Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THÙY TRANG

CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA TÒA ÁN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THÙY TRANG

CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA TÒA ÁN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN


HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Học viên

Nguyễn Thị Thùy Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN .............................................. 7
1.1. Khái niệm chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án ............... 7
1.2. Đặc điểm chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án............... 11
1.3. Các nguyên tắc khi thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Tòa án .............................................................................................................. 13
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA
ÁN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..................................... 26
2.1. Các quy định của pháp luật về chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
của Tòa án ....................................................................................................... 26
2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
tại địa bàn Quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng .......................................................... 42
2.3. Hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân ...................................................... 48
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC

NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN TẠI
QUẬN SƠN TRÀ, TP. ĐÀ NẴNG............................................................... 55
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật ................................................................... 55
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật........................................... 57
3.3. Giải pháp thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận Sơn
Trà, TP. Đà Nẵng ............................................................................................ 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS

: Bộ luật hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

XXST

: Xét xử sơ thẩm


VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện Kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1.
2.2.
2.3.

Những kết quả đạt được từ năm 2013 đến 2017
Bảng thống kê kết quả xét xử vụ án sơ thẩm từ năm
2013 - 2017
Kết quả kháng cáo, kháng nghị từ năm 2013-2017

Trang
42
44
52



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, thực trạng về vi phạm pháp luật ở nước ta
diễn ra khá nghiêm trọng và diễn biến rất phức tạp, có chiều hướng gia tăng
ảnh hưởng đến quá trình hội nhập toàn cầu của đất nước. Với tình hình trên
các cơ quan tiến hành tố tụng đã cố gắng rất nhiều trong công tác thực thi
pháp luật nên đã góp phần vào việc giữ vững an ninh - chính trị, an toàn xã
hội. Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp còn chưa ngang tầm với yêu cầu
và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, vẫn còn bộc lộ nhiều điểm yếu
kém như bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân.
Quyền lực nhà nước là một hệ thống nhất, có sự phân công rõ ràng giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Trong đó Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp, Tòa án được hiến định
là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nơi biểu
hiện tập trung của quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ
tài sản nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân.
Hiến pháp 2013 đã ghi nhận rằng xét xử chính là chức năng duy nhất của
Tòa án, tuy nhiên việc thể chế hóa quyết định của Hiến pháp vẫn còn rất
nhiều bất cập, trong đó BLHS 2015 quy định Tòa án được thực hiện cả một
phần của chức năng buộc tội như có quyền khởi tố vụ án, trả hồ sơ yêu cầu
điều tra bổ sung nhiều lần kéo dài thời hạn xét xử, cũng như quá đi sâu vào
việc xét hỏi để chứng minh tội phạm của bị cáo nên chưa thực hiện tốt việc
tranh tụng tại phiên tòa. Do Tòa án đi sâu vào quá trình chứng minh tội phạm
nên vai trò buộc tội của VKS chưa thể hiện rõ nét, vai trò bào chữa của luật sư

1



chưa thể hiện cao. Vì vậy chất lượng xét xử của Tòa án còn thấp, thậm chí có
trường hợp còn bị kết án oan người vô tội.
Để thực hiện quy định của Hiến pháp với việc cải cách tư pháp, lấy Tòa
án làm trung tâm của tư pháp thì việc nghiên cứu làm rõ chức năng xét xử của
Tòa án nói chung và chức năng xét xử sơ thẩm nói riêng là rất chần thiết
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt
động tố tụng hình sự tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội; đồng thời
góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận về chức năng xét xử của Tòa án và đưa
ra những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xét xử của Tòa án
nên tác giả chọn đề tài: “Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, Đà Nẵng”
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những nghiên cứu liên quan đến chức năng xét xử của Tòa án trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã được nhiều tác giả trình baỳ trong các
công trình nghiên cứu khoa học ở những cấp độ khác nhau như: luận án tiến sĩ
luật học “ chức năng xét xử trong tố tụng hình sự “ của tác giả Lê Tiến Châu;
Bài viết “ Chức Năng của Tòa án trong Tố tụng hình sự trước yêu cầu cải
cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí – Khoa luật, Đại học quốc gia Hà
Nội; bài viết “ Tòa án là trung tâm.,xét xử là trọng tâm trong tố tụng hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Lê Văn Cảm, Nguyễn Huy
Phượng – Tạp chí Tòa án nhân dân số 9 (5/2011). “Hoàn thiện pháp luật về
chức năng tố tụng hình sự của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp” Thạc sĩ Nguyễn Thị Tuyết, tạp chí Tòa án nhân dân
số 03/2011. “Bàn về giới hạn xét xử của Tòa án theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Duy Nam - Toà án quân sự Quân khu 4. ;
bài "Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp


2


chí Tòa án nhân dân số 5/2003; bài "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng
hình sự" đăng trong Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003 của tác giả Trần Đại
Thắng; bài viết của nhiều tác giả trong Đặc san nghề luật số 5/2003 về chuyên
đề mở rộng tranh tụng; cuốn chuyên khảo "Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" do TSKH Lê Cảm và TS.
Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên, có nhiều bài viết của các tác giả (Nxb Đại
học quốc gia, 2004)... Nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến một số vấn đề
nhất định liên quan đến vấn đề chức năng xét xử của Tòa án và còn khá nhiều
ý kiến trái ngược nhau xung quanh ý tưởng đổi mới hoạt động xét xử của
ngành Tòa án Việt Nam, vẫn chưa làm rõ cơ sở lý luận về chức năng xét xử
của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời nghiên
cứu cơ sở khoa học của các quy định về chức năng của Tòa án sơ thẩm trong
xét xử các vụ án hình sự, đưa ra các ý kiến đóng góp xây dựng pháp luật cũng
như yêu cầu nhận thức của người tham gia tiến hành tố tụng. Đó chính là lý
do để tác giả tiếp tục nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhầm hướng tới đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như
nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xét xét xử sơ thẩm của Tòa án trên cơ
sở làm rõ lý luận và thực tiễn thực hiện chức năng của Tòa án quận Sơn Trà,
Tp Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành được mục đích nghiên cứu của luận văn thì nhiệm vụ đặt
ra đối với luận văn đó là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến chức năng xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
- Nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 và 2015 liên quan

đến chức năng và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

3


- Đánh giá thực trạng một cách toàn diện, khách quan bằng nhiệm vụ
nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân cấp huyện mà cụ thể là tại Tòa án nhân dân quận Sơn Trà,
Tp Đà Nẵng.
- Trên cơ sở nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động
xét xử từ đó đề ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và năng
cao hiệu quả thực hiện chức năng xét xử của Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các quan điểm, các vấn đề lý luận về hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự nói chung.
- Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của bộ luật tố tụng hình sự
liên quan đến chức năng xét xử sơ thẩm của Tòa án về xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự.
- Nghiên cứu chất lượng các bản án hình sựu sơ thẩm của Tòa án nhân
dân quận Sơn Trà, xem xét nội dung, nguyên nhân các bản án hình sự sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị và kết quả xét xử ở cấp phúc thẩm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để Tòa án nhân dân cấp quận huyện đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ thẩm
là một chuỗi quá trình tiến hành tố tụng và phải trải qua nhiều quy trình pháp
lý khác nhau. Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND quận huyện
tại TP Đà Nẵng nói chung và TAND quận Sơn Trà nói riêng hiện nay là một
đề tài tương đối rộng, chứa đựng nhiều vấn đề liên quan đến lý luận và thực
tiễn, đòi hỏi cần phải nghiên cứu một cách khách quan khoa học. Do đó,
phạm vi nghiên cứu một cách khách quan khoa học, do đó phạm vi nghiên

cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của Bộ luật tố tụng
năm 2015 liên quan đến chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

4


- Về không gian nghiên cứu tình hình xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn
quận Sơn trà, thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS của Tòa án
nhân dân quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng từ năm 2012 đến 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Phương pháp lý luận của luận văn là những thành tựu của các nhà khoa
học: triết học, luật tố tụng hình sự, luật hình sự…phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lê nin, tư thưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chính sách của Đảng về nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài luận văn, còn sử dụng trong một số tổng thể các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: hệ thống, lịch sử, loogis, tổng hợp, so
sánh, dự báo, kết hợp với phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia để chọn
lọc trí thức khoa học, kinh nghiện thực tiễn trong áp dụng thủ tục xét xử của
Tòa án.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung một số lý luận cho khoa học luật tố tụng
hình sự về chức năng xét xử của Tòa án.
6.2. Ý ghĩa thực tiễn
Luận văn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu học tập tìm hiểu về hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm.

