VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ QUẾ ANH
PHÁT TRIỂN LOGISTICS Ở
MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á BÀI
HỌC
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Chuyên ngành:
Mã số:
Kinh tế Thế giới và Quan hệ Kinh tế
Quốc tế
62.31.07.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
1
HÀ NỘI 2014
2
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Người hướng đẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Xn Thắng
2. PGS.TS. Phạm Thị Thanh Bình
Phản biện 1: PGS.TS. Lưu Ngọc Trịnh
Phản biện 2: PGS.TS. Đỗ Đức Định
Phản biện 3: GS.TS. Đặng Đình Đào
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
tại.......................................... vào hồi ...............giờ ..................phút,
ngày .........tháng ...........năm...........
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
3
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Logistics là hoạt động tối ưu hóa việc lưu trữ, vận chuyển hai
chiều các tài nguyên (nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm,
hàng hóa), tài chính, thông tin từ nơi cung cấp qua các khâu của chuỗi
cung ứng đến người tiêu dùng. Trong nền kinh tế hiện đại, logistics
ngày càng có vai trò quan trọng.Khi sản xuất ngày càng phát triển, các
nguồn lực ngày càng trở nên khan hiếm, logistics giúp các nhà sản xuất
tối ưu hóa mọi thao tác để tiết kiệm nguồn lực, tiết kiệm chi phí, tiết
kiệm thời gian.Hơn thế nữa, trong cạnh tranh, khi máy móc thiết bị,
công nghệ sản xuất đạt đến một trình độ nhất định và phổ cập, thì
người có chi phí cho hoạt động logistics thấp nhất và thỏa mãn được
nhu cầu khách hàng nhanh nhất sẽ là người chiếm ưu thế. Thêm vào đó,
trong quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, việc sản xuất, kinh doanh và
tiêu thụ sản phẩm có liên quan đến nhiều quốc gia, xa cách về không
gian và thời gian thì logistics càng trở nên quan trọng vì hiệu quả của
logistics trực tiếp ảnh hưởng tới giá bán và khả năng thỏa mãn nhu cầu
khách hàng. Đối với nền kinh tế, các nghiên cứu gần đây cho thấy, chỉ
riêng hoạt động logistics đã chiếm 1015%GDP ở hầu hết các nước tại
châu Âu, Bắc Mỹ và châu ÁThái Bình Dương. Vì thế, cải thiện hiệu
quả hoạt động logistics sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội
cho mỗi quốc gia. Việc phát triển hệ thống logistics sẽ đảm bảo giải
quyết hợp lý các vấn đề về giao thông vận tải, dịch vụ kho bãi, trung
chuyển, hải quan, thông quan và tăng khả năng cạnh tranh về hàng hóa,
dịch vụ của nền kinh tế.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, logistics còn là lĩnh vực khá mới mẻ và
phát triển một cách tự phát, hiệu quả khá thấp, nhiều bất cập và chi phí
cao(trong khi chi phí logistics so với GDP của Mỹ chỉ là 7,7%; của
Singapore là 8%; các nước châu Âu khoảng 10%; Nhật – 11%; Trung
1
Quốc – 18%, thì của Việt Nam chiếm tới 25% GDP).Chi phí logistics
cao là một nguyên nhân quan trọng làm giảm sức cạnh tranh và hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp, nói riêng và cản trở sự tăng trưởng kinh
tế Việt Nam, nói chung. Bởi vậy, nếu không chú trọng phát triển
logistics, Việt Nam sẽ không chỉ tổn thất về lợi ích kinh tế mà các
ngành sản xuất trong nước còn có nguy cơ khó có thể tồn tại do không
cạnh tranh được với sản phẩm của các công ty nước ngoài.Vì vậy, bài
toán xây dựng và phát triển hệ thống logistics ở Việt Nam thực sự cần
có lời giải đáp.Việc tham khảo kinh nghiệm phát triển logistics ở ba
quốc gia trong cùng khu vực ASEAN có trình độ phát triển logistics cao
hơn (Singapore, Malaysia và Thái Lan) là cần thiết để rút ra những bài
học cho Việt Nam trong quá trình phát triển logistics đây có thể được
coi là một hướng đi ngắn và hiệu quả để phát triển logistics Việt Nam
nhanh đạt được mục tiêu. Vì vậy, nghiên cứu sinh đã lựa chọn vấn đề
“Phát triển logistics ở một số nước Đông Nam Á bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên
quan đến đề tài Luận án
Khoảng 20 năm trở lại đây, Logistics đã thu hút sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu. Trên thế giới, các nghiên cứu về logistics khá phong
phú vàđược thực hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Các nghiên cứu lý
luận chung về logistics chủ yếu được thực hiện dưới góc độ vi mô luận
giải những vấn đề liên quan đến logistics của doanh nghiệp. Ngoài
những nghiên cứu lý luận chung, còn có những nghiên cứu cụ thể về
một hay một số khía cạnh logistics ở một số quốc gia trên góc độ trung
mô và vĩ mô. Một số công trình nghiên cứu về logistics ở Singapore,
Trung Quốc, Thái Lan,... cho thấy họ rất quan tâm tìm hiểu kinh nghiệm
nước ngoài.
Ở Việt Nam hiện nay có rất ít các nghiên cứu chuyên sâu về
logistics, đặc biệt chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào tập trung nghiên
2
cứu kinh nghiệm của các quốc gia đi trước.Trong khung khổ nghiên cứu
một đề tài cấp Nhà nước, GS. TS. Đặng Đình Đàođã xuất bản cuốn sách
chuyên khảovề Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập
quốc tế(2012). Cuốn sách có một phần đề cập về kinh nghiệm phát
triển logistics ở Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore và Thái Lan nhưng
chỉ dừng ở mức rất khái quát bởi đây không phải là nội dung nghiên cứu
chủ yếu.Vì thế, cần phải có công trình nghiên cứu phân tích chuyên sâu,
toàn diện hơn về vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tổng quát của Luận án là rút ra các bài học từ
kinh nghiệm phát triển logistics ở Singapore, Malaysia, Thái Lan và đưa
ra các đề xuất nhằm phát triển logistics của Việt Nam. Để đạt tới mục
đích tổng quát đó, các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của Luận án được
đặt ra là:
Luận giải các vấn đề lý luận cơ bản về logistics và phát triển logistics,
đặc biệt nhấn mạnh lý luận về logistics và phát triển logistics ở giác độ
vĩ mô là hệ thống logistics quốc gia.
