HCVINCHNHTRQUCGIAHCHMINH
THTHM
THựC HIệN PHáP LUậT
Về QUYềN KINH Tế, Xã HộI Và VĂN HóA ĐốI
VớI
NGƯờI DÂN TộC THIểU Số ở CáC TỉNH
MIềN NúI PHíA BắC VIệT NAM
Chuyờnnganh
:Lýlunvlchsnhncvphỏplut
Masụ
:62380101
TểMTTLUNNTINS
HÀ NỘI 2015
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS. Tường Duy Kiên
2. TS. Trương Hồ Hải
Phản biện 1: ......................................................
Phản biện 2:.......................................................
Phản biện 3:.......................................................
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...' ngày ... tháng ... năm ....
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở mọi quốc gia và khu vực, do những nguyên nhân lịch sử, xã
hội...luôn tồn tại những tộc người có vị thế, năng lực và trình độ phát
triển chậm hơn sự phát triển chung của xã hội, đó là tộc người thiểu số.
Mặc dù vậy, tất cả đều là thành viên của cộng đồng nhân loại, đều bình
đẳng về các quyền và tự do cơ bản của con người . Vì vậy tôn trọng, bảo
vệ và thực hiện các quyền con người, trong đó có người dân tộc thiểu số
là trách nhiệm hàng đầu của quốc gia.
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi công tác bảo đảm và thúc
đẩy quyền con người đối với người dân tộc thiểu số là trách nhiệm hàng
đầu của các cấp ủy đảng và chính quyền từ Trung ương xuống địa
phương. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều quyết sách đặc thù về
phát triển kinh tế xã hội, hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh
hoạt, chăm sóc y tế, văn hóa, giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhờ đó mà vùng dân tộc thiểu số đã có sự phát triển mạnh mẽ hơn, từng
bước ổn định, đời sống của bà con dân tộc dần được cải thiện hơn so
với trước những năm đổi mới, nhất là các quyền về kinh tế, xã hội và
văn hóa.
Tuy nhiên, thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
vẫn còn nhiều bất cập tại vùng dân tộc thiểu số nói chung và ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nói riêng và đây vẫn là vùng khó khăn nhất cả nước.
Nhà nước ban hành pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là đúng
đắn, song việc triển khai thực hiện rất h ạn ch ế, không ít văn bản quy
phạm pháp luật không xuống được với đời sống bà con dân tộc thiểu số
hay do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên khắc nghiệt vùng núi địa hình
chia cắt, độ dốc lớn; Hoặc do chính năng lực hạn chế về ý thức pháp luật
của người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc về các quyền về
kinh tế, xã hội và văn hóa. Đó chính là “rào cản,, đối với việc thực hiện
pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu
số nơi đây được hiệu quả. Hơn nữa, các thế lực thù địch đã và đang lợi
dụng những yếu kém của việc thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số để kích động đòi “ly khai,,
dân tộc như bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001 và 2004, ở Mường Nhé
Điện Biên năm 2011, là một ví dụ.
Đó là lý do tôi chọn đề tài : “Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã
1
hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam,, để làm Luận án tiến sỹ. Đây là đề tài có ý nghĩa quan trọng cả
về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1. Mục đích của luận án
Luận án phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về lý luận thực
hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc
thiểu số; qua phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật luận án đề
xuất các quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Một là, xây dựng khái niệm, phân tích các đặc điểm, vai trò, nội dung
và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa đối với người dân tộc thiểu số. Nghiên cứu về thực hiện pháp luật về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số của một số
nước trong khu vực có sự tương đồng về văn hóa, từ đó rút ra những kinh
nghiệm có thể vận dụng vào thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng, nêu lên những kết quả đạt được,
những hạn chế yếu kém, rút ra các nguyên nhân của những kết quả đạt
được và những hạn chế trong thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam.
Ba là, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận án xây dựng các quan điểm
và đề xuất các giải pháp cụ thể, phù hợp có tính khả thi nhằm đảm bảo
thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân
tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là quá trình thực hiện pháp luật về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh
miền núi phía Bắc (gồm 14 tỉnh: Sơn La, Hòa Bình, Điện Biên, Lai Châu,
Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Yên
Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
2
Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với
người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc là vấn đề rất rộng và
phức tạp, có thể nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề dưới góc độ khoa học lý
luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Trong quá trình nghiên cứu, tập trung
vào các nội dung cơ bản của thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa. Khi đánh giá thực trạng chỉ điều tra khảo sát những vấn đề cốt
lõi để làm cơ sở luận giải các hạn chế, đồng thời đưa ra những quan điểm,
giải pháp phù hợp nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Nhà nước và pháp luật về thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện
pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp
nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp lịch sử cụ thể và
sử dụng kết quả điều tra xã hội học.