7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những v ấn đề lý luận về chức năng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Tòa án.
Chương 2. Những vấn đề thực tiễn thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của tòa án từ thực tiễn quận sơn trà, thành phố Đà Nẵng.

5


Chương 3. Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của tòa án tại
Quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
1.1. Khái niệm chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
Trong Tố Tụng Hình Sự có nhiều chức năng, trong đó thì chức năng cơ
bản của Tố Tụng Hình Sự có tính chất tiêu biểu, đặc trưng cho hoạt động
TTHS những phương diện hoạt động chủ đạo, liên quan trực tiếp đến sự xuất
hiện, vận động và kết thúc hoạt động TTHS và mối liên kết giữa chúng với
nhau được điều chỉnh bởi những nguyên tắc hoặc quy định của luật. Chức
năng không cơ bản của TTHS là những phương diện hoạt động không tiêu
biểu cho hoạt động TTHS và không liên quan trực tiếp đến sự tồn tại hoặc
chấm dứt hoạt động TTHS nhưng cũng góp phần thực hiện nhiệm vụ chung
của TTHS. Ngoài ra các chức năng này tồn tại nhằm hỗ trợ cho các chức chức
năng cơ bản của TTHS. Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức

năng xét xử là ba chức năng cơ bản Trong TTHS.
Chức năng của TTHS là những phương diện (hay những dạng) hoạt
động TTHS do các chủ thể (hoặc nhóm chủ thể) khác nhau thực hiện theo quy
định của BLTTHS với nội dung, định hướng độc lập với nhau nhưng lại gắn
kết với nhau một cách hữu cơ nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của TTHS.[22;
tr.4]
+ Chức năng buộc tội: là một trong những chức năng cơ bản của Tố
Tụng Hình Sự nó luôn nhằm hướng vào một cá nhân cụ thể và thực chất đó
chính là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Trong chức năng buộc tội thì hình thức buộc tội giữ vai trò là khâu khởi động
của hoạt động tố tụng, giữ vai trò chủ đạo và là tiền đề cho việc thực hiện các
chức năng còn lại của hoạt động TTHS, có buộc tội thì mới có gỡ tội và sự

7


xuất hiện của hai mặt đối lập này làm phát sinh nhu cầu phải có một cơ quan
trọng tài giữ vai trò trung lập để xét xử. Theo quan điểm của nhiều nhà khoa
học, về cơ bản đều có sự thống nhất là chức năng buộc tội luôn bắt đầu từ giai
đoạn điều tra, tuy nhiên về chủ thể thực hiện chức năng buộc tội thì vẫn còn
rất nhiều quan điểm. Có quan điểm cho rằng: “Buộc tội không phải là chức
năng riêng của VKS, mà thông qua hoạt động điều tra theo quy định của pháp
luật, CQĐT cũng thực hiện chức năng buộc tội” [ 20, tr.68] . Nhưng có quan
điểm khác thì lại cho rằng “Chức năng buộc tội là hoạt động của Viện kiểm
sát nhằm xác định tội phạm và người phạm tội, buộc kẻ phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật” [15, tr.30] . Theo quan điểm
này thì mặc dù CQĐT có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra, có
quyền quyết định việc bắt, tạm giữ, tạm giam…và người bị áp dụng biện pháp
này trở thành người bị buộc tội nhưng các quyết định đó của CQĐT đều phải
được sự phê chuẩn của VKS. Do vậy, chỉ có VKS mới có chức năng buộc tội,