Phân tích thực trạng và đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, nguyên nhân
của thành công và hạn chế trong phát triển logistics ở Singapore,
Malaysia, Thái Lan.
Rút ra bài học nhằm phát triển logistics Việt Nam từ kinh nghiệm phát
triển logistics của Singapore, Malaysia, Thái Lan.
Đánh giá tổng quan tình hình phát triển logistics của Việt Nam, nhận
định những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tình trạng đó.
Đưa ra phương hướng và đề xuất nhằm phát triển logistics ở Việt
Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận ánlà những vấn đề về phát triển
logistics ở Singapore, Malaysia, Thái Lanvà ở Việt Nam. Luận án tiếp
3
cận sự phát triển logistics ở 4 quốc gia này dưới giác độ vĩ mô dựa trên
hệ thống logistics quốc gia (gồm 4 yếu tố: hạ tầng cơ sở logistics,
khung thể chế logistics, người cung cấp dịch vụ logistics và người sử
dụng dịch vụ logistics) trong khoảng thời gian 20 năm trở lại đây. Đưa
ra đề xuất nhằm phát triển logistics Việt Nam trong ngắn hạn và trung
hạn (10 năm).
5. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh việc sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản là duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử với nguồn dữ liệu thứ cấp từ các số liệu
và kết quả điều tra của các nghiên cứu hiện có và số liệu thống kê,
Luận án chú trọng làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu trên cơ sở phân
tíchchỉ số năng lực logistics (LPI) mà Ngân hàng thế giới (WB) công bố
đảm bảo độ tin cậy cao. Phương pháp phân tích dữ liệuđịnh tính là
phương pháp chủ yếu được sử dụng, bao gồm: phương pháp phân tích,
tổng hợp, phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp phân tích
so sánh. Ngoài ra, Luận án còn sử dụng phương pháp phân tích SWOT
đánh giá thực trạng logistics của từng quốc gia được đề cập.
6. Đóng góp mới của Luận án
Thứ nhất, tạo dựng được cơ sở lý luận về logistics trên quan điểm
lịch sử và toàn diện, lý giải một cách dễ hiểu những vấn đề cơ bản
như: bản chất của logistics, vì sao cần phát triển logistics,sự hình thành
và phát triển ngành dịch vụ logistics, các yếu tố cấu thành hệ thống
logistics quốc gia và nội dung phát triển logistics quốc gia;
Thứ hai, phân tích được thực trạng phát triển logistics ở ba nước
Đông Nam Á (Singapore, Malaysia, Thái Lan) một cách khá toàn diện với
nội dung phong phú, đồng thời chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu và nguyên
nhân của thành công cùng những hạn chế trong sự phát triển logistics ở
các quốc gia này;
Thứ ba,rút ra được một số bài học về phát triển logistics từ kinh
4
nghiệm phát triển logistics của 3 quốc gia được nghiên cứu, liên hệ với
Việt Nam;
Thứ tư, chỉ ra được những yếu kém và nguyên nhân hạn chế trong
phát triển logistics ở Việt Nam, trên cơ sở các bài học kinh nghiệm, đưa
ra định hướng vàmột số đề xuất nhằm phát triển logistics ở Việt Nam
thời gian tới.
7. Kết cấu nội dung Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận
án gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về logistics và phát triển
logistics quốc gia.
Chương II:Thực trạng phát triển logistics ở Singapore, Malaysia và Thái
Lan.
Chương III:Bài học kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á và đề
xuất nhằm phát triển logistics ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
LOGISTICS VÀ PHÁT TRIỂN LOGISTICS QUỐC GIA
1.1.
Một số vấn đề lý luận cơ bản về logistics
1.1.1. Nguồn gốc và bản chất logistics trong lĩnh vực kinh tế
Thuật ngữ logistics ban đầu được sử dụng trong quân đội. Sau đại
chiến thế giới thứ 2, nó được người Mỹ sử dụng trong lĩnh vực kinh tế
và đến 2 thập kỷ cuối của thế kỷ XX, thuật ngữ này được sử dụng rộng
rãi trên toàn thế giới với sự ra đời của hàng loạt các công ty có tên gọi
“Logistics”. Thực chất, hoạt động logistics không phải đến cuối thế kỷ
XX mới xuất hiện (như nhiều người quan niệm) mà nó ra đời và phát
triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa với bản
chất là những hoạt động phục vụ quá trình sản xuất và phân phối, lưu
thông. Theo thời gian, trình độ sản xuất ngày càng phát triển thì những
hoạt động này ngày càng phát triển với trình độ cao hơn, đa dạng, phong
5
phú hơn và được chuyên môn hóa trở thành một lĩnh vực dịch vụ độc
lậpvới một tên gọi riêng là “Logistics”.
1.1.2.
Khái niệm logistics
Cho đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau về logistics.Bởi lẽ
logistics không phải là một hoạt động mà gồm một chuỗi các hoạt động
xuyên suốt quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông. Hơn thế nữa,theo
thời gian, các hoạt động này ngày càng mở rộng, vì thế, nội hàm của
khái niệm logistics thay đổi theo thời gian và không gian dẫn đến sự
xuất hiện nhiều định nghĩa khác nhau về logistics ở những thời điểm và
không gian khác nhau.
Hiện nay, định nghĩa được đưa ra bởi Hội đồng Các Chuyên gia
Quản trị Chuỗi cung ứng Hoa Kỳ (CSCMP) năm 2001 được thừa nhận
rộng rãi hơn cả, theo đó logistics được quan niệmlà một bộ phận của
chu trình chuỗi cung ứng, bao gồm hoạch định kế hoạch, thực hiện và
kiểm soát hàng hóa, dịch vụ,thông tin trong lưu trữ và lưu chuyển hai
chiềugiữa điểm khởi đầu và điểm tiêu dùng đạt hiệu quả cao, lợi ích
cao để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
1.1.3.
Các hoạt động logistics chủ yếu
Các hoạt động logistics trong doanh nghiệp thường gồm các hoạt
động chủ yếu sau: dịch vụ khách hàng, vận chuyển, quản lý dự trữ,
hoạt động kho bãi, cung ứng vật tư, mua sắm và thuê dịch vụ, đóng gói,
liên kết hệ thống sản xuất và vận hành, quản lý thông tin.
