đặt vào theo
hướng riêng, chúng cũng làm xuất hiện hiệu ứng điện môitừ tính lớn.
Trên cơ sở hiểu biết đó, một số hợp chất multiferroic có các kiểu cấu trúc
khác nhau đã được tìm ra trong vài năm vừa qua, chẳng hạn Ni 3V2O8,
CuFeO3, MnWO4 và CuO. Đặc trưng chung cho kiểu multiferroic này là sự
có mặt của cạnh tranh các tương tác từ (spin frustation). Thí dụ, trong
RMnO3(R=Tb, Dy) cạnh tranh giữa NN và NNN tạo ra cấu trúc từ xoắn .
19
Hình 1.2. (a) Cơ chế vi mô của phân cực spin cảm ứng cho mẫu dòng spin
của Katsura và cộng sự. Bức tranh sơ đồ của phân cực điện tích địa
phương được tạo ra bởi spin nghiêng trong chiều ngược kim đồng hồ (b)
và theo chiều kim đồng hồ (c) của cấu trúc spin xoắn.
Cơ chế tính sắt điện cảm ứng từ (magnetically induced
ferroelectricity) trong cấu trúc spin xoắn đã được nghiên cứu khi sử dụng
tính gần đúng vi mô và hiện tượng luận. Cơ chế vi mô xét đến dòng spin
(spin current) xuất hiện của hai spin ghép đôi phi cộng tuyến j S
S1 S 2 .
Sự phân cực đã được tạo ra và tỷ lệ với tích vectơ của dòng spin và vectơ
đơn vị (e12), nó liên kết với 2 ion từ: P
20
e12
j S (xem hình 1.2). Hiệu ứng
này cũng còn được mô tả theo ngôn ngữ của tương tác thuận nghịch
DzyaloshinskiiMoriya(DM), như Sergeienko và cộng sự đề xuất. Trong
model này, hai mômen ghép đôi phi cộng tuyến làm dịch chuyển ion oxy
nằm giữa chúng phụ thuộc vào tương tác điện tửmạng. Trong cấu trúc
xoắn sự dịch chuyển các ion oxy luôn luôn theo cùng một hướng vì tích
vectơ của S n và S n 1 có cùng dấu cho tất cả các cặp spin cạnh nhau (xem
hình 1.3(a)). Khi tương tác trao đổi giữa hai spin là thuận nghịch thì dấu
của hiệu ứng tương tác DM phản đối xứng cũng thuận nghịch [( S i S j ) =
( S j S i )], vì thế dấu của phân cực điện có thể bị đảo bởi sự quay chiều
của spin xoắn (xem hình 1.3(a) và (b)).
Hình 1.3. (a) Cấu trúc spin hình sin không tạo ra sự phân cực. (b) Cấu trúc
spin xoắn trong đó sự phân cực là orthogonal đối với cả hai trường hợp
trục quay spin e3 và vectơ sóng Q.
Trong sự tiếp cận theo phương pháp hiện tượng luận thì ta xét tính
đối xứng của các mômen lưỡng cực từ và điện, chúng khác nhau. Trong
sắt điện, các mômen lưỡng cực là thuận nghịch bởi sự đảo chiều một
phần (i), phá vỡ tính đối xứng, nhưng không bị tác dụng bởi thời gian đảo
21
chiều (t). Nhưng ở mômen lưỡng cực từ thì ngược lại. Sự liên kết giữa
phân cực tĩnh (P) và độ từ hóa (M) chỉ có thể phi tuyến như là kết quả của
vai trò tương hỗ của điện tích, spin, quỹ đạo và độ tự do của mạng. Sự
liên kết được mô tả bởi số hạng –P2M2 luôn luôn đối xứng. Điều đó đã
được mô tả cho thí dụ trong chất YMnO3, được biểu hiện bởi sự thay đổi
hằng số điện môi dưới điểm chuyển trật tự từ. Nếu có số hạng vi phân từ
độ thì khi đó số hạng liên kết tam giác PM∂M cũng có mặt. Số hạng này
tạo ra phân cực điện bởi vì nó tuyến tính trong P; trong trường hợp đơn
giản nhất của đối xứng lập phương, phân cực do từ trường có dạng
P= γχe[(M. )M M( . M)]
(1.4)
Ở đây, χe là hệ số điện môi khi không có từ trường. Cấu trúc spin
xoắn có thể được mô tả bởi
M = M1e1cosQ.x + M2 e2sinQ.x
(1.5)
Bởi vì e1 và e2 là các vectơ đơn vị và Q là vectơ sóng của sự xoắn. Sự
quay trục spin là e3 = e1 e2. Sử dụng biểu thức (1.4) ta có độ phân cực
trung bình của cả hai e3 và Q.
P
e
M 1 M 2 (e3 Q)
(1.6)
Độ phân cực từ cảm ứng phụ thuộc vào các giá trị M 1 và M2. Nếu một
trong hai M1 hoặc M2 khác 0, thì tình thế tương ứng với cộng tuyến, trạng
thái hình sin, ở đấy các spin không thể tạo ra phân cực. Tuy nhiên, nếu cả
hai M1 và M2 khác 0 thì trạng thái xoắn phi cộng tuyến được hình thành và
nó có thể tạo ra phân cực nếu spin quay vuông góc với vectơ sóng.
