Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Đề cương Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp: So sánh giống và xác định phân bón lá thích hợp cho sản xuất bắp cải trái vụ tại Phong Thổ - Lai Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.6 KB, 45 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA NÔNG HỌC
­­ššš­­

ĐỀ CƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP
Đề tài: 
“So sánh giống và xác định phân bón lá thích hợp cho sản xuất bắp cải  
trái vụ tại Phong Thổ ­ Lai Châu”

Chuyên ngành đào tạo: Khoa học cây trồng
Mã Số : 24100589                          
Người thực hiện: Trần Đức Phúc – Khóa 24
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thanh Hải


Hà Nội ­ 2016
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Phong Thổ  là huyện vùng cao biên giới nằm  ở  phía Bắc của tỉnh Lai 
Châu có tổng diện tích đất tự  nhiên là 103.460,54 ha, dân số  75.615 người, 
tổng số lao động 41.138 lao động, trong đó diện tích đất trồng rau 806 ha, sản 
lượng đạt 6.980 tấn (Chi cục thống kê huyện Phong Thổ, số  liệu thống kê 
năm 2015). Với địa hình chia cắt thành hai khu vực vùng thấp và vùng cao rõ  
rệt. Tại các xã vùng cao có điều kiện khí hậu mát mẻ quanh năm, đây là điều 
kiện thuận lợi cho việc trồng các loại rau quả, đặc biệt là các loại rau quả ôn 
đới, á nhiệt đới. Tuy nhiên hiện nay người dân mới chỉ  trồng rau chủ  yếu 
phục vụ cho nhu cầu của gia đình với năng suất và sản lượng thấp, chưa có 
sản phẩm để bán, đặc biệt là tại các xã vùng cao chưa phát huy được lợi thế 
về đất đai, khí hậu để trồng các loại rau bắp cải, súp lơ, su hào, cà chua, đậu 
Hà Lan... đây là các loại rau có giá trị kinh tế cao, được thị trường ưa chuộng.


Cây bắp cải (Bassica oleracea L. Var. Capitata) thuộc họ  thập tự, thích 
hợp với các vùng có điều kiện nhiệt độ trung bình 15­20oC, chênh lệch nhiệt 
độ ngày và đêm dao động 5oC độ cao trên 800m (đạt năng suất và chất lượng 
tốt nhất), nhiệt độ  trên 25oC bắp cải vẫn sinh trưởng nhưng khả năng cuộn 
bắp hạn chế  (Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, 2008). Cùng với sự  phát 
triển của tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, trong những năm qua, 
nhiều   giống   bắp   cải   tốt   như:   KK.   Cross,   NS.   Cross,   Thúy   Phong,   Sakata 
No70...có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất và chất lượng tốt, phù hợp 
với thị hiếu người tiêu dùng.
Với vị  trí địa lý và điều kiện tự  nhiên thích hợp cho cây bắp cải sinh 
trưởng phát triển, năng suất và phẩm chất tốt. Tuy nhiên, hiện nay người dân 
chủ  yếu trồng giống bắp cải Trung Quốc không rõ nguồn gốc và cây con  
giống mua ở chợ về trồng, việc này dẫn đến nhiều rủi ro cho người dân như 
2


chất lượng cây giống không tốt, chưa đánh giá, xác định được giống có hiệu 
quả kinh tế cao đối với người trồng rau.
Hiện nay trên địa bàn huyện Phong Thổ người dân mới chỉ trồng bắp cải 
chính vụ (tháng 11­2 năm sau),vụ này có giá trị kinh tế không cao, do bắp cải 
được vận chuyển từ dưới các tỉnh đồng bằng lên nhiều, do đó giá rẻ. Ngược 
lại, nếu tận dụng được lợi thế  của vùng về  khí hậu với nền nhiệt độ  thấp,  
để trồng bắp cải trái vụ sẽ tăng thêm thu nhập cho người dân do vụ này các  
tỉnh đồng bằng có nền nhiệt độ cao hơn nên không trồng được. Tuy nhiên để 
trồng được bắp cải trái vụ có hiệu quả kinh tế cao, cần chọn được giống bắp 
cải phù hợp (chịu nhiệt, cuốn chặt, chất lượng cao...).
Mặt khác người dân  địa phương  mới quan tâm tới phân bón đa lượng, 
phân vi lượng ít hay không quan tâm. Để giúp cây bắp cải sinh trưởng và phát 
triển tốt nhằm tăng năng suất chất lượng ngoài giống chịu nhiệt có thể  cải 
thiện bằng sử  dụng phân bón lá. Tuy nhiên để  tăng hiệu quả  của việc dùng 