các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác không có chức năng buộc
tội. Cá nhân tôi không đồng ý với với quan điểm này, bởi lẽ việc VKS phê
chuẩn các Quyết định của CQĐT là nhằm thực hiện chức năng giám sát hoạt
động tố tụng của mình, còn đối với CQĐT việc phát hiện, thu thập tài liệu
chứng cứ chứng minh làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội,
theo đó có thể ra các Quyết định bắt, tạm giữ, khởi tố bị can, tạm giam…tùy
theo chức năng, nhiệm vụ được giao, chính là các hoạt động buộc tội. Tuy
nhiên, do tính chất hoạt động đặc thù của từng cơ quan và sự đòi hỏi chứng
minh buộc tội ở từng giai đoạn tố tụng của mỗi cơ quan là khác nhau nên hình
thức buộc tội của hai cơ quan này là khác nhau, song về bản chất thì TTHS,
CQĐT và VKS đều có chức năng buộc tội như nhau. Ở giai đoạn điều tra thì
chức năng buộc tội là thuộc về CQĐT và VKS; còn ở giai đoạn truy tố và xét
xử chức năng buộc tội và nghĩa vụ chứng minh thuộc về VKS bằng vệc ban

8


hành Cáo trạng để nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với bị cáo
tại phiên tòa và thực hiện các hoạt động chứng minh để bảo vệ Cáo trạng đã
đưa ra. Ta có thể nói quá trình thực hiện chức năng buộc tội trong Tố Tụng
Hình Sự của các chủ thể buộc tội luôn gắn liền với nghĩa vụ chứng minh làm
rõ vụ án của chính các chủ thể buộc tội.
+ Chức năng bào chữa: Là hoạt động TTHS được pháp luật quy định và
bảo đảm cho bên bị buộc tội khả năng đưa ra chứng cứ, lý lẽ chống lại sự
buộc tội và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình.
Hoạt động bào chữa trong vụ án hình sự là một hành động tự vệ hợp pháp
của người bị buộc tội, bên bị buộc tội sử dụng các quyền năng mà pháp luật
cho phép mình để đưa ra những chứng cứ và lập luận để chống lại sự buộc tội
và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Chức năng bào chữa bắt đầu từ Quyền được bào chữa của người bị

buộc tội mà phát sinh trên quyền bào chữa là sự buộc tội. Chủ thể của
quyền bào chữa bao gồm: bị can, bị cáo, người bị bắt, người bị tạm giữ.
Chủ thể thực hiện quyền bào chữa đó là: người bào chữa, người bị buộc tội.
Phạm vi bào chữa được bắt đầu từ khi bị buộc tội và kết thúc khi bản án
cho đến khi quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Mục đích chính
của chức năng bào chữa đó là giảm nhẹ trách nhiệm cho bên bị buộc tội và
phản kháng lại bên buộc tội.
+ Chức năng xét xử: Là một dạng hoạt động Tố tụng hình sự được
phát sinh khi có cáo buộc từ cáo trạng của Viện kiểm sát, nó được thực
hiện rõ bởi chức năng của Tòa án trên cơ sở tranh tụng một cách bình đẳng,
dân chủ nhằm xem xét và giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra bản án,
quyết định bị cáo có tội hay vô tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp theo
quy định của pháp luật. Xét xử là hoạt động duy nhất chỉ do Tòa án thực
hiện còn các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức và cá nhân không có chức

9


năng này chính vì vậy bản án của Tòa án được đảm bảo bởi sức mạnh của
nhà nước. Xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực của nhà nước do Tòa
án thực hiện, nhằm để giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh tế, lao động…
Qua hoạt động xét xử tại phiên tòa ta có thể thấy chỉ có Tòa án mới có
quyền quyết định một người có tội hay không có tội, đó là tội gì, hình phạt và
các biện pháp xử lý.Trong mối quan hệ với chức năng buộc tội và chức năng
bào chữa thì chức năng xét xử được coi là chức năng trung tâm của TTHS có
vai trò quyết định.
Có thể nói xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu một vụ án theo thẩm quyền
của từng cấp toà án. Sau khi có bản án sơ thẩm, bị cáo có thể kháng cáo hoặc
viện kiểm sát có thể kháng nghị bản án của Toà án. Khi đó vụ án sẽ được xét