Tác giả chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung
trong Luận án. Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp
để đánh giá, nhận xét các công trình nghiên cứu có liên quan đến thực hiện
pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa nói chung. Chương 2, tác giả
chủ yếu sử dụng phương pháp diễn giải quy nạp để xây dựng các khái
niệm; Phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu đặc điểm, hình thức,
vai trò, chủ thể, nội dung và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số; Phương
pháp so sánh để tìm hiểu về các quy chuẩn quốc tế về quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa và thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối
với người dân tộc thiểu số ở một số nước để tham khảo những kinh
nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam. Chương 3, tác giả sử dụng phương
pháp thống kê kết hợp vớí phân tích để nghiên cứu các đặc điểm về tự
nhiên, kinh tế, xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc có ảnh hưởng tới việc
thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với đồng bào
3
dân tộc thiểu số nơi đây. Đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp, phân
tích, đánh giá, thống kê để đánh giá những kết quả đạt được và những hạn
chế yếu kém, tìm ra nguyên nhân của hạn chế thực hiện pháp luật về quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người . Đặc biệt tác giả đã sử dụng
phương pháp điều tra xã hội học để từ đó đánh giá một cách khách quan
thực trạng thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với
người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Chương 4, tác giả sử
dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để đưa ra các quan điểm và đề
xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đã làm rõ khái niệm, đặc điểm về quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa; đã nêu được vai trò của việc thực hiện pháp luật về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số; phân tích
rõ nội dung, đặc điểm và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số; Tham
khảo và phân tích việc thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở một số nước trên thế giới và
những kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam.
Thứ hai, luận án nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách hệ thống
thực trạng thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với
người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nêu lên những kết quả
đạt được, những hạn chế yếu kém; nguyên nhân của những kết quả đạt
được và những hạn chế yếu kém. Đây là cơ sở thực tiễn khoa học để đưa ra
các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
hiện nay.
Thứ ba, luận án dự báo xu hướng tác động đến thực hiện quyền kinh
tế xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía
Bắc, Đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp có tính khả thi về đảm
bảo thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người
dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay nhằm
góp phần thúc đẩy phát triển một xã hội hài hòa không có tính loại trừ
những nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu
số.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
4
Về mặt lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm những vấn đề
lý luận của thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với
người dân tộc thiểu số nói chung và ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng.
Làm sáng tỏ khái niệm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và thực hiện pháp
luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Về mặt thực tiễn : Những giải pháp mà luận án đưa ra được xuất
phát từ thực trạng thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc, qua đó
thấy được những kết quả, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của hạn chế
trong quá trình thực hiện pháp luật về quyền đối với người dân tộc thiểu
số nơi đây.
Luận án đã dự báo những xu hướng tác động đến việc thực hiện quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số, xây dựng các
quan điểm và đề xuất các giải pháp mang tính toàn diện, có cơ sở khoa
học nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền đối với người dân tộc
thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Do vậy, luận án có thể làm tài liệu
tham khảo giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập pháp, các cán
bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực dân tộc, các cán bộ làm công tác
nghiên cứu, giảng dạy cũng như những người làm công tác áp dụng pháp
luật có cách nhìn toàn diện, thấu đáo đối với việc thực hiện pháp luật về
quyền con người nói chung và quyền kinh tế, xã hội và văn hóa nói riêng
đối với người dân tộc thiểu số.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận án được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Các công trình nghiên cứu trong nước đã được công bố cho thấy có
nhiều công trình đề cập đến các vấn đề chung về quyền con người, trong
đó có quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, và đề cập đến từng khía cạnh của
việc thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người
dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, các công trình mới chỉ đề cập đến từng nội
dung cụ thể của thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
5
đối với người dân tộc thiểu số mà chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ
thống và toàn diện nội dung thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC
Nghiên cứu các công trình ngoài nước liên quan đến đề tài cho thấy có
một số công trình đề cập đến thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện phát triển kinh tế
xã hội và hệ thống pháp luật ở các quốc gia trên thế giới có nhiều khác biệt,
nên trong các công trình này chưa đề cập đến Thực hiện pháp luật về quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số, mà chỉ đề cập
đến những quy phạm chung về quyền con người, trong đó có quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa.
1.3. MỘT SỐ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN
CỨU TRONG LUẬN ÁN
Những công trình trong nước và nước ngoài đã tập trung nghiên cứu các
vấn đề lý luận về quyền con người trong đó có quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa và ở các khía cạnh khác nhau, chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện, đầy đủ có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn
thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân
tộc thiểu số nói chung và ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nói riêng.
Các công trình nghiên cứu cả trong và ngoài nước cho thấy chưa có công
trình nào tập trung nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống về Thực hiện
pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu
số, cũng như thực trạng của việc thực hiện pháp luật về nhóm quyền này và
giải pháp bảo đảm thực hiện một cách hiệu quả đối với người dân tộc thiểu
số nói chung và ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng.
Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Thứ nhất: nghiên cứu cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số. Trên cơ sở phân
tích khoa học các công trình nghiên cứu ở trên, tác giả kế thừa có chọn lọc
và tiếp tục đi sâu nghiên cứu thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số, mà đặc biệt là ở khu vực miền
núi phía Bắc một cách có hệ thống và toàn diện.
Thứ hai: luận án phân tích đặc điểm, luận giải, phân tích làm rõ vai
trò của thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với
người dân tộc thiểu số; các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền
6
kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số.