1.1.4.
Vai trò của logistics
Ở góc độ doanh nghiệp, logistics có vai trò tối ưu hóa chu trình
lưu chuyển của sản xuất kinh doanh từ khâu đầu vào tới khi đến tay
khách hàng sử dụng; hỗ trợ cho các nhà quản lý ra quyết định chính xác;
đảm bảo cung cấp đúng yếu tố, đúng thời gian, tại đúng địa điểm (JIT
just in time), thỏa mãn tối đa nhu cầu khách hàng. Vì thế, logistics trở
thành yếu tố quan trọng gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp và quyết
6
định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và phát triển bền vững. Trên
thực tế, 98% nhà sản xuất cho rằng logistics quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu khách hàng, 85% cho rằng logistics là yếu tố chính trong lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp và 62% cho rằng logistics là lĩnh vực
ưu tiên quản lý hàng đầu. (Phần Lan, 2009)
Ở góc độ vĩ mô, đối với nền kinh tế quốc dân, logistics có vai trò
thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển các ngành sản xuất và nền kinh tế;
thúc đẩy lưu thông hàng hóa và mở rộng thị trường trong buôn bán quốc
tế; gia tăng khả năng cạnh tranh của hàng nội địa trên thị trường quốc
tế; là công cụ hữu hiệu để liên kết hoạt động của các mắt xích khác
nhau trong chuỗi giá trị toàn cầu và góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và
tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế.
1.1.5.
Phân loại logistics
Logistics có thể đượ c phân loại theo các tiêu thức như theo giác
độ tiếp cận, theo chủ thể tiến hành hoạt động logistics, theo tính
chất hoạt động hoặc theo hướng vận động của dòng vậ t chất tùy
mục đích nghiên cứu.
1.2. Sự hình thành và phát triển ngành dịch vụ logistics trong nền
kinh tế
Sự xuất hiện ngày càng phổ biến của các nhà cung cấp dịch vụ
logistics bên thứ 3 (3PL) đánh dấu sự ra đời một ngành dịch vụ mới
dịch vụ Logistics. Ở những nền kinh tế phát triển thì ngành dịch vụ
logistics sớm xuất hiện và tăng trưởng nhanh với nguồn cung và cầu
dịch vụ logistics ngày càng lớn.
1.3. Phát triển logistics quốc gia
1.3.1. Các yếu tố cấu thành hệ thống logistics quốc gia
Mỗi hệ thống logistics quốc gia được cấu thành bởi bốn yếu tố
logistics có quan hệ chặt chẽ với nhau là:(1) Hạ tầng cơ sở logistics bao
7
gồm hạ tầng cơ sở vật chất (cảng biển, sân bay, đường bộ, đường sắt,
đường thủy, đường ống, kho bãi, phương tiện vận chuyển, cảng thông
quan nội địa, trạm trung chuyển, các trung tâm logistics,...) vàhạ tầng
công nghệ thông tin. (2) Khung thể chế logisticsbao gồm các văn bản
pháp luật, chính sách liên quan đến môi trường hoạt động kinh tế nói
chung và hoạt động logistics nói riêng như các quy định quản lý, chính
sách ưu đãi thuế, hỗ trợ đầu tư vào logistics, chính sách hải quan,... (3)
Nhà cung cấp dịch vụ logistics(LSP) gồm các công ty bán dịch vụ
logistics cho khách hàng. (4) Người sử dụng dịch vụ logisticsbao gồm
các doanh nghiệp sản xuất, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhà bán
buôn, bán lẻ... có nhu cầu về dịch vụ logistics.
1.3.2. Nội dung phát triển logistics quốc gia
Trên cơ sở khái niệm phát triển kinh tế, có thể hiểuphát triển
logistics quốc gia là quá trình hoàn thiện về mọi mặt, gia tăng cả về mặt
lượng và mặt chất của các yếu tố cấu thành hệ thống logistics quốc gia,
bao gồm phát triển hệ thống hạ tầng logistics, xây dựng khung thể chế
thuận lợi cho phát triển logistics, phát triển nhà cung cấp dịch vụ
logistics và phát triển cầu về dịch vụ logistics nhằm tạo dựng những
điều kiện thuận lợi nhất, tối ưu nhất cho hoạt động logistics doanh
nghiệp thực hiện hiệu quả, đồng thời thúc đẩy sự phát triển ngành dịch
vụ logistics.
Với nội hàm của phạm trù phát triển, phát triển logistics quốc gia
không chỉ nhằm vào mặt lượng như tăng quy mô, tăng số lượng hạ tầng
cơ sở logistics (gia tăng số lượng, mở rộng đường sá, cảng biển, sân
bay, hệ thống đường sắt, cầu, cống, đường ống, mạng thông tin viễn
thông, kho chứa, cảng cạn,...) mà còn bao gồm sự phát triển về mặt chất
hạ tầng cơ sở (gia tăng chất lượng hạ tầng cơ sở, giảm chi phí sử dụng
hạ tầng cơ sở, gia tăng khả năng kết nối giữa các hệ thống giao thông
làm cơ sở cho phát triển hình thức vận chuyển đa phương thức, gia tăng
các hình thức dịch vụ hạ tầng cơ sở, hình thành các Khu tập trung
8
Logistics với hệ thống cơ sở vật chất hiện đại...); không chỉ nhằm vào
gia tăng tăng số lượng nhà cung cấp dịch vụ logistics, gia tăng số lượng
người sử dụng dịch vụ, tăng tỷ trọng của lĩnh vực này trong GDP… mà
còn bao hàm những vấn đề liên quan đến mặt chất của phát triển ngành
dịch vụ logistics như gia tăng số lượng dịch vụ cung ứng, gia tăng chất
lượng dịch vụ cung ứng, gia tăng phạm vi cung ứng dịch vụ, gia tăng số
lượng dịch vụ người sản xuất kinh doanh muốn được cung ứng (thuê
ngoài). Đồng thời, sự phát triển hệ thống logistics quốc gia còn gắn liền
với những thay đổi về thể chế quản lý, điều hành và thực hiện các hoạt
động logistics với mục tiêu tạo thuận lợi hóa thương mại, giảm chi phí,
thời gian, giảm phiền hà, tăng cường tính liên kết, sự tin cậy… của toàn
bộ hệ thống logistics đảm bảo tăng trưởng bền vững trong tương lai.