xử phúc thẩm.
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, thì xét xử sơ thẩm được xác
định là một giai đoạn kết thúc một vụ án hình sự, mọi chứng cứ của vụ án đều
do Cơ quan điều tra thu thập được trong quá trình điều tra đều được xem xét
công khai tại phiên toà, người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai
của nhau, được tranh luận những điều mà tại Cơ quan điều tra không có điều
kiện thực hiện. Như vậy có thể nói xét xử sơ thẩm được xem là trung tâm của
quyền tư pháp.
Như vậy xét xử sơ thẩm là giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý
các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính
xác mà phải có sức thuyết phục, nhưng đồng thời lại phải tuân theo những
quy định của pháp luật thông qua phiên toà có thể đánh giá được trình độ
nghiệp vụ của Thẩm phán, của Hội thẩm, của Kiểm sát viên, của Luật sư và
những người tham gia tố tụng tố tụng thác. Vì vậy, việc tổ chức phiên toà sơ

10


thẩm tốt có tác dụng to lớn không chỉ đối với một vụ án mà còn có tác dụng
đối với việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho mọi công dân.[3]
Tại phiên Tòa Hội đồng xét xử điều khiển phiên Tòa, thực hiện việc
tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, còn Toà án thực hiện chức năng
xét xử, làm trọng tài phân xử đưa ra các phán quyết giải quyết vụ án. Như
vậy, chức năng xét xử chỉ thuộc về một chủ thể duy nhất đó là Toà án và chỉ
có thể được thực hiện ở tại phiên toà. Chức năng xét xử sơ thẩm bắt đầu từ
thời điểm Tòa án thụ lý vụ án, sau đó Tòa án thực hiện các công việc chuẩn bị
xét xử, khi có đủ điều kiện thì Tòa án sẽ đưa vụ án ra xét xử. Toà án có trách
nhiệm thẩm tra tất cả các chứng cứ của vụ án và bảo đảm sự bình đẳng và các
điều kiện cần thiết khác để các bên tiến hành tranh tụng một cách khách quan,

toàn diện và công bằng về các vấn đề của vụ án làm cơ sở để Toà án ra bản án
không kết tội hoặc kết tội và tuyên hình phạt đối với bị cáo. Từ những phân
tích trên thì có thể rút ra chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là xét xử với tính chất xét xử lần đầu, toàn diện, đầy đủ toàn bộ
các vấn đề của vụ án, bao gồm và thể hiện qua các hành vi tố tụng từ thời
điểm tòa án nhận hồ sơ, thụ lý vụ án cho đến khi HĐXX tuyên án và bế mạc
phiên tòa mà mục đích cuối cùng là giải quyết triệt để một vụ án.
1.2. Đặc điểm chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
1.2.1. Chỉ do Tòa án có thẩm quyền thực hiện
TAND có nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (khoản 3, Điều 102). Hiến pháp năm 2013
quy định TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp. Đây là điểm rất mới so với Hiến pháp năm 1992.
Nội dung mới này có ý nghĩa rất quan trọng, nó nhằm mục đích phân
định quyền lực của nhà nước theo hướng:

11


“TAND” là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
“Chính phủ” là cơ quan thực hiện quyền hành pháp.
“Quốc hội” là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp.
Đây là định hướng nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước ta theo kiểu nhà
nước pháp quyền XHCN.
Nội dung mới nêu trên về TAND còn mang ý nghĩa là cơ sở pháp lý để
giao cho tòa án có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên quan đến
việc hạn chế quyền nhân thân của công dân, như việc ra quyết định đưa người
vào các trung tâm giáo dưỡng, cai nghiện…
Về hệ thống TAND, khác với Hiến pháp năm 1992 quy định hệ thống