Thứ ba, luận án phân tích, hệ thống hoá và xây dựng các quan điểm chỉ
đạo, đề xuất các giải pháp để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong
việc thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với
người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nhằm góp
phần giải quyết những bất cập giữa quy định của pháp luật với thực hiện
pháp luật trên thực tiễn đời sống của người dân tộc thiểu số.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ ĐỐI
VỚI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU
SỐ
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền kinh tế, xã hội và văn
hoá
2.1.1.1. Khái niệm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
Quyền con người là những đặc tính xuất phát từ nhu cầu và phẩm giá
vốn có của con người, được ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật quốc gia
và quốc tế. Với tư cách là một giá trị xã hội mà con người giành được để
đi đến phát triển tự do thì quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là nhu cầu thiết
yếu về nhân phẩm và giá trị của con người được pháp luật quốc gia và
quốc tế ghi nhận là điều kiện bảo đảm cho sự tự do và phát triển của con
người, bao gồm các quyền sở hữu, quyền có việc làm, quyền được giáo
dục, quyền chăm sóc sức khỏe, quyền an sinh xã hội, quyền được duy trì
và bảo tồn bản sắc văn hóa.
2.1.1.2.Đặc điểm của quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là một trong hai nhóm quyền cơ bản
của con người, vì vậy nó mang đầy đủ các đặc điểm của quyền con người
như: Tính phổ biến được áp dụng cho tất cả các thành viên trong gia đình
nhân loại mà không có sự phân biệt đối xử nào dựa trên chủng tộc, màu
da, giới tính, ngôn ngữ và các tình trạng khác; Tính không thể chuyển
nhượng; Tính không thể phân chia và phụ thuộc lẫn nhau . Ngoài ra quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa còn có những đặc điểm đặc thù như:
Thứ nhất: Tính đặc thù của các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa,
7
trước hết do sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các khu vực và
các quốc gia và vùng lãnh thổ. Do đó các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
không chỉ được ghi nhận trong các văn kiện nhân quyền quốc tế mà còn
được ghi nhận cả trong các văn kiện nhân quyền khu vực như: Hiến
chương xã hội châu Âu, Nghị định thư bổ sung Công ước châu Mỹ về
quyền con người trên lĩnh vực quyền kinh tế, xã hội và văn hóa;
Thứ hai: Thực hiện quyền kinh tế, xã hội và văn hóa trực tiếp gắn
liền và phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và nguồn lực
của mỗi quốc gia. Không thể bảo đảm thực hiện nhóm quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa khi mà nền kinh tế kém phát triển, thu nhập bình quân đầu
người thấp. Bởi nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa có liên quan đến
việc hoạch định chính sách, pháp luật, các chương trình hành động, và
nguồn lực của các chính phủ. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm
của chủ nghĩa Mác Lênin: Khoảng cách chênh lệch phát triển giữa các
quốc gia, dân tộc, chẳng qua là sự phản ánh của trình độ sản xuất, năng
suất lao động và cụ thể hóa bằng kết quả sản xuất có được. Sự phát triển
kinh tế là cơ sở để phát triển chính trị, pháp luật, triết học, văn hóa... dẫn
đến một tất yếu: "Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ
kinh tế và sự phát triển văn hoá do chế độ kinh tế đó quyết định.
Thứ ba: Nghĩa vụ của các quốc gia thành viên theo ICESCR sẽ bị coi là
vi phạm trong các trường hợp: Không nhanh chóng xóa bỏ hoặc không tổ
chức thực hiện kịp thời các quyền mà theo công ước yêu cầu phải thực
hiện ngay.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của người dân tộc thiểu số ở Việt
Nam
2.1.2.1.Khái niệm về dân tộc thiểu số
Dân tộc là một khái niệm được hiểu theo nghĩa rộng là dân tộc quốc
gia (Nation) là một cộng đồng chính trị xã hội, bao gồm tất cả các thành
phần dân tộc đa số và thiểu số sinh sống trong phạm vi lãnh thổ của một
quốc gia thống nhất.
Dân tộc hiểu theo nghĩa hẹp thì khái niệm dân tộc (Ethnic) lại: "Đồng
nghĩa với cộng đồng tộc người, cộng đồng này có thể là bộ phận chủ yếu
hay thiểu số của một dân tộc sinh sống ở trên cùng một lãnh thổ thống nhất
hay ở nhiều quốc gia khác nhau nhưng được liên kết với nhau bằng ngôn
ngữ, văn hóa và ý thức tự giác tộc người .
Tại Điều 5 Nghị định của Chính phủ về công tác dân tộc quy định: "Dân
tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi
lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam" và "Dân tộc đa số là dân
8
tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số cả nước, theo điều tra dân số quốc
gia".
Tuy nhiên, tổng hợp những thuộc tính được ghi nhận từ nội dung
các văn bản pháp luật có liên quan đến dân tộc thiểu số, có thể hiểu khái
niệm "người dân tộc thiểu số " ở Việt Nam như sau:
Người dân tộc thiểu số là người thuộc dân tộc có số dân ít hơn với
dân tộc đa số trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, có những đặc điểm riêng
về chủng tộc, ngôn ngữ, phong tục, tập quán.