1.3.3. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển logistics của quốc gia
Theo quan điểm của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), năng lực
của hệ thống logistics quốc gia được đánh giá dựa trên 4 yếu tố: hạ
tầng cơ sở logistics, khung thể chế logistics, người sử dụng dịch vụ
logistics và nhà cung cấp dịch vụ logistics.
Theo quan điểm củaNgân hàng thế giới (WB), hiệu quả logistics
được đánh giá dựa trên chỉ số “năng lực logistics” LPI (Logistics
performance index) do Ngân hàng thế giới tiến hành điều tra, nghiên cứu
và công bố trong báo cáo mang tên “Kết nối để cạnh tranh ngành
logistics trong nền kinh tế toàn cầu”. Chỉ số LPI gồm rất nhiều tiêu chí:
chất lượng hạ tầng cơ sở, thuận lợi hải quan, năng lực của nhà cung cấp
dịch vụ, khả năng truy xuất đơn hàng, đúng hạn giao hàng, vận chuyển
hàng hóa quốc tế (LPI quốc tế) và rất nhiều tiêu chí cụ thể bao gồm cả
đánh giá định tính và định lượng liên quan đến năng lực logistics của quốc
gia (LPI nội địa). Các tiêu chí được đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 5
hoặc từ 0% đến 100%.
Với mục tiêu nghiên cứu đề ra, Luận án đã lựa chọn sử dụng cách
tiếp cận trên các yếu tố thành phần cấu thành hệ thống logistics của
9
ADB với những tiêu chí phù hợp của chỉ số LPI để làm sáng tỏ trình độ
phát triển các yếu tố cấu thành hệ thống logistics của một quốc gia,
nhận diện điểm mạnh và điểm yếu trong các lĩnh vực.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển logistics quốc gia
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển logistics quốc gia được
chia thành 4 nhóm: (i) điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý; (ii) môi trường
chính trị, xã hội, kinh tế vĩ mô; (iii) trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; (iv) chiến lược, chính sách, vai trò của chính phủ.
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LOGISTICS Ở
SINGAPORE, MALAYSIA VÀ THÁI LAN
2.1.
Thực trạng phát triển logistics ở Singapore
2.1.1. Một số đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội chủ yếu
2.1.2. Tình hình phát triển logistics ở Singapore
Với chủ trương phát triển Singapore trở thành Trung tâm trung
chuyển hàng hóa của khu vực (từ những năm 1980), Chính phủ
Singapore đã sớm thực hiện nhiều biện pháp để thúc đẩy logistics phát
triển.
Phát triển, hiện đại hóa hạ tầng cơ sởvật chất và hạ tầng công
nghệ thông tin.Singapore chú trọng phát triển cảng biển, sân bay, hệ
thống đường bộ và các kho bãi hiện đại bậc nhất thế giới. Song song
với việc đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng cơ sởvật chất, Singapore đã
phát triển hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin rất mạnh qua việc thực
thi các dự án phát triển tin học quốc gia và triển khai sử dụng 5 hệ
thống mạng liên kết: mạng thương mại, mạng cảng biển, mạng trực
tuyến cảng Jurong, mạng hàng hải, mạng cộng đồng vận tải hàng
không. Hệ thống hạ tầng cơ sở giao thông hiện đại song hành cùng hệ
thống hạ tầng công nghệ thông tin rất mạnh là nhân tố quyết định hiệu
quả của Logistics Singapore. Nguồn tài chính rất lớn để phát triển hạ
10
tầng cơ sở được Chính phủ Singapore huy động từ quỹ tiết kiệm quốc
gia, nguồn đầu tư nước ngoài, và vốn vay từ hệ thống ngân hàng thương
mại.
Thiết lập khung thể chế thúc đẩy sự phát triển của logistics và
tạo thuận lợi hóa thương mại. Chính phủ Singapore đã ban hành các
chính sách ổn định tài chính, tiền tệ và tỷ giá để gia tăng tiết kiệm và thu
hút đầu tư nước ngoài; thực thi chính sách ưu đãi thuế đối với các công
ty vận tải và logistics, miễn thuế với đầu tư mạo hiểm, miễn thuế thu
nhập từ tàu biển trong 10 năm,... Một điểm đáng chú ý là đối tượng thụ
hưởng từ Chính sách ưu đãi của Chính phủ là các công ty logistics mạnh,
có quy mô lớn, kinh doanh có hiệu quả, có cam kết làm ăn lâu dài và phát
triển mở rộng điều này cho thấy mục tiêu của Chính phủ nhằm hướng
đến sự phát triển logistics bền vững. Chính sách hải quan được minh
bạch hóa với những quy định rõ ràng, chặt chẽ và hiệu lực thi hành
nhanh chóng. Bên cạnh đó, Chính phủ Singapore còn đặc biệt chú trọng
đến các chính sách về giáo dục, đào tạo và thu hút nhân tài nước ngoài.
Nhà cung cấp dịch vụ logistics (LSP) với số lượng lớn, có khả
năng cung cấp nhiều loại dịch vụtheo kiểu “may đo”, tính chuyên
nghiệp cao, chất lượng dịch vụ đảm bảo và tin cậy.Cầu về dịch vụ
logistics rất lớn có được từ xu hướng thuê ngoài dịch vụ logistics của
các công ty sản xuất kinh doanh nội địa và một tỷ lệ lớn đến từ các
doanh nghiệp, các đại lý nước ngoài.
Với hệ thống logistics rất phát triển, Singapore đã trở thành Trung
tâm logistics số 1 của thế giới.Trong 3 lần đánh giá liên tiếp từ 2007 đến
2012, chỉ số LPI của Singapore luôn đứng vị trí cao nhất/nhì thế giới với
hệ thống logistics phát triển đồng đều trên tất cả các lĩnh vực.
2.2.