phân bón lá trên cây bắp cải cần lựa chọn được loại phân bón lá phù hợp.
Để  đánh giá và lựa chọn được một số  giống bắp cải tốt, đồng thời xác 
định được loại phân bón lá phù hợp cho người trồng rau trên địa bàn huyện  
Phong Thổ, tỉnh Lai Châu thì việc thực hiện đề  tài: “So sánh  giống và xác  
định phân bón lá thích hợp cho sản xuất bắp cải trái vụ  tại Phong Thổ  ­  
Lai Châu” là cần thiết trong thực tiễn sản xuất nông nghiệp tại địa phương. 
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
­ Xác định được 1­2 giống bắp cải phù hợp  cho trồng trái vụ  tại huyện 
Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
­ Xác định được loại phân bón lá phù hợp trên cây bắp cải khi trồng trái  
vụ tại huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
1.2.2. Yêu cầu
­ Theo dõi đặc điểm nông sinh học của 05 giống bắp cải  như  thời gian 
sinh trưởng, số  lá, sự  hình thành bắp cải, năng suất... để  so sánh tiềm năng 
năng suất và hiệu quả gieo trồng tại Phong Thổ ­ Lai Châu trong vụ thu đông 
và xuân hè.

3


­   Đánh giá hiệu quả  của 03 loại phân bón lá đối với khả  năng sinh  
trưởng và phát triển của cây bắp cải.

PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
2.1.Giới thiệu về cây rau bắp cải
2.1.1 Nguồn gốc:
Bắp cải có nguồn gốc từ  Địa Trung Hải từ  thời Hy Lạp và La Mã cổ 
đại. Bắp cải được phát triển từ  lựa chọn nhân tạo diễn ra liên tục để  ngăn  
chặn chiều dài các giống. Một số  nghiên cứu đã mô tả  bắp cải hoang dại là 

bố  mẹ  của bắp cải đang được trồng hiện nay. Nó là cây lâu năm, thân phân 
nhánh, các lá dưới có cuống, các lá trên không có cuống, không hình thành 
bắp.
Bắp cải được giới thiệu ở Việt Nam từ thế kỷ XVIII. Nó có thể được di  
thực từ  Trung Quốc và được phổ  biến rộng rãi  ở  Việt Nam. Bắp cải được 
trồng trong vụ  đông Xuân  ở  các tỉnh phía Bắc,  miền Trung và Tây Nguyên. 
Bắp cải có nguồn gốc ôn đới, nhiệt độ xuân hóa là 1­ 10°C trong khoảng 15­  
30 ngày tùy thời  gian sinh trưởng của giống. Do đặc điểm như vậy nên sản 
xuất hạt bắp cải  ở Việt Nam là rất khó khăn. Trừ những giống chịu nhiệt có 
thể để giống trên các vùng núi cao như Sapa, Sin  Hồ....
2.1.2. Phân loại: Bắp cải được có hệ thống phân loại thực vật như sau:
Giới (regnum): Plantae
Ngành ( diviso): Magnoliophyta 
Lớp (class): Magnoliopsida 
Bộ (ordo): Brassicales 
Họ (familia): Brassicaceae 
Chi (genus): Brassica
Loài (species): B.oleracea
Nhóm (group): Capitata
Bắp cải (Brassica oleracea var. Capitata L.; n=9). Bắp cải có 3 loại:
4


Bắp cải trắng: Loại này rất có giá trị   ở  Châu Âu và các nước Châu Á,  
được dùng trong sản xuất với diện tích lớn, loại này thường có thời gian sinh 
trưởng ngắn, cuốn bắp sớm, chất lượng  ngon.
Bắp cải đỏ: loại này mới được trồng  ở Việt Nam,  ở các nước nó được 
dùng để làm xalat, thời gian sinh trưởng  dài.
Ngoài ra còn loại bắp cải dùng cho chế biến: thích hợp với các vùng núi 
cao, tuy nhiên ở Việt nam chưa được chú trọng trồng loại giống  này.