2.1.2.2. Đặc điểm của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Thứ nhất, về đặc điểm cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số, Việt
Nam là cộng đồng các dân tộc sống xen kẽ với nhau (cả dân tộc đa số là
người Kinh và các dân tộc thiểu số khác) mà không cư trú thành những
khu vực riêng biệt như các dân tộc thiểu số ở một số nước trên thế giới
đây là đặc trưng duy nhất chỉ có ở các dân tộc Việt Nam
Thứ hai, về đoàn kết dân tộc, cộng đồng các dân tộc Việt Nam có
truyền thống đoàn kết, gắn bó, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Không có hiện
tượng đồng hóa, xâm chiếm lãnh thổ của dân tộc này với dân tộc khác. Vì
vậy, không xuất hiện sự mâu thuẫn đối kháng giữa dân tộc thiểu số với dân
tộc đa số. Đây là đặc điểm đặc trưng nhất của các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam.
Thứ ba, về trình độ phát triển kinh tế xã hội, phần lớn (khoảng 75%)
trong tổng số các dân tộc thiểu số sống ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, giáp
biên giới, tập trung chủ yếu ở miền núi phía Bắc Việt Nam có điều kiện tự
nhiên không thuận lợi, trình độ phát triển kinh tế xã hội không đều nhau có
đời sống vật chất rất khó khăn, lạc hậu, thậm trí vẫn còn lối sống du canh,
du cư.
Thứ tư, về bản sắc văn hóa, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đều có
những bản sắc văn hóa riêng, tạo nên một nền văn hóa Việt Nam đa dạng,
phong phú, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đều có ngôn ngữ riêng của
dân tộc mình, một số ít dân tộc thiểu số có chữ viết riêng.
2.1.3. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số
2.1.3.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa
Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là một quá
trình hoạt động với nhiều trình tự, thủ tục, có nhiều chủ thể tham gia với
những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định và vai trò khác nhau. Những trình
tự, thủ tục trong quá trình hoạt động của các chủ thể nói trên được pháp
luật quy định cụ thể, mà các chủ thể phải thực hiện nghiêm túc.
9
Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa phải là hành
vi hợp pháp, tức là hành vi hoàn toàn phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp
luật.
Nhà nước là chủ thể chính có trách nhiệm hàng đầu trong cơ chế bảo
đảm thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người
dân trong đó có người dân tộc thiểu số.
Từ sự phân tích lý giải trên, có thể hiểu:
Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người
dân tộc thiểu số là tổng thể các hoạt động có mục đích, có chủ định của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các cá nhân người dân tộc thiểu số
để đưa các quy phạm pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đi vào
cuộc sống của người dân nơi đây.
2.1.3.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hoá đối với người dân tộc thiểu số
Thứ nhất, THPL về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là sự tiếp nối
xây dựng pháp luật về quyền, bao gồm toàn bộ các hoạt động nhằm đưa các
quy phạm pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đi vào cuộc sống
của bà con dân tộc thiểu số.
Thứ hai, chủ thể thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa đối với người dân tộc thiểu số bao gồm nhiều loại chủ thể, đó là các
cơ quan nhà nước; các cấp ủy Đảng; chính quyền các cấp, công chức, viên
chức nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; tổ
chức cộng đồng của đồng bào, các cá nhân và hộ gia đình người dân tộc
thiểu số. Trong đó:
Chủ thể có nghĩa vụ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện pháp luật về quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa là đảng bộ các cấp từ cấp tỉnh xuống huyện và
xã; các cấp chính quyền từ trung ương xuống địa phương.
Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa là những cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng nhiệm vụ phải thực
hiện, tổ chức THPLvề quyền kinh tế, xã hội và văn hóa trên địa bàn mà
mình phụ trách và bảo đảm đúng đối tượng được thụ hưởng quyền.
Chủ thể hưởng quyền chính là người dân tộc thiểu số. Trong trường
hợp này người dân tộc thiểu số vừa là chủ thể quyền, vừa là chủ thể
thực hiện pháp luật, hơn ai hết chính người dân tộc thiểu số là chủ thể
trực tiếp tham gia thể thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn
hoá
Thứ ba, thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối
với người dân tộc thiểu số được tiến hành theo các trình tự, thủ tục của
10
pháp luật quy định.
2.1.3.3. Hình thức thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hoá đối với người dân tộc thiểu số
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
Thứ hai, sử dụng pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Thứ ba, thi hành pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Thứ tư, áp dụng pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
2.1.4. Vai trò của thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hoá đối với người dân tộc thiểu số
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là
phương tiện hữu hiệu giúp người dân tộc thiểu số phát triển các năng lực
làm chủ, chủ động, tích cực tham gia vào công việc quản lý nhà nước và
xã hội.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối
với người dân tộc thiểu số là một phương thức bảo đảm an toàn xã hội,
an ninh biên giới và góp phần bảo đảm chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối
với người dân tộc thiểu số giữ vững bản chất Nhà nước của dân, do dân và
vì dân nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Thứ tư, thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối
với người dân tộc thiểu số góp phần nâng cao trình độ dân trí và nguồn
lực của sự phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và cả nước.
Thứ năm, thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
đối với người dân tộc thiểu số phát huy các giá trị đạo đức, bản sắc văn
hóa truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam.