Thực trạng phát triển logistics ở Malaysia
2.2.1. Một số đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội chủ yếu
2.2..2. Tình hình phát triển logistics Malaysia
Từ những năm 1980, với chiến lược phát triển hướng về xuất
11
khẩu, Malaysia đã nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống phân
phối ít tốn kémvà chiến lược phân phối hiệu quả. Trong Kế hoạch phát
triển quốc gia lần thứ 8 (20012005), Chính phủ đã ban hành các chính
sách tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho các 3PL trong và ngoài nước.
Năm 2006, Chính phủ Malaysia đã xây dựng chương trình phát triển dài
hạn cho riêng ngành dịch vụ logistics đến năm 2020 (trong IMP3), theo
đó, ngành dịch vụ logistics được coi như một ngành độc lập, giữ vai trò
chiến lược trong phát triển kinh tế quốc gia.
Đầu tư mạnh cho việc phát triển hạ tầng cơ sở: (i) hệ thống hạ
tầng giao thông vận tải được đầu tư đồng bộ và toàn diện; (ii) không
ngừng nâng cấp, hiện đại hóa hạ tầng thông tin, viễn thông; (iii) xây
dựng hệ thống cảng container nội địa (ICD) với vai trò là điểm liên kết
các loại hình vận tải; (iv) xây dựng các khu thương mại tự do (Free
Commercial Zone – FCZ) với vai trò hỗ trợ các cảng chính trở thành
trung tâm chuyển tải trong khu vực.
Xây dựng và củng cố thể chế logistics. Với sự thay đổi nhận thức
về vai trò của logistics, Chính phủ Malaysia không ngừng hoàn thiện các
chính sách để thúc đẩy logistics quốc gia phát triển; chú trọng thuận lợi
hóa các quy trình thủ tục hải quan, thông quan; áp dụng công nghệ cao
vào các khâu quản lý, giám sát và điều hành các hoạt động logistics; thực
thi hàng loạt các chính sách tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư:
hệ thống thuế hấp dẫn, chính sách hỗ trợ các LSP quốc tế và đầu tư
trực tiếp cho các LSP nội địa.
Phát triển thị trường logisticsthông qua thúc đẩy sự phát triển
các LSP và hỗ trợ công tác giáo dục, đào tạo nhằm gia tăng lượng cầu
dịch vụ logistics.Trong giai đoạn 19802000, logistics Malaysia hầu như
chỉ hoạt động theo mô hình 2PL. Bước sang thế kỷ XXI, thị trường dịch
vụ logistics 3PL tại Malaysia ngày càng phát triển. Trải qua hơn một
thập kỷ (2000 nay), hệ thống logistics 3PL của Malaysia đã phát triển
ở mức độ tương đối với sự xuất hiện của hàng loạt các công ty logistics
3PL, trong đó có những công ty đạt chuẩn quốc tế. Cùng với các công ty
12
trong nước (chiếm 57% thị phần), các LSP lớn với mạng lưới hoạt động
toàn cầu cũng đang gia tăng tại Malaysia (chiếm 31% thị phần). Năm
2012, Chính phủ Malaysia lại tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho tăng
trưởng thị trường logistics thông qua chương trình Cải cách Chính phủ
và chương trình Cải cách kinh tế, theo đó lượng cầu về dịch vụ logistics
của Malaysia đã gia tăng đáng kể và được mở rộng ở nhiều lĩnh vực,
chứ không chỉ giới hạn ở các lĩnh vực thuê ngoài truyền thống như
trước đây.
Đánh giá chung: Malaysia đứng vị trí 29/155 trong bảng xếp hạng
LPI toàn cầu năm 2012.Chỉ số thấp nhất trong nhóm bảng xếp hạng LPI
là sự thuận lợi hóa trong khâu thủ tục hải quan (chủ yếu do liên quan
đến tôn giáo).Tóm lại, năng lực logistics của Malaysia khá ổn định, chất
lượng dịch vụ logistics khá cao.Các mức phí được điều chỉnh tạo thuận
lợi cho các hoạt động vận tải (trừ vận tải đường sắt).Chất lượng hạ
tầng cơ sở vật chất được đánh giá tốt hơn.Toàn bộ các dịch vụ hạ tầng
logistics phục vụ vận tải đều được cải thiện.Tuy nhiên, hệ thống kho
bãi đang có xu hướng không đáp ứng được nhu cầu của logistics vận tải.
2.3.
Thực trạng phát triển logistics ở Thái Lan
2.3.1. Một số đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội chủ yếu
2.3.2. Tình hình phát triển logistics ở Thái Lan
Từ năm 2001, Chính phủ Thái Lan đã nhận thấy tầm quan trọng
của phát triển logistics, theo đó logistics được coi là một kế hoạch ưu
tiên của quốc gia. Năm 2003, các dự án lớn phát triển hạ tầng cơ sở vật
chất bắt đầu được thực hiện với mục đích tăng sức cạnh tranh của sản
phẩm Thái Lan thông qua giảm tổng chi phí logistics. Tuy nhiên, những
chính sách của Chính phủ Thái Lan trong giai đoạn này chưa thật sự tác
động nhiều đến sự phát triển của logistics. Trước sức ép cạnh tranh
ngày càng gay gắt trên thị trường quốc tế và thị trường nội địa, phát
triển logistics đã trở thành vấn đề cấp bách và cần được nâng cao hiệu
quả ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Từ năm 2005, Chính phủ Thái Lan đã có
13
những biện pháp mạnh để thúc đẩy logistics phát triển, coi phát triển
logistics là giải pháp quan trọng để tăng khả năng cạnh tranh của Thái
Lanđộng cơ tăng trưởng kinh tế.
Tập trung đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở. Đầu tư cho giao
thông công cộng (xây dựng, nâng cấp hệ thống đường bộ khá lớn, nâng
cấp các cửa khẩu thương mại biên giới, kho bãi, đầu tư mạnh vào sân
bay quốc tế Suvarnabhumi), được Chính phủ Thái Lan đặc biệt chú
trọng (chiếm đến 44% tổng đầu tư của Nhà nước giai đoạn 20052009).
Tuy nhiên, hạ tầng cơ sở và năng lực vận chuyển đường sắt và đường
biển còn hạn chế. Nguồn vốn đầu tư được huy động từ ngân sách nhà
nước cùng với gia tăng huy động từ khu vực tư nhân và đầu tư nước
ngoài. Bên cạnh đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng cơ sởvật chất,
Chính phủ Thái Lan định hướng và đưa công nghệ thông tin vào công tác
quản lý hạ tầng logistics, dù vậy, đây mới chỉ là những bước đi cơ bản
ban đầu và chưa đem lại hiệu quả cao.