tòa án được tổ chức theo địa giới hành chính địa phương từ cấp huyện đến cấp
tỉnh, Hiến pháp sửa đổi đã thể chế quan điểm của Nghị quyết 49 của Bộ
Chính trị về cải cách tư pháp xác định tổ chức hệ thống tòa án theo cấp xét xử
không phụ thuộc vào địa giới hành chính: Khoản 2 Điều 102 quy định
“TAND gồm TAND tối cao và các tòa án khác do luật định”.
Như vậy, theo quy định này của Hiến pháp thì hệ thống tòa án sẽ được
Luật Tổ chức TAND sửa đổi theo hướng quy định về tổ chức tòa án theo 4
cấp. Cụ thể là: TAND sơ thẩm khu vực là cấp xét xử sơ thẩm hầu hết các loại
vụ án thuộc thẩm quyền; TAND cấp tỉnh là cấp xét xử phúc thẩm là chủ yếu,
xét xử sơ thẩm một số loại vụ án thuộc các trường hợp mà tòa án sơ thẩm khu
vực không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm; TAND cấp cao là cấp xét xử phúc
thẩm và có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và
TAND tối cao là cấp xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cao nhất và chủ yếu là
tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật.
Việc tổ chức tòa án theo 4 cấp nêu trên thì chỉ có TAND cấp tỉnh là gắn
với địa giới hành chính cấp tỉnh, còn TAND sơ thẩm khu vực, TAND cấp cao
không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Theo đó, đây cũng là những yếu tố
để đảm bảo cho tính khả thi của nguyên tắc tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân

12


theo pháp luật.
1.2.2. Tòa án thực hiện hoạt động xét xử để ra bản án, quyết định giải
quyết vụ án
+ Tòa án chuẩn bị xét xử bằng việc nghiên cứu hồ sơ nếu thấy thiếu
chứng cứ hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì Trả hồ sơ điều tra
bỏ sung… Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là một hoạt động quan trọng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
+ khi có đủ điều kiện phẩm đươc phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết

định đưa vụ án ra xét xử, tại phiên tòa HĐXX Điều khiển phiên Tòa với sự
tham gia của đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng. Thực
hiện tranh tụng tại phiên tòa Tòa án không hỏi chính mà chỉ nghe bên buộc tôi
(VKS) và bên gỡ tội (Luật sư bào chữa) xét hỏi và đưa ra những lý lẻ lập luận
để chứng minh bị cáo có tội hay không có tội và chỉ khi Tòa án cho phép bên
nào nói thì bên đó mới được phát biểu ý kiến của mình.
+ Trên cơ sở các kết quả tranh tụng tại phiên tòa HĐXX nghị án và ra
bản án, quyết định giải quyết vụ án. Nếu bị cáo không có tội thì ra bản án
tuyên bố bị cáo vô tội, nếu bị cáo có tội thì ra bản án tuyên hình phạt áp
dụng đối với bị cáo.
1.2.3. Xem xét, giải quyết toàn bộ các vấn đề trong vụ án hình sự
+ HĐXX Xem xét bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội gì, theo
khung hình phạt nào
+ Áp dụng hình phạt tương ứng với bản chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội
+ Xử lý vật chứng của vụ án.
+ Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
1.3. Các nguyên tắc khi thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Tòa án
Một số nguyên tắc cơ quan sau có liên quan chặt chẽ với chức năng xét

13


xử sơ thẩm của Tòa án:
- Xác định sự thật:
Cơ sở thực tiễn: do thực tiễn trong quá trình điều tra phát hiện tội phạm
còn tồn tại nhiều bất cập nên chúng ta cần phải đưa ra một nguyên tắc để hạn
chế tối đa sự bất cập đó, và nguyên tắc đó chính là phải xác định sự thật của
vụ án trong quá trình điều tra vì đã có không ít trường hợp chúng ta đã phạm

sai lầm trong công tác điều tra phá án, xác định sai người phạm tội, và dẫn
đến những người vô tội bị hàm oan.
Trong quá trình tố tụng, những người có quyền công tố, những người
tham gia xét xử có khi chưa thực sự khách quan và toàn diện, có thể vì một số
nguyên nhân khác nhau như có quan hệ thân thuộc, tình cá nhân.. mà trong
quá trình xét xử dẫn đến việc không khi điều tra, truy tố, xét xử làm thay đổi
tình tiết vụ án và phán quyết không đúng người đúng tội, vì vậy việc xác định
sự thật của vụ án sẽ có vai trò vô cùng quan trọng.
Về phía người tham gia tố tụng, thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều
trường hợp vì nguyên nhân khách quan và chủ quan mà đã không khai bảo
đúng sự thật, với mục đích che giấu tội phạm dẫn đến việc xử án gặp nhiều
khó khăn. Vì vậy để tránh những tình trạng trên, nguyên tắc xác định sự thật
của vụ án đã ra đời, nhằm đảo bảo cho việc xử đung người đúng tội, những
người có tội sẽ phải bị xử phạt và không xử oan người vô tôi.
Cơ sở pháp lý: Nguyên tắc xác định sự thật được quy định tại Điều 15
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS). Ngoài ra, việc đảm bảo thực
hiện nguyên tắc này còn được quy định tại một số Điều luật trong Bộ luật này
và các văn bản luật liên quan.
Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong phạm quyền
hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện

14


pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện
và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình
tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc
tội”.
Quá trình giả quyết vụ án thông qua những giai đoạn khác nhau, nhưng

các giai đoạn đó đều có mục đích chung là tìm ra sự thật của vụ án. Đây cũng
chính là nhiệm vụ bao trùm của hoạt động tố tụng hình sự. Do đó, đây là
nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự. Để đấu tranh chống tội phạm đạt
được hiệu quả tốt thì mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện và xử lý trước
pháp luật, luật tố tụng hình sự đã ghi nhận nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án.
- Suy đoán vô tội
Nguyên tắc này không còn là riêng biệt trong pháp luật của từng quốc
gia mà nó đã được toàn cầu hóa Cụ thể được ghi nhận:
“1. Bất kỳ một người nào bị cáo buộc trong việc thực hiện tội phạm đều
có quyền được coi là chưa có tội khi lỗi của họ chưa được chứng minh bằng
một phiên tòa công khai theo một thủ tục do pháp luật quy định và tại phiên
tòa đó họ được hưởng tất cả những bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa của
mình;
2. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt bởi một hành vi mà
BLHS không coi là tội phạm tại thời điểm thực hiện hành vi đó”,[4,tr.15]
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc suy đoán vô tội
như sau:
Điều 13. Suy đoán vô tội
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

15


Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”
Nguyên tắc này đã được công nhận trong tuyên ngôn nhân quyền năm

1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên
hợp quốc, đó là: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán là không
phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp
luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy
đủ khả năng bào chữa của người đó”.
Nguyên tắc này được nước ta cam kết thực hiện sự kiện Việt Nam ra
nhập công ước quốc tế vào năm 24/9/1982. Đây là một trong những nguyên
tắc cốt lõi và cơ bản nhất của Pháp luật tố tụng hình sự nước ta, nó thể hiện
nhà nước luôn coi trọng và bảo vệ quyền con người quyền công dân.
Nguyên tắc suy đoán vô tội liên quan đến chức năng xét xử của Tòa án
trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
có hiệu lực pháp luật
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) quy
định. Việc chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác về tội phạm
và qua các thủ tục khởi tố vụ án, tiến hành điều tra, kết thúc điều tra đề nghị
truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều tra công khai tại
phiên tòa.
Tòa án sẽ ra bản án kết tội nếu có căn cứ để kết tội. Một người chỉ có thể
bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tức là
bản án của tòa án đã tuyên đối với người này là có tội và bản án đó đã có hiệu
lực pháp luật. Điều này khẳng định chỉ có Tòa án là chủ thể duy nhất có thẩm

16


quyền ra bản án, tuyên bố một người có tội hay không có tội. Ngoài Tòa án thì
không có bất kỳ cơ quan nhà nước nào được ra bản án kết tội bị cáo.
Thứ hai Trong khi xét xử Tòa án không thể buộc bị cáo phải chứng minh