2.2. NỘI DUNG, YÊU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ ĐỐI VỚI NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ
2.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa đối với người dân tộc thiểu số
Một là, Nhà nước với tư cách là chủ thể nghĩa vụ, chịu trách nhiệm
bảo đảm thực thi pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với
người dân tộc thiểu số thông qua các cơ quan nhà nước, các công chức,
viên chức nhà nước triển khai tổ chức thực hiện để đưa chính sách và
pháp luật vào cuộc sống của bà con dân tộc thiểu số
11
Hai là, Nâng cao nhận thức pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa cho các chủ thể quyền, trong trường hợp này, chủ thể quyền
chính là bản thân đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện các quyền năng của
mình về kinh tế, xã hội và văn hóa.
Ba là, Các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước hay những người
có thẩm quyền tổ chức thực hiện các hoạt động áp dụng pháp luật về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số cần phải
thiết lập những nguyên tắc cơ bản của quá trình giải quyết khiếu nại và
tố cáo trong quá trình thực hiện pháp luật về phát triển kinh tế, xã hội
nếu:
Những quyền và lợi ích cơ bản của người dân tộc thiểu số bị ảnh
hưởng;
Người có khiếu kiện và được giải quyết khiếu kiện miễn phí;
Cơ chế giải quyết khiếu kiện sẽ là một phần quan trọng trong cơ
chế giải quyết xung đột dựa vào cộng đồng và phải phù hợp về văn hóa
của đồng bào dân tộc;
2.2.2. Yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số
2.2.2.1. Yêu cầu thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và
văn hoá đối với người dân tộc thiểu số
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
đối với người dân tộc thiểu số phải bảo đảm đúng đối tượng thụ hưởng
quyền.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối
với người người dân tộc thiểu số phải đảm bảo sự công khai, minh bạch,
bình đẳng.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối
với người người dân tộc thiểu số phải tương thích với các tiêu chuẩn
quốc tế và đề cao các quyền con người ghi nhận trong Hiến pháp 2013.
Thứ tư, chi phí thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa đối với người người dân tộc thiểu số phải bảo đảm tính hợp lý.
2.2.2.2. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền kinh
tế, xã hội và văn hoá đối với người dân tộc thiểu số
Một là, các yếu tố bảo đảm về chính tri, kinh tế, xã hội.
Hai là, bảo đảm về mặt pháp lý và tổ chức thực hiện pháp luật.
Ba là, bảo đảm một cơ chế giám sát hiệu quả việc tổ chức thực
hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc
12
thiểu số.
2.3. TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC
VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM
2.3.1. Pháp luật quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và
quyền của người dân tộc thiểu số.
2.3.1.1. Nội dung pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá
Nội dung pháp luật về quyền kinh tế như quyền lao động, việc
làm quyền có tiêu chuẩn sống thích đáng
Nội dung pháp luật về quyền xã hội, như quyền an sinh xã hội,
chăm sóc y tế
Nội dung pháp luật về quyền văn hóa bao gồm giáo dục tiểu học
là phổ cập và miễn phí với mọi người; Bằng mọi biện pháp thích hợp.
Mỗi quốc gia cần bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
dưới mọi hình thức và ở tất cả các cấp phải thể hiện những nét đặc
trưng, gắn kết bao gồm:
Tính sẵn có: thể hiện ở những điều kiện cơ sở hạ tầng thiết yếu
Có thể tiếp cận: Thể hiện ở việc các cơ sở và chương trình bảo
đảm tiếp cận bình đẳng của tất cả mọi người,
Có thể chấp nhận được: tức là phù hợp về văn hoá các dân tộc và
có chất lượng tốt
Có thể thích ứng: Thể hiện ở nhà cung cấp dịch vụ phải linh hoạt
để có thể thích ứng với nhu cầu liên tục thay đổi của xã hội và cộng
đồng.
2.3.1.2. Quyền của người dân tộc thiểu số trong pháp luật quốc
tế
Thứ nhất: Điều 27 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị đã xác lập một quyền của riêng các nhóm thiểu số, bao g ồm thiểu số
về dân tộc (quyền của nhóm).
Thứ hai: Việc bảo đảm các quyền của người thiểu số nêu ở Điều
27 không làm tổn hại đến chủ quyền hay toàn vẹn lãnh thổ của một quốc
gia thành viên.
Thứ ba: Các quyền được bảo vệ theo Điều 27 Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị cũng không đồng nhất với những
quyền được bảo vệ theo Điều 2( khoản1) và Điều 26 của công ước
này.
Thứ tư: Bản chất của các quyền được bảo vệ theo Điều 27 là các
quyền cá nhân, và khả năng thực hiện các quyền này phụ thuộc vào
13
việc các nhóm thiểu số có thể giữ gìn được nền văn hóa, ngôn ngữ của
họ hay không. Do vậy, các quốc gia thành viên cần có các biện pháp
tích cực, chủ động để bảo vệ bản sắc của các nhóm thiểu số về dân
tộc.