Tạo điều kiện thuận lợi trong các thủ tục thông quan vớiviệc
áp dụng hệ thống hải quan tự động từ khá sớm (2000), đếnnăm 2007
Thái Lan đã triển khai áp dụng Hải quan điện tử. Tuy nhiên, do mới
triển khai thực hiện và quy trình quản lý còn phức tạp nên hiệu quả
công tác hải quan còn chưa cao.
Các nhà cung cấp dịch vụ logistics tại Thái Lan hầu hết là 3PL
của nước ngoài, có chất lượng dịch vụ cao. Các doanh nghiệp logistics
nội địa rất yếu do mạng lưới kinh doanh nhỏ lẻ, thiếu thông tin trong kỹ
thuật quản lý logistics, hạn chế về vốn, công nghệ và chất lượng nhân
lực chưa cao. Thái Lan chỉ có hơn 16 doanh nghiệp cung ứng dịch vụ
logistics tương đối toàn diện và hơn 30 hãng tàu nhưng tổng vốn đăng
ký của nhóm doanh nghiệp này chiếm chỉ khoảng 5% tổng vốn đăng ký
ngành dịch vụ logistics.
Người sử dụng dịch vụ logistics :Cầu về dịch vụ logistics chủ
yếu đến từ các doanh nghiệp và tập đoàn có vốn đầu tư nước ngoài.
14
Các doanh nghiệp sản xuất trong nước chưa có xu hướng thuê ngoài
dịch vụ logistics. Để thúc đẩy ngành dịch vụ logistics phát triển, Chính
phủ ban hành khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tham gia sâu
hơn vào thị trường dịch vụ logistics 3PL; hỗ trợ tư vấn, cung cấp tư vấn
kỹ thuật và dịch vụ cho các doanh nghiệp (chương trình Tăng cường
kinh doanh Thái 2002); thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh
vực gia công để tạo cầu cho thị trường logistics quốc gia.
Đánh giá chung:chi phí logisticsở Thái Lan đã giảm nhưng vẫn còn
ở mức cao, hạ tầng giao thông vận tải chưa đồng bộ và chưa hiện
đại;hạn chế trong áp dụng công nghệ thông tin; nguồn nhân lực yếu;
quản lý Nhà nước còn phức tạp(đặc biệt về vấn đề thủ tục hải quan).
Theo đánh giá LPI của WB, gần đây, hiệu quả logistics của Thái Lan có
xu hướng suy giảm tương đối so với tốc độ phát triển chung của toàn
cầu:từ xếp hạng thứ 31 (2007) giảm xuống thứ 35 (2010) và tiếp tục
giảm xuống vị trí thứ 38(2012), thuộc nhóm trung bình khá.
2.4. Nguyên nhân của những thành công và hạn chế trong phát triển
logistics tại Singapore, Malaysia, Thái Lan
2.4.1.Trường hợp Singapore: những nhân tố tạo điều kiện thuận
lợi cho logistics phát triển: (i)lợi thế tự nhiên thuận lợi; (ii)điều kiện
kinh tế xã hội phát triển sớm và ổn định;(iii) coi trọng phát triển
logistics quốc gia từ rất sớm; (iv) Chính phủ vừa có định hướng, chiến
lược đúng đắn, phù hợp vừa trực tiếp tham gia hoặc giám sát rất sát
sao đảm bảo chiến lược phát triển logistics thực hiện hiệu quả: đầu tư
ở mức hiện đại và không ngừng cải thiện chất lượng hạ tầng cơ sở
(không dàn trải mà tập trung đầu tư mạnh cho cảng biển và sân bay, kho
bãi, công viên logistics), phát triển mạnh hệ thống liên kết mạng nội bộ
quốc gia, tạo dựng môi trường kinh tế và môi trường thể chế rất hấp
dẫn đầu tư nước ngoài, tăng tiết kiệm, thu hút vốn, nhân lực và đầu tư
vào logistics, thúc đẩy tăng trưởng cung và cầu logistics qua các chính
sách ưu đãi thuế, phát triển nguồn nhân lực, phát huy tối đa sức mạnh từ
15
khối doanh nghiệp tư nhân.
2.4.2.Trường hợp Malaysia:Nhân tố quan trọng nhất tạo điều
kiện thuận lợi cho logistics Malaysia phát triển là sự nhận thức kịp thời
và vai trò của Chính phủ Malaysia quyết tâm thực hiện phát triển
logistics bằng nhiều biện pháp (trực tiếp và gián tiếp), phát triển khá
đồng đều với tốc độ rất nhanh các yếu tố cấu thành hệ thống logistics
quốc gia. Tuy nhiên, do xuất phát điểm chậm hơn và diện tích lãnh thổ
khá lớnnên khó có thể thể đầu tư đồng bộở mức hiện đại hạ tầng cơ sở
vật chất và thông tin viễn thông.Malaysia không có những cảng nước
sâu lớn, nên phát triển logistics bị hạn chế, đặc biệt khó có thể cạnh
tranh trực tiếp với láng giềng Singapore.
2.4.3.Trường hợp Thái Lan: Sự phát triển kinh tế khá nhanh
trong những năm 19801990 đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển hệ
thống hạ tầng cơ sở giao thông nền tảng để logistics phát triển. Hơn
nữa, nhờ sự thay đổi nhận thức của Chính phủ (2001), tầm quan trọng
của Logistics ngày càng được đánh giá cao.Chính phủ đã có các kế
hoạch và chiến lược phát triển logistics một cách khá nghiêm túc,vì
thếlogistics Thái Lan đã có những bước phát triển đáng ghi nhận.Tuy
nhiên, trong những năm đầu thế kỷ XX, những quyết sách của Chính
phủ không thực sự kịp thời và thiếu đồng bộ, thiếu quan tâm đến đào
tạo nguồn nhân lực và hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, cộng với
những bất ổn chính trị xã hội đã kìm hãm sự phát triển logistics Thái
Lan.