Bắp cải xoăn: Loại này chưa được trồng  ở  Việt Nam. Lá của loại này 
thường xoăn, xốp và nổi gờ. (Trần Khắc Thi, Nguyễn Văn Thắng (2001))
2.1.3 Giá trị kinh tế và giá trị sử dụng của cây rau bắp cải
Người xưa có câu : “Cơm không rau như  đau không thuốc”. Câu nói đó 
cho thấy rau là loại thực phẩm không thể  thiếu trong bữa ăn hàng ngày của 
con người, đặc biệt là đối với người Châu Á và người Việt Nam.
* Thành phần dinh dưỡng
Bảng 2.1: Thành phần dinh dưỡng trong 100g bắp cải ăn được
Thành phần

Đơn vị

Giá trị

Tỷ lệ thải bỏ

%

10,0

Năng lượng

Kcal

29,0

Nước

G


90,0

Protein

G

1,8

Lipid

G

­

Glucid

G

5,4

Cellulose

G

1,6

Tro

G


1,2

Calci

Mg

48

Phosphor

Mg

31

Sắt

Mg

1,1

Beta­caroten

Mcg

280

B1

Mg


0,06

B2

Mg

0,05

PP

Mg

0,4

5


C

Mg

30

     Nguồn: Viện dinh dưỡng năm 2000
Các chất dinh dưỡng nói trên rất cần cho cơ  thể con người. Muốn tăng 
được hàm lượng các chất trên cần có sự  tác động của con người như  chọn 
tạo giống và kỹ thuật trồng trọt tốt.
* Giá trị kinh tế và sử dụng:
Bắp cải được coi là vị  thuốc của người nghèo, nó đã được dùng để  trị 
bệnh thiếu chất tươi, chậm tiêu, táo bón, loét dạ  dày và các bệnh ngoài da 

như mụn nhọt, ngay cả bệnh giời leo  (zonna).
Tác dụng trị  bệnh đau dạ  dày của bắp cải đã được khoa học hiện đại  
nghiên cứu và xác nhận. Các cuộc khảo sát cho thấy kết quả trị loét dạ dày ­ 
tá tràng bằng nước ép bắp cải là hơn một nửa số  ca khỏi bệnh sau 3 tuần  
điều trị.
Hoạt chất trị  lành vết loét dạ  dày là sinh tố  U,  một  hợp chất có lưu 
huỳnh,   methylmethiomin   sulfomium.   Chất   này   được   đưa   vào   công   nghiệp 
trong những năm thế kỷ XX, dưới tên đặc chế  Epadyn U. Ngày nay người ta 
đã tổng hợp được chất này mà không cần chiết xuất từ bắp cải nữa. đối với 
người Việt Nam chúng ta, bắp cải tươi có sẵn quanh năm nên việc ép nước  
không khó khăn, có thể tự làm lấy dễ  dàng.
Một vài thử nghiệm khác cho thấy, bắp cải làm giảm quá trình đồng hóa 
glucid và làm giảm lượng đường huyết. Ngoài ra bắp cải có ít chất đường  
nên có thể dùng cho người bị bệnh đái tháo  đường.
Bắp cải có khả năng sinh nhiệt thấp, lại có axit tartronic, một chất  dùng 
để trị bệnh béo phì.
Người xưa thường lấy lá bắp cải, bỏ  xương lá và làm dập nát rồi đắp  
vào mụn nhọt, vết thương. Nhờ  vậy vết thương không làm độc và hết  mủ. 
Người ta cũng dùng lá giã nát để đắp lên vết giời  leo.
Theo giáo sư  Paul Talaluy ( trường đại học Hopkin­ Mỹ) thì trong cơ 
thể có 2 loại enzim. Loại thứ nhất có tính kích thích tế  bào cảm ứng với tác 
nhân gây ung thư. Loại thứ  2  ức chế  tác nhân gây ung thư  làm cho chúng  
không còn độc tính. Trong cơ  thể  khỏe mạnh có sự  quân bình giữa hai loại 