2.3.1.3. Bài học kinh nghiệm của một số quốc gia về thực hiện
pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá đối với người dân tộc
thiểu số
Luận án nghiên cứu thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa ở Trung Quốc; ở Vương quốc Thái Lan và ở Malaysia .
2.3.2. Những kinh nghiệm thực hiện pháp luật về quyền kinh
tế, xã hội và văn hoá đối với người dân tộc thiểu số theo tiêu chuẩn
quốc tế và một số nước có ý nghĩa đối với Việt Nam
Hệ thống pháp luật quốc gia phải nội luật hóa những nguyên tắc và
các chuẩn mực về QCN đã được ghi nhận trong các điều ước quốc tế vào
pháp luật quốc gia bảo đảm:
Nguyên tắc bình đẳng về giá trị, nhân phẩm và các quyền của mọi
người và mọi dân tộc, bất kể chủng tộc, sắc tộc, nguồn gốc xã hội
Việt Nam phải sử dụng các biện pháp lập pháp, hành pháp và kể
cả các biện pháp đặc biệt tạm thời để thực thi các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa đối với người DTTS một cách hiệu quả.
Kinh nghiệm của các nước có ý nghĩa với Việt Nam bao gồm:
Một là, nhà nước luôn xác định trách nhiệm hàng đầu và chính yếu
trong việc đầu tư, phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số, nhất
là ở các tỉnh biên giới, miền núi. Nhà nước phải đặc biệt quan tâm phát
triển kinh tế xã hội để giải quyết vấn đề dân tộc và bất bình đẳng giữa
các dân tộc gắn với bảo đảm an ninh biên giới và ổn định chính trị.
Hai là, nhà nước ban hành các chính sách, pháp luật nhằm thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số đều tiến hành các
chương trình đầu tư mang tính đồng bộ, dài hạn để giải quyết một cách cơ
bản điều kiện cơ sở hạ tầng thiết yếu, nhất là giao thông, năng lượng, các
công trình thủy lợi, gắn sản phẩm nông nghiệp với thị trường hàng hóa,
cũng như đồng bộ với chính sách phát triển, y tế giáo dục, và bảo đảm an
sinh xã hội.
Ba là, nhà nước phải xác định hướng ưu tiên trong việc đầu tư vào
thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm tập trung vào ba lĩnh vực
quan trọng đối với người dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số đó là:
Lĩnh vực phát triển kinh tế; lĩnh vực giáo dục và đào tạo cán bộ, có thể
xuất bản giáo khoa song ngữ tiếng Việt và tiếng dân tộc (đối với những
14
dân tộc có chữ viết riêng) cũng như có chiến lược đào tạo cao học riêng
cho cán bộ người dân tộc thiểu số. Đây là những vấn đề cốt lõi liên quan
trực tiếp đến việc thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Qua việc tham chiếu thực hiện pháp luật về quyền ở một số nước
trong khu vực, chúng ta nhận thấy chính sách, pháp luật của mỗi quốc gia
cũng có những ưu điểm và cả những hạn chế, nhưng đây là bài học kinh
nghiệm quí cho Việt Nam nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các quyết
sách về quyền con người, cũng như bảo đảm thực hiện quyền con người
ngày một hiệu quả.
Chương 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN
TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
3.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA
ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
VIỆT NAM
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên của các tỉnh miền núi phía Bắc có ảnh
hưởng đến thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
đối với người dân tộc thiểu số nơi đây
Các tỉnh miền núi phía Bắc là vùng có nhiều đặc điểm tự nhiên rất
khác biệt so với các vùng miền của cả nước, địa hình rộng lớn, có các dãy
núi cao chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam, độ dốc lớn, vùng biên giới
địa hình hiểm trở, bị chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, nắng nóng về mùa hè,
lạnh và sương muối về mùa đông, là vùng thường xuyên chịu hậu quả
thiên tai như lũ quét, sạt lở đất, cháy rừng. Vốn đất để canh tác ít, nghèo,
lại luôn bị rửa trôi, ở vùng tiếp giáp biên giới, giao thông đi lại khó khăn,
hiểm trở. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến sinh kế của bà con dân tộc cư
trú nơi đây.
3.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến thực hiện
pháp luật nơi đây
Đặc điểm kinh tế: Sản xuất kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu vẫn
chủ đạo là nông nghiệp làm ruộng nước, nương rẫy, trồng trọt, chăn nuôi
nhỏ lẻ là chủ yếu, manh mún tính tự cung, tự cấp ; Tỷ lệ đói nghèo cao,
chậm được cải thiện. Tỷ lệ đói nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số ở
các tỉnh miền núi phía Bắc rất cao(chiếm trên 50% trong tỷ lệ nghèo
15
chung cả nước). Tây Bắc có 958 xã ĐBKK thuộc Chương trình 135 giai
đoạn II, chiếm 58,3% tổng số xã ĐBKK của cả nước . Cơ sở hạ tầng kỹ
thuật còn yếu kém và chịu tác động tiêu cực của quá trình phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đặc điểm văn hóa, xã hội: Mật độ dân số thấp 60 90 người/km2.