16
CHƯƠNG 3 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC
ĐÔNG NAM Á VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM PHÁT TRIỂN LOGISTICS
Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng phát triển logistics ở Việt Nam
3.1.1. Hạ tầng cơ sở logistics của Việt Nam
Cả hạ tầng cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin ở Việt
Nam còn rất kém. Kết quả đánh giá về chất lượng hạ tầng năm 2012
của WB cho thấy, Việt Nam bị đánh giá kém hoặc rất kém trên mọi
phương diện, đặc biệt ở hạ tầng cơ sở đường sắt (84,6%), đường bộ
(69%), sân bay (53,8%), kho bãi trạm trung chuyển (53,8%), 25% đánh
giá cho rằngcác mức phí sử dụng hạ tầng cơ sở là cao hoặc rất cao .
Thêm vào đó, chất lượng dịch vụ hạ tầngđược đánh giá là không cao
(100% với đường biển, đường sắt, kho bãi, trạm trung chuyển, 85% với
đường bộ, 92% với đường hàng không).
3.1.2. Khung thể chế logistics
Các quy định về logistics không rõ ràng, kém chặt chẽ, nhiều điểm
chưa phù hợp với điều kiện kinh doanh logistics và còn nhiều điểm cần
sửa đổi, bổ sung. Tổ chức quản lý hoạt động logistics còn chồng chéo,
chưa phù hợp.Phần lớn đánh giá theo chỉ số LPI cho rằng, thủ tục hải
quan và thông quan Việt Nam chưa minh bạch (70%), chưa đồng bộ
(77%), hải quan chưa nhiệt tình hỗ trợ thương nhân (85%).
3.1.3. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics Việt Nam còn tồn tại
một số hạn chế: (i) qui mô phần lớn là rất nhỏ; (ii) phạm vi hoạt động
chủ yếu trong nội địa; (iii) hoạt động dừng lại ở việc làm thuê cho các
LSP nước ngoài một vài công đoạn; (iv) nguồn nhân lực vừa thiếu về số
lượng, vừa yếu về chất lượng; (v) hạ tầng thông tin logistics còn yếu
kém; (vi) hoạt động rời rạc, thiếu hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thậm chí
17
cạnh tranh không lành mạnh với nhau.
3.1.4. Người sử dụng dịch vụ logistics Thương nhân và nhà sản
xuất
Lượng “cầu” về dịch vụ logistics ở Việt Nam rất thấp, nguyên
nhân do: trình độ phát triển của nền kinh tế và trình độ phân công lao
động chưa cao, thói quen tự đảm nhiệm các hoạt động logistics, sự lo
lắng không giảm được chi phí và lo lắng về chất lượng dịch vụ của các
nhà cung cấp. Thêm nữa, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam
thường có thói quen “bán FOB, mua CIF”.
3.1.5. Đánh giá chung
Chỉ số LPI của Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình, đạt
3điểm (thang điểm 5) và đứng thứ 53 thế giới sau cả ba nước: Thái Lan
(đứng thứ 38), Malaysia (đứng thứ 29) và Singapore (đứng thứ nhất)
năm 2012.
Bảng 1: So sánh chỉ số LPI của Việt Nam và một số nước, năm
2012.
Quốc gia
Xếp
hạng
Chỉ số
LPI
Hải
quan
Việt Nam
Singapore
Thái Lan
Malaysia
53
1
38
29
3.00
4.13
3.18
3.49
2.65
4.1
2.96
3.28
Hạ tầng
Vận
Năng lực
cơ sở chuyển nhà cung
hh
cấp dv
quốc tế
2.68
3.14
2.68
4.15
3.99
4.07
3.08
3.21
2.98
3.43
3.4
3.45
Truy
xuất
đơn
hàng
3.16
4.07
3.18
3.54
Đúng
hạn
giao
hàng
3.64
4.39
3.63
3.86
Nguồn: Tổng hợp từ LPI Report,World Bank, 2012
Có thể nói, Việt Nam có trình độ phát triển logistics còn khá thấp
và lệch lạc.Các chỉ số bị đánh giá thấp nhất trong hiệu quả logistics của
Việt Nam là ở lĩnh vực năng lực, thủ tục hải quan, hạ tầng cơ sở và
năng lực nhà cung cấp dịch vụ (dưới mức trung bình).
Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém:
Thứ nhất, nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của logistics đối
với sự phát triển doanh nghiệp và sự phát triển chung của nền kinh tế
18
còn hạn chế.
Thứ hai, hạ tầng cơ sở vật chất logistics yếu kém, không đồng bộ,
bất hợp lý, hệ thống kho bãi, cảng nội địa còn thiếu, bố trí chưa hợp lý,
chi phí cao.
Thứ ba, hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và thương mại điện tử
chưa phát triển đồng bộ và chất lượng dịch vụ còn yếu kém.
Thứ tư, khung thể chếchưa tạo môi trường thuận lợi cho kinh
doanh tự do nói chung và phát triển logistics nói riêng. Chưa có những
chính sách hỗ trợ phát triển logistics và chiến lược phát triển đồng bộ,
toàn diện, dài hạn.Chính sách quản lý liên quan đến nghiệp vụ hải quan
và thông quan không tạo thuận lợi cho thương mại và logistics. Chưa có
Ủy ban chuyên trách điều hành xây dựng, phát triển logistics với vai trò
nhạc trưởng như ở Singapore, Malaysia và Thái Lan.
Thứ năm, chưa có đội ngũ nhân lực logistics có trình độ nghiệp vụ
cao.
Thứ sáu, tập quán tự tổ chức riêng cho mình trang thiết bị vận tải,
kho bãi, nhân lực khai thác, vận tải bốc xếp,... và “mua CIF, bán FOB”
đã làm hẹp thị trường cầu logistics Việt Nam, kìm hãm sự phát triển
ngành dịch vụ logistics.
3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam từ kinh nghiệm phát triển logistics
của Singapore, Malaysia và Thái Lan
3.2.1. Cần nhận thức đúng về vai trò của logistics trong phát triển
kinh tế
19
Chỉ khi nhận thức được tầm quan trọng của logistics thì Chính phủ
mới có những định hướng phát triển đúng đắn.Kinh nghiệm phát triển
logistics ở 3 quốc gia trên cho thấy, càng quan tâm phát triển logistics
sớm thì càng gia tăng năng lực cạnh tranh và đạt được mục tiêu của phát
triển bền vững.