6


enzim này. Ông cũng tìm thấy chất sulfographan trong một số  cây thuộc họ 
cải (cruciferal): bắp cải, su hào, xà lách, cải xông. Sulfographan ngăn cản phát 
triển khối u bằng cách hoạt hóa các enzim loại thứ 2. Người bệnh ung bướu  

nên dùng bắp cải. (Sơn, Hô, Thanh, Thái, Bui Thi and Moustier, Paul (2003)).
Tại Trung Quốc, bệnh ung thư vú rất hiếm thấy ở những vùng dân cư 
ăn nhiều rau cải. Trong phòng thí nghiệm, những con vật ăn nhiều rau cải bị 
cố tình gây ung thư vẫn khỏe mạnh và không mắc bệnh.
2.1.4. Sinh trưởng và phát triển cây rau bắp cải

Về sinh trưởng và phát triển của bắp cải có thể chia làm 4 thời  kỳ:
*Thời kỳ cây con:
Cây con bắp cải nằm trọn trong thời gian  ở  vườn  ươm. Thời gian  ở 
vườn  ươm tốt nhất nên chiếm khoảng 1/3 tổng thời gian sinh trưởng, không 
nên kéo dài hơn. Cây giống già làm ảnh hưởng đến năng suất từ 15­ 20%. Sau 
khi gieo được 25­ 30 ngày ở vụ chính hầu hết các cây giống đều đạt từ  5­ 6 
lá, một vài giống đạt 8­ 9 lá. Vào mùa sớm, nhiệt độ cao, cây sinh trưởng  khó 
khăn nên thời gian vườn  ươm từ 35­ 40 ngày. Khối lượng cây con ở  thời  kỳ 
này chiếm 1/100­ 1/300 cây trưởng thành. Sau khi gieo 3­ 4 ngày, hầu hết các 
giống đều mọc khỏi mặt đất. Sau khi gieo 7­ 10 ngày có lá thật thứ nhất, sau 
khi gieo 15 ngày, hầu hết các giống có tốc độ ra lá lớn nhất, sự khác nhau phụ 
thuộc chủ yếu vào giống từ 0,38­ 0,68  lá/ngày.
*Thời kỳ trải lá (trải lá bàng):
Sau khi trồng được 30­ 35 ngày, các giống đều trải lá; thời kỳ  này vô  
cùng quan trọng đối với đời sống cây bắp cải. Khi cây trải lá, số  lá trên cây 
tăng  lên  không  ngừng,  diện  tích  ngoài  tán  lá  cây không  ngừng  tăng  trưởng.
Đây là thời kỳ tạo cơ sở vật chất cho bắp cuốn. Thời kỳ tr ải lá, lá rộng, 
song song với mặt  đất. Tốc độ  tăng diện tích lá nhanh nhất là sau khi trồng  
được   55­ 60 ngày. đây là thời điểm quan trọng trong kỹ thuật trồng trọt, cần  
chú ý  tới độ ẩm và chất dinh  dưỡng.
Những cây có đường kính tán to, đều,  đường kính tán cây trung bình đạt  
từ 50­ 70 cm là những giống tốt. Thời gian trải lá từ 10­ 15 ngày, trong thời kỳ 
này cây tiếp tục trải lá đồng thời với cuốn  bắp.