Dân tộc thiểu số có 5.949.436 người, chiếm 61% dân số vùng và 53% dân
tộc thiểu số cả nước; nhiều tỉnh người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao
như; Cao Bằng 94,1%; Bắc kạn 85%; Đây là vùng cư trú sinh sống của
hơn 30 Dân tộc thiểu số trong 54 dân tộc anh em, tập trung chủ yếu ở
vùng đồi núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới. Các dân tộc thiểu số nơi đây
đều có ngôn ngữ riêng một số ít dân tộc thiểu số có chữ viết riêng, sự tồn
tại lâu đời của nhiều phong tục tập quán lạc hậu, bất lợi cho sức khoẻ và
sự tiến bộ xã hội. Chất lượng chăm sóc y tế, giáo dục và đào tạo nguồn
nhân lực còn hạn chế. Đặc thù về an ninh biên giới, hoạt động kinh tế
vùng biên diễn ra hết sức phức tạp như tình trạng buôn lậu, ma túy, lao
động qua biên giới ở vùng biên..v.v.
Qua phân tích các yếu tố đặc thù về điều kiện tự nhiên và kinh tế
xã hội của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, nơi cư trú của phần lớn
đồng bào các DTTS nước ta, chúng ta nhận thấy các vấn đề nêu trên thực
sự là những khó khăn, thách thức đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến
việc thực hiện pháp luật về quyền con người trong đó có các quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa đối với người dân nơi đây.
3.2.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU
SỐ Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
3.2.1. Thực trạng pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
sau đổi mới 1986 đến nay
Các quyền con người , quyền công dân của người dân Việt Nam đã
được ghi nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên 1946 và ngày càng được mở
rộng trong các bản Hiến pháp sau này là Hiến pháp 1959,1980, 1992, 2013
của Việt Nam.
Một trong những nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ chế định QCN,
quyền công dân trong các Hiến pháp của Việt Nam là: "Tất cả công dân
Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn
hóa" “và tất cả mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,,
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Hiến pháp 1992 được
thay thể bằng Hiến pháp năm 2013 với đầy đủ các chế định về quyền con
người, quyền công dân. Hiến pháp mới 2013 cũng mở rộng nội hàm chủ
16
thể quyền, đó là các chủ thể được mở rộng, không chỉ là "công dân" mà
còn là " mọi người" " tổ chức" hay nhóm xã hội và cộng đồng. Tại Điều 14
Khoản 1 Hiến pháp 2013 ghi nhận:
"Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật".
Một số quyền mới như: Quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều
34); quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22); quyền về văn hóa (Điều 41);
quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền được xác
định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ… (Điều 42) đã giúp
củng cố vị thế pháp lý, cũng như tạo thuận lợi cho việc nâng cao năng lực
thụ hưởng toàn diện các quyền con người của người dân tộc thiểu số,
đặc biệt là đồng bào sinh sống ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Ngoài ra, Nhà nước còn ban hành những chính sách đặc thù được thể
hiện bằng hai quyết định của Thủ tướng Chính phủ là hai chương trình lớn
tác động đến giảm nghèo miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đó là Chương trình
phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và
miền núi (QĐ 135/1998/QĐTTg, gọi tắt là Chương trình 135 và Chương
trình 134).
Một số văn bản quy phạm pháp luật về quyền kinh tế
Một số văn bản quy phạm pháp luật về quyền xã hội
Một số văn bản quy phạm pháp luật về quyền văn hóa như giáo
dục và đào tạo, dạy nghề, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số.
3.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hoá đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía
Bắc
3.2.2.1. Những thành tựu, kết quả đạt được trong thực hiện pháp
luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá đối với người dân tộc thiểu
số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Thực hiện pháp luật nói chung và THPL về quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa nói riêng với người DTTS ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều có
bốn hình thức cơ bản là: Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng
pháp luật và áp dụng pháp luật. Nhưng trong bốn hình thức thực hiện
pháp luật nêu trên, tuân thủ pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
đối với người dân tộc thiểu số là các chủ thể pháp luật tự kiềm chế để
không thực hiện hành vi, hoạt động mà pháp luật về quyền kinh tế, xã
17
hội và văn hóa nghiêm cấm, không cho phép thực hiện. Qua số liệu điều
tra xã hội học cho thấy hầu hết đồng bào nơi đây đều tuân thủ pháp luật
về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và không ghi nhận trường hợp nào bị
xử lý hành chính hay xử lý trách nhiệm hình sự về những hành vi liên quan
đến thực hiện pháp luật về quyền. Vì vậy, trong khuôn khổ luận án này
tác giả chỉ tập trung đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quyền
trên ba hình thức:
Trên phương diện thi hành pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và
văn hoá đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Trên phương diện sử dụng pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Trên phương diện áp dụng pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
Qua triển khai thực hiện pháp luật về quyền quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc miền núi, bằng nhiều biện
pháp tích cực Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện được ba mục tiêu chủ yếu:
xoá được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện đời sống, sức khoẻ
của đồng bào các dân tộc ở miền núi , vùng biên giới, xoá được mù chữ,
nâng cao dân trí và phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tạo
được sự phấn khởi, tin tưởng của đồng bào vào sự lãnh đạo của các cấp uỷ
đảng, sự quản lý của chính quyền địa phương từng bước bảo đảm các
quyền con người cho đồng bào nơi đây, từ đó tăng cường củng cố mối quan
hệ giữa nhân dân với Đảng và chính quyền góp phần tăng cường khối đại
đoàn kết các dân tộc.