mình không phạm tội, việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội phụ thuộc
vào điều tra viên và bản cáo trạng của VKS trong khi thẩm tra cũng như qua
tranh tụng tại phiên Tòa thấy có đầy đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có tội và
đủ chứng cứ để kết tội Tòa án mới có thể ra bản bán kết tội bị cáo.
Nếu trong trường hợp không có đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có tội
hay không thì Tòa án phải ra bản án tuyên bị cáo vô tội.
- Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm:
Tranh tụng là hoạt động tại phiên tòa để các bên đưa ra các quan điểm
của mình và tranh luận lại để phản bác lại quan điểm của phía bên kia. Đồng
thời tranh tụng tại phiên tào cũng là cơ sở để Tòa án đánh giá các tình tiết,
nội dung vụ án và đưa ra kết quả phán quyết cuối cùng để đảm bảo được tính
khách quan, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Hoạt động tranh tụng
tại phiên tòa được xác định là rất quan trọng nên Điều 103 khoản 5 Hiến
pháp sửa đổi năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm”. Đây là một trong những đổi mới đáng chú ý vì lần đầu tiên Hiến
pháp đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử.
Vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng luôn được quan tâm
đến rất nhiều, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có nhiều chủ trương về vấn đề
này. Việt nâng cao chất lượng kiểm sát của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo
đảm việc tranh tụng dân chủ với luật sư và những người tham gia tố tụng
khác... Tất cả các phán quyết của Tòa án chủ yếu là căn cứ vào kết quả tranh
tụng của phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ chứng cứ ý kiến của Kiểm sát
viên, của người bào chữa, luật sư, bị cáo và những người có quyền, lợi ích
hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục

17


và trong thời gian quy định”. Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định:

“Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh
tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 yêu cầu: “… Tòa án nhân dân tối
cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”
Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cũng có nhiều quy định chứa đựng
nội dung của nguyên tắc tranh tụng như quy định nguyên tắc đảm bảo quyền
bào chữa của bị can, bị cáo, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác định
sự thật vụ án, nguyên tắc pháp chế XHCN; các quy định về quyền và nghĩa vụ
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, các quy định về tranh
luận tại phiên tòa. Đặc biệt, Điều 222 BLTTHS năm 2013 quy định: “Khi
nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm
sat viên, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa”.
Tuy nhiên các quy định như trên còn mang tính chung chung, chưa cụ
thể, nhất là chưa có văn bản pháp lý nào chính thức ghi nhận nguyên tắc
bảo đảm và cơ chế bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa nên trên thực tiễn vẫn
chưa phát huy hiệu quả cao. Do vậy, Hiến pháp quy định cụ thể, rõ ràng
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một bước tiến lớn với tinh
thần cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.
Ngoài ra thì quy định nguyên tắc này trong Hiến pháp đã tạo sự chuyển
biến rất mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong công tác xét xử
của Tòa án. Các quy định pháp TTHS hiện hành đang phát huy hiệu lực trên
công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội... Hiệu quả của

18


công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng cao, việc tranh luận tại phiên tòa

bảo đảm tính dân chủ, khách quan. Tuy nhiên so với tình hình đặt ra thì hoạt
động tranh tụng chưa đáp ứng yêu cầu. Nguyên nhân của tình hình trên có
nhiều, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của pháp luật về tranh
tụng tại phiên tòa và bảo đảm việc tranh tụng chưa rõ ràng nên hiệu lực của
nó chưa cao.
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định chính thức về nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng như vậy sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ tư
pháp, của công dân trong quá trình thực hiện các quyền năng khi tham gia
tranh tụng. Đồng thời thực tiễn xét xử sẽ thay đổi, với bước tiến mới trọng
tâm là hoạt động tranh tụng được bảo đảm, phát huy tối đa tính công bằng,
dân chủ.
- Nguyên tắc “ khi xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia, hội thẩm
ngang quyền với thẩm phán”:
Từ năm 1946 đến nay trong các bản Hiến pháp của nước ta và trong các
Luật tổ chức Tòa án năm 1960, 1981, 1992 đều quy định về sự tham gia của
hội thẩm trong quá trình xét xử của Tòa án và khi xét xử hội thẩm ngang
quyền với thẩm phán. Đối với những hội thẩm nhân dân theo luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm1992 vẫn theo chế độ tuyển cử như trước. Các hội thẩm nhân
dân, Tòa án nhân dân tối cao, các hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự được
cử, còn các hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do hội đồng nhân
dân cùng cấp bầu ra, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
Luật quy định hội thẩm chỉ được tham gia hội đồng xét xử sơ thẩm chứ
không được tham gia hội đồng xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm.
Khi tham gia xét xử, hội thẩm bình đẳng với thẩm phán trong việc giải
quyết các vấn đề phát sinh khi xét xử. Có quyền ngang với thẩm phán. Khi
xét xử các thành viên trong hội đồng xét xử đều có quyền đưa ra thảo luận tất

19



×