7


*Thời kỳ cuốn:
Khi đường kinh tán cây và số lá ngoài đạt đến trị số  cực đại thì cây bắt  
đầu cuốn. Thời kỳ  này quyết định năng suất cao hay thấp, nên người sản 
xuất đặc biệt quan tâm và tăng cường chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh hại. Khi 
cuốn, lá ở đỉnh sinh trưởng cuộn vào phía trong, tạo thành khuôn bắp ban đầu,  
sau đó những đỉnh lá phía trong tiếp tục hình thành và lớn lên làm cho  bắp lớn 
dần cho đến khi đạt tới tốc độ  lớn của giống. Sau trồng 55­ 60 ngày, tốc độ 
ra lá, đường kính hoa thị không có sự  sai khác lớn giữa các giống, khi đó các  
giống chín sớm bắt đầu  cuốn.
Các giống trung bình và giống muộn tiếp tục sinh trưởng một thời gian 
cho tới khi đường kính hoa thị đạt cực đại thì cuốn bắp. Sau thời điểm cuốn 
bắp từ  10­ 15 ngày, nếu gặp điều kiện thuận lợi thì khối lượng bắp có thể 
tăng 50­ 70% so với khối lượng vốn có của  giống.
Khi chín thương phẩm hình dạng bắp, kích cỡ bắp, khối lượng bắp khác 
nhau chủ yếu do giống và kỹ thuật trồng trọt.
*Thời kỳ ra hoa kết quả:
Bắp cải là cây 2 năm nên khi gặp điều kiện thuận lợi về nhiệt độ và ánh 
sáng, cây qua giai đoạn xuân hóa và giai đoạn ánh sáng. Sau khi   cuốn bắp 
sang năm thứ hai, thân trong vươn cao làm nứt bắp (gọi là ngồng) thân chính 
tiếp tục vươn cao. Trên thân chính và các nhánh đều có hoa, hoa quả tập trung 
0
vào các tháng 3,4. Nhiệt độ  cho nụ  hoa phát triển tốt trong khoảng 20 C vào 
tháng 5 quả chín và kết thúc thời kỳ sống từ hạt đến hạt của cây cải  bắp.
2.1.5. Yêu cầu điều kiện sinh thái của cây bắp cải

*Nhiệt độ:


0
Nhiệt độ  thích hợp cho sự  hình thành bắp là 15­ 20 C, nhiệt độ  trên 
0
0
25 C và nhỏ  dười 10 C đều làm giảm sự  sinh trưởng của cây rau bắp cải, 
0
tuy nhiên bắp cải vẫn duy trì sinh trưởng thậm chí – 10 C với các giống chịu 
sương giá. Riêng các giống chịu nhiệt của Nhật Bản có thể sinh trưởng tốt và  
0
0
hình thành bắp thậm chí ở nhiệt độ ­ 4 C đến ­5 C. đặc biệt ở giai đoạn này 
bắp cải rất nhạy cảm với nhiệt độ, nếu trong thời gian sinh trưởng bắp cải 
0
gặp nhiệt độ thấp từ 2­ 12 C thì cây sẽ không hình thành bắp mà chuyển sang 

8


giai đoạn xuân hóa và ra hoa ngay khi cây còn  bé.
*Nước:
Bắp cải có bộ  lá lớn nên hệ  số  thoát hơi nước rất lớn. Kết quả  nghiên  
cứu cho biết sự  thoát hơi nước ban ngày lớn hơn ban đêm 16 lần và vào 
2
khoảng 10g nước/1h/1 đơn vị diện tích lá (m ). đặc biệt ở thời kỳ hình thành 
bắp cây yêu cầu 80­ 85% độ ẩm đồng ruộng. Trong giai đoạn này nếu không 
đảm bảo đủ   ẩm sẽ  dẫn đến hiện tượng bắp nhỏ  và nhiều xơ, giảm năng 
suất và chất lượng.
*Ánh sáng:
Bắp cải là cây ưa sáng, đặc biệt ở giai đoạn đầu sinh trưởng, cường độ 
ánh sáng khoảng 20.000­ 22.000 lux là thích hợp nhất cho bắp cải. Thời gian 