3.2.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu, kết quả đạt được
trong thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với
người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Nguyên nhân khách quan:
Việt Nam đã phê chuẩn nhiều điều ước quốc tế cơ bản về quyền
con người và Việt Nam cam kết thực hiện nghĩa vụ của quốc gia thành
viên, thể hiện trong Báo cáo quốc gia phổ quát định kỳ về việc thực hiện
quyền con người ở Việt Nam: "Chính phủ Việt Nam cam kết và xác định
việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về quyền con người, quyền công dân
là một trong những ưu tiên quốc gia trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền
18
con người trong thời gian tới " thể hiện qua đã nội luật hóa các quy phạm
điều ước vào hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia.
Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa nói riêng, cũng như những chính sách đặc thù về phát triển
kinh tế xã hội miền núi đã đạt được những tiến bộ nhất định tạo ra cơ
sở cho việc thực hiện và thúc đẩy các quyền kinh tế, xã hội đối với người
dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào dân tộc ở các tỉnh miền núi phía
Bắc nước ta.
Kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây có bước phát triển
mạnh đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát
triển có mức thu nhập trung bình (thấp) từ năm 2010 với mức thu nhập
trung bình đầu người là 1.068 USD, năm 2013 là 1.960 USD Việt Nam hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và gia nhập nhiều định chế
thương mại quốc tế vì vậy Việt Nam có nguồn lực để thúc đẩy thực hiện
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân nói chung và đồng bào
dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng.
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên định đường lối
đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc.
Thứ hai, Sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sâu sát trong thực hiện
pháp luật về quyền của các cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp.
Thứ ba, Sự tham gia tâm huyết của đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ
sở và tham gia tích cực của người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi
phía Bắc
3.2.3. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền
núi phía Bắc và nguyên nhân
3.2.3.1. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi
phía Bắc
Những hạn chế, bất cập trong thi hành pháp luật
Công tác phổ biến tuyên truyền pháp luật về quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa tuy đã được các cấp chính quyền triển khai và đạt được kết
quả khá quan trọng, song vẫn chưa đáp ứng được mong đợi của các chủ
thể chịu trách nhiệm; hệ quả của nó là sự hiểu biết của một bộ phận bà
19
con người dân tộc thiểu số về quyền lợi của mình và gia đình mình còn
rất hạn chế so với một số lượng các chương trình, dự án lớn
Những hạn chế, bất cập trong sử dụng pháp luật
Một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc( 26,95%) được hỏi về
quyền tiếp cận thông tin về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đánh giá
là chưa tốt và với nội dung được tham gia giám sát việc thực hiện chính
sách, pháp luật là 31,52% số người đánh giá là chưa hiệu quả; cũng tương
tự như dịch vụ trợ giúp pháp lý còn 20,18% đánh giá thấp. Như vậy vẫn
còn một bộ phận người dân tộc thiểu số chưa hiểu nội dung các chính
sách, pháp luật về quyền con người để có thể sử dụng các quyền lợi hợp
pháp của mình,
Những hạn chế, bất cập trong áp dụng pháp luật
Kết quả áp dụng pháp luật về quyền kinh tế như quyền sở hữu đất đai,
quyền lao động việc làm của người dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía
Bắc còn nhiều hạn chế. Chương trình 134 về cấp đất ở, nhà ở, nước sinh
hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, là một chủ trương đúng, nhưng
khi triển khai áp dụng lại không phù hợp với điều kiện của các tỉnh, hiệu quả
tác động chưa cao.
3.2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện pháp
luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân tộc thiểu
số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Nguyên nhân khách quan:
Vị trí địa lý tự nhiên ở vùng núi cao độ dốc lớn, địa hình hiểm trở,
chia cắt phức tạp
Đặc điểm cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi
phía Bắc sống phân tán, trên địa hình rộng lớn, đi lại khó khăn
Do yếu tố lịch sử để lại mà tình hình kinh tế xã hội ở vùng dân
tộc các tỉnh miền núi phía Bắc vẫn là nơi kém phát triển nhất của cả
nước.
Nguyên nhân chủ quan:
Một là, chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật về quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa được ban hành vẫn còn không ít những điểm bất cập
giữa các quy định và thực tiễn đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ở
các tỉnh miền núi phía Bắc.
Hai là, quản lý, chỉ đạo, tổ chức của một số các cán bộ, công chức
ở các cấp trong thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
20
đối với người dân tộc thiểu số còn hạn chế, bất cập và bộc lộ nhiều yếu
kém.
Ba là, nhận thức của chủ thể thụ hưởng quyền là người dân tộc
thiểu số về các quyền con người nói chung trong đó có các quyền về kinh
tế xã hội và văn hóa còn mức độ.
Bốn là, việc đầu tư nguồn lực, cơ sở vật chất bảo đảm điều kiện
THPL về quyền quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người DTTS ở
các tỉnh miền núi phía Bắc còn hạn chế.
21