3.2.2. Xây dựng và phát triển hạ tầng cơ sở vật chất đồng bộ, tạo
điều kiện dễ dàng kết nối giữa các hình thức vận tải
Việc xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất đòi hỏi nguồn vốn đầu tư
lớn, thời gian dài, vì thế cần linh hoạt trong việc huy động, kết hợp các
nguồn lực quốc gia, trong đó khuyến khích sự tham gia của khối kinh tế
tư nhân. Các nguồn lực từ nhóm kinh tế tư nhân được Chính phủ định
hướng vào các hoạt động bổ trợ cho logistics như xây dựng hệ thống
kho bãi, mua sắm trang bị các hệ thống bốc xếp hiện đại, các dây
chuyền đóng gói tiên tiến, mua sắm các phương tiện vận tải có năng lực
lớn…
3.2.3. Phát triển hạ tầng cơ sở vật chất phải đi đôi với phát triển
hạ tầng công nghệ thông tin
Trong logistics hiện đại, hạ tầng mềm đang ngày càng thể hiện vai
trò quyết định tới năng lực logistics quốc gia và cần được xem như một
trong nhưng ưu tiên hàng đầu khi phát triển logistics.Đầu tư cho hạ tầng
công nghệ thông tin phải rất đồng bộ, đầu tư hiện đại ngay từ đầu đi
kèm với giáo dục nâng cao năng lực ứng dụng.
3.2.4.
Xây dựng khung thể chế thuận lợi cho logistics
Nếu như hạ tầng cơ sở quyết định tốc độ phát triển của logistics
thì khung thể chế là yếu tố quyết định qui mô và khả năng phát triển lâu
dài của logistics. Cần phải thiết lập môi trường chính trị, kinh tế, xã hội
ổn định; ban hành và thực thi những chính sách tạo điều kiện thuận lợi
cho logistics phát triển, đặc biệt các chính sách về hải quan, thông quan
và ưu đãi trực tiếp khi đầu tư vào lĩnh vực logistics.
20
3.2.5. Phát triển logistics quốc gia thông qua phát triển thị trường
dịch vụ logistics, phát triển nguồn cung và cầu logistics trong nền
kinh tế
Bên cạnh chính sách ưu đãi đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài
vào lĩnh vực logistics, cả 3 quốc gia còn rất coi trọng việc tuyên truyền
giáo dục và nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp sản xuất về vai
trò của logistics. Theo nguyên tắc phát triển chung của thị trường, nguồn
cung và cầu thị trường gia tăng sẽ khiến hoạt động logistics có cơ hội
để phát triển mạnh mẽ, hiệu quả logistics ngày càng cao.
3.2.6. Lựa chọn phương hướng và lộ trình phát triển dựa trên điều
kiện và năng lực kinh tế quốc gia
Định hướng phát triển logistics cần cân đối với tiềm lực kinh tế
quốc gia và vị thế quốc gia trong hệ thống logistics khu vực và thế giới.
3.2.7. Có kế hoạch đầu tư phát triển theo từng giai đoạn phù hợp
có tính đến sự phát triển dài hạn
Phát triển logistics phải dựa trên kế hoạch đầu tư theo từng giai
đoạn nhưng cần đảm bảo khả năng phát triển dài hạn, đặc biệt là khả
năng kết nối các kênh hạ tầng trong tương lai.
3.2.8.
Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển
logistics
Ngành dịch vụ logistics có đặc trưng là đòi hỏi nguồn nhân lực có
trình độ cao, nếu có chủ trương và sự hỗ trợ thích hợp từ Chính phủ sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngành logistics.
3.2.9. Chính phủ cần nắm vai trò chủ đạo trong việc phát triển
logistics quốc gia
Chính phủ có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển logistics
quốc gia. Chính phủ là người duy nhất có đủ năng lực, quyền hạn và
21
điều kiện để thực hiện các nhiệm vụ (i) xây dựng hệ thống hạ tầng cơ
sở, (ii) tạo dựng thể chế chính sách thuận lợi cho phát triển logistics và
(iii) duy trì sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội.
3.3. Định hướng phát triển logistics ở Việt Nam
Thứ nhất, cần phát triển logistics theo hướng liên kết và tham gia
vào mạng lưới logistics khu vực; Thứ hai, tính đến giải pháp đầu tư theo
hướng cải tạo, nâng cấp hơn là xây mới;Thứ ba, phát triển hạ tầng
đường bộ, đường sắt theo mô xương cá với một tuyến trục chính kết
hợp với các nhánh ngang,phát triển cụm vận tải biển theo hướng là
điểm dừng và san hàng cho các tàu lớn, chỉ phát triển ở quy mô vừa đủ
để làm trung tâm phân phối cho các nhóm tàu vừa và nhỏ, phát triển các
hệ thống bổ trợ: cảng cạn, trạm trung chuyển, điểm kết nối để gia tăng
năng lực hệ thống hạ tầng. Thứ tư, phải hiện đại hóa logistics trên nền
tảng phát triển công nghệ thông tin và nguồn nhân lực chất lượng
cao.Thứ năm, tạo dựng môi trường để logistics phát triển.Thứ sáu,
Chính phủ không chỉ làm các nhiệm vụ có tính định hướng, thúc đẩy mà
phải trực tiếp tham gia vào việc triển khai các kế hoạch phát triển
logistics.
3.4. Một số đề xuất nhằm phát triển logistics ở Việt Nam
3.4.1. Nhóm đề xuất liên quan đến phát huy vai trò của Chính phủ
3.4.1.1. Đổi mới tư duy của Chính phủ và các nhóm đối tượng tham
gia hoạt động logistics, tăng cường vai trò của Chính phủ
Chính phủ Việt Nam cần xác định logistics là một lĩnh vực ưu tiên
bởi nó là một trong những công cụ để phát triển kinh tế quốc gia và có
lộ trình thực hiện.Chính phủ cần chủ động và trực tiếp tham gia vào quá
trình kiến tạo những yếu tố cấu thành hệ thống logistics quốc gia, chứ
không chỉ dừng ở nhận thức. Việc nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp
có thể thực hiện thông qua Chương trình hỗ trợ kỹ thuật, các khóa đào
tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp (như Thái Lan, Malaysia), qua các diễn
đàn hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng với sự hỗ trợ từ
22