22
Một cơ chế khác làm xuất hiện tính sắt điệntừ liên quan đến cái gọi
là trật tự từ kiểu E, tìm thấy trong hợp chất HoMnO 3. Trong hợp chất này
dạng spin là upupdowndown dọc theo hướng [110] và [101] (hình 1.4.
(a)). Sự phá vỡ tính đối xứng xuất hiện phụ thuộc vào biến dạng trao đổi.
Trong trường hợp này, tương tác sắt từ kiểu NN có khuynh hướng làm dịch
chuyển các cation Mn lệch tương đối xa với nhau trong khi tương tác NNN
làm cho các cation gần lại với nhau. Sự chuyển động đó kèm theo sự dịch
chuyển của oxy theo hướng gần như ngược với sự dịch chuyển của các
ion Mn cạnh nhau (xem hình (1.4(b)). Sự phân cực được tạo ra do cơ chế
này lớn hơn (0.56μC/m2) so với các chất sắt điện pha tạp khác. Sự phân
cực trong orthorhombic HoMnO3 được tìm thấy dọc theo hướng a và c. Tuy
nhiên, độ phân cực đo được chỉ được báo cáo trong mẫu đa tinh thể
HoMnO3 và giá trị của nó cũng quá nhỏ (P<2nC/m2) so với lý thuyết.
Hình 1.4. (a) Dạng spin kiểu E của HoMnO3 trong mặt phẳng ac. (b)
Sự dịch chuyển của Mn (trái) và oxy (phải) trong HoMnO3 kiểu E.
Trên đây chúng tôi trình bày một số tính chất của vật liệu
Multiferroic là đơn chất. Tuy nhiên vật liệu được chế tạo trong luận văn
23
này là hợp chất composit nghĩa là hợp chất của hai dung dịch rắn sắt điện
và sắt từ. Cụ thể là vật liệu Multiferroic mà chúng tôi chế tạo để nghiên
cứu là composit (PZTLaFeO3). Trong đó PZT là vật liệu sắt điện điển hình
và LaFeO3 là vật liệu sắt từ. Phần tiếp theo chúng tôi trình bày một số nét
đặc trưng điển hình của hai loại vật liệu đó.
1.2. Vật liệu perovskite ABO3 thuần.[1, 2]
Cấu trúc perovskite được mô tả trong
hình (1.5). Trong đó cation A có bán kính
lớn nằm tại các đỉnh của hình lập
phương, còn cation B có bán kính nhỏ
hơn nằm tại tâm của hình lập phương.
Cation B được bao quanh bởi 8 cation A
và 6 anion Ôxy, còn quanh mỗi vị trí A có
12 anion Ôxy, sự sắp xếp tạo nên cấu
ị trí cation A
(Aư )vậy đặc trưng
trúc bátV
di
ện BO6. Nh
2+
3+
quan trọng của cấu trúc perovskite là tồn
Vị trí cation B
tại các bát di
ện BO6 n(B
ội ti)ếp trong một ô
4+
3+
mạng cơ sở với 6 anion Oxy tại các đỉnh
Vị trí cation O2
của bát diện và một cation B tại tâm bát
diện.
Hình 1.5. Cấu trúc perovskite
Thông sthu
ố rầấn.t quan trọng của cấu trúc perovskite cần xét đến đó là
thừa số bền vững do Goldchmit đưa ra:
24
(1.7)
Với RA, RB, RO lần lượt là bán kính của các ion A2+(A3+), B4+(B3+) và
O2. Cấu trúc perovskite được coi là ổn định khi 0.8 < t < 1. Điều đó kéo
theo các cation phải có kích thước giới hạn: R A > 0.9 và RB > 0.5. Khi t = 1,
ta có cấu trúc perovskite là hình lập phương như hình 1.5. Khi t ≠ 1, mạng
tinh thể bị méo, góc liên kết BOB không còn là 1800 nữa mà bị bẻ cong và
độ dài liên kết BO theo các phương khác nhau sẽ khác nhau. Cấu trúc tinh
thể bị thay đổi. Điều này dẫn tới thay đổi các tính chất điện và từ của vật
liệu
1.2.1. Vật liệu ABO3 biến tính, vật liệu perovskite sắt từ.
'
'
Vật liệu ABO3 biến tính có công thức ( A1− x Ax )( B1− y B y )O3 (0 x, y
1), trong đó ion A hoặc B được thay thế một phần bởi các ion khác. Với
A có thể là các nguyên tố họ đất hiếm Ln như La, Nd, Pr… ; A' là các kim
loại kiềm thổ như Sr, Ba, Ca… hoặc các nguyên tố như: Ti, Ag, Bi, Pb…;
B có thể là Mn, Co; B' có thể là Fe, Ni,…. Khi pha tạp, tùy theo ion và
nồng độ pha tạp mà cấu trúc tinh thể sẽ bị thay đổi không còn là cấu trúc
lý tưởng, sẽ tạo ra trạng thái hỗn hợp hóa trị và sai lệch cấu trúc làm cho
hợp chất nền trở thành vật liệu có nhiều hiệu ứng lý thú như: hiệu ứng
nhiệt điện, hiệu ứng từ trở khổng lồ, hiệu ứng từ nhiệt…
1.2.2. Vật liệu perovskite sắt điện.[5]
Sắt điện là tính chất của một số chất điện môi có độ phân cực điện
tự phát ngay cả không có điện trường ngoài, và do đó trở nên bị ảnh hưởng
mạnh dưới tác dụng của điện trường ngoài. Khái niệm về sắt điện trong
25