chiếu sáng từ 10­ 12 h/ngày đêm kết hợp với ánh sáng đủ sẽ làm cho cây sinh  
trưởng bình thường và cho năng suất cao. Tuy nhiên ngày nay nhờ  sự  phát 
triển của khoa học người ta đã chọn được các giống có thể cho thu hoạch cao  
thích hợp cho nhiều thời vụ trồng trong 1 năm. Ở Việt Nam với việc sử dụng  
các giống bắp cải lai của Nhật Bản đã có thể cho sản xuất bắp cải phục vụ 
cho thị trường từ tháng 10 đến tháng 4 năm  sau.
*Đất và chất dinh dưỡng:
Bắp cải có thể trồng trên tất cả  các loại đất nếu đảm bảo đủ  ẩm. Nên  
trồng bắp cải trên đất phù sa, tiêu nước tốt, màu mỡ và giữ  ẩm.
Các giống sớm thích hợp với đất nhẹ, còn các giống muộn thích đất nặng 
hơn và giàu dinh dưỡng, giữ ẩm tốt. Trên đất nặng sinh trưởng của bắp cải tuy 
có chậm hơn nhưng chất lượng sản phẩm đạt cao  hơn. độ  pH  đất thích hợp 
cho bắp cải là 6,0­ 6,5, hầu hết các giống bắp cải đều chịu được đất  mặn.
N: làm tăng nhanh số lá, quyết định năng suất thương phẩm, yêu cầu   N 
suốt trong quá trình sinh  trưởng.
P: có tác dụng làm bắp cuốn sớm hơn, thời kỳ cuốn bắp tăng cường bốn 
phân lân, lân làm tăng khối lượng  bắp.
K: là yếu tố cần thiết sau N, tăng hiệu suất quang hợp và tích lũy chất khô.
2.1.6. Thời vụ trồng bắp cải:
* Đông Xuân:

9


Gieo sớm: Vào tháng 10 – 11 dương lịch thu hoạch vào tháng 1. Bắp cải  
trồng chủ  yếu  trên đất có cơ  cấu nhẹ, thoát nước tốt và không bị  ngập bị 
ngập úng. Canh tác vụ  này đỡ công tưới nước, ít sâu, giá bán cao nhưng năng 
suất thấp.
Gieo chính vụ: Vào tháng 11 ­ 12 và thu hoạch vào tháng 2 dương lịch 
(Tết Nguyên đán). đầu vụ còn mưa cần làm giàn che cây con và đánh  luống 

thoát nước tránh ngập úng. Cây sinh trưởng trong điều kiện nhiệt độ  tương  
đối thấp trong năm nên phát triển thuận lợi, năng suất cao, ít sâu  bệnh.
Gieo muộn: Vào tháng 12 ­ 1, trồng tháng 1­ 2 và thu hoạch vào tháng 3 ­ 
4 dương lịch, vì trời không mưa nhiệt độ  cao lượng nước cung cấp cho bắp 
cải rất lớn, sâu bệnh phát triển nhiều nhất là sâu  tơ.
* Hè Thu: Vụ hè Thu gieo tháng 4 ­ 5 thu hoạch vào tháng 7 dương lịch,  
vụ này có mưa nhiều nên giảm được công tưới nước, nhưng sâu bệnh nhiều, 
nhất là bệnh thối nhũn
2.1.7. Các giống trồng phổ  biến:

Sử  dụng các giống có năng suất cao, chất lượng tốt, thích hợp với sản  
xuất và tiêu thụ.
K.K.cross: Là giống lai F1của Nhật được trồng phổ  biến  ở  vùng đồng  
bằng các tỉnh phía Nam từ lâu đời, thời gian thu hoạch 75 ­ 85 ngày, năng suất  
bình quân 30 – 40  tấn/ha.
Newtop: Là giống lai F1, thời gian từ trồng đến thu hoạch 75 ­ 85 ngày, 
năng suất bình quân 30 ­ 40  tấn/ha.
Asia   cross:   Giống   lai   F1   nhập   nội,   giống   này   thu   hoạch   chậm   hơn 
K.K.cross 3 ­5 ngày, nhưng năng suất khá  hơn.
2.1.8. Kỹ thuật trồng và chăm sóc

* Chuẩn bị cây con:
Lượng hạt giống cần thiết để cung cấp đầy đủ  cho 500  m2 đất trồng là 
25g. Gieo hạt trong bầu đất hay gieo trên liếp ươm có khả  năng tiết kiệm ½  
lượng hạt giống.
Chú ý : Xử lý cây con trong vườn ươm.
* Chuẩn bị đất:

10



Trồng đất nhiều sét cần lên liếp cao 20 ­ 40 cm, rộng 60 ­ 80 cm nếu  
trồng hàng đơn và 1 ­ 2 m nếu trồng hàng kép, khoảng cách cây trên hàng 50 ­  
60 cm. Tuỳ giống, mùa vụ và độ phì nhiêu của đất mà bố trí mật độ trồng từ 
850 ­ 1.250 cây/ha (17.000 ­ 25.000 cây/ ha) cho thích  hợp.
* Bón phân:
Bảng 2. Lượng phân bón cho 500m2 đất
Lượng phân bón (Kg/500 m2)

Ngày sau khi 

Cách 

gieo

bón

0 (Bón lót)

Rãi

Dặm lần 2

Tưới

25

Rãi

7,5


1

35

Tưới

7,5

1,5

5

45

Tưới

10

2,5

5

25

5

15

Tổng




NPK 

K

i

16­6­8

Cl

Ure

25

Supper 

Phân 

lân

chuồng

15

1.000

15


1.000

5

25

*Chăm sóc:
Tưới tiêu nước: Vụ  đông Xuân và vụ  Xuân Hè nếu tưới thùng có thể 
tưới 2 ­3 lần trong ngày, tưới phun máy mỗi ngày 1 lần. Nếu tưới thấm, nước  
được dẫn từ  sông vào rãnh giữa các liếp Cải giúp tưới thấm một phần. Khi 
cải còn nhỏ rễ ăn nông nên tát lên liếp để  tưới.
Làm cỏ, xới gốc: Trong thời gian canh tác nên làm cỏ 2 lần, thường làm 
cỏ kết hợp với bón phân thúc, xới gốc phá váng và đánh bỏ lá già để chân cải 
được thoáng, sâu bệnh không ẩn  nấp.
* Phòng trừ sâu bệnh:
A. Sâu hại
+ Sâu tơ (Plutella xylostella)
­ Đặc điểm hình thái:
Trưởng thành là loài bướm nhỏ, cánh trước màu xám nhạt, có nhiều đốm 
nhỏ  màu trắng và đen xen kẽ, mép trên trắng và có 3 đường lượn sóng màu 
nâu đậm, phía ngoài có những lông tơ dài.
Trứng rất nhỏ, màu vàng, hình bầu dục, đẻ ở mặt dưới lá.

11


Sâu non: màu xanh vàng nhạt, thân thon, có nhiều lông ngắn màu đen, rải 
rác có những đốm nhỏ  màu đen. Nhộng: kén trắng thưa, nhộng thon, có màu 
xanh chuyển sang vàng, sắp nở có màu nâu

­ Tập quán sinh sống và gây hại:
Bướm hoạt động mạnh về đêm, mạnh nhất là từ chập tối đến nửa đêm.  
Bướm đẻ trứng rải rác hoặc từng cụm hay theo dây dọc ở mặt dưới lá, trung 
bình mỗi con cái đẻ từ 100­150 trứng. Sâu non ăn toàn bộ biểu bì lá làm cho lá 
bị  thủng lỗ  chỗ. Nếu bị  hại nặng sẽ  làm giảm năng suất và chất lượng rau. 
Vòng đời trung bình 21­27 ngày.
- Biện pháp phòng trừ:
Muốn phòng trừ sâu tơ hiệu quả, cần áp dụng kết hợp nhiều biện pháp 
một cách hài hoà và hợp lý trong quy trình quản lý dịch hại tổng hợp. Sau đây 
là một số biện pháp chính:
Sau khi thu hoạch phải dọn sạch tàn dư  của cây, đưa ra khỏi ruộng tiêu 
hủy hoặc ủ làm phân bón để tiêu diệt trứng, sâu non...
Nên trồng xen thêm một số  loại rau có mùi khó chịu như  cà chua, hành, 
tỏi... để xua đuổi con trưởng thành đến đẻ trứng.
Nên tưới rau bằng vòi phun mưa vào buổi chiều mát để  ngăn cản việc 
giao phối của con trưởng thành và rửa trôi bớt trứng, sâu non.
Sau một vài vụ  trồng các loại rau cải nên luân canh vài loại rau màu 
khác. Trước khi bứng cây ra trồng nên phun một đợt thuốc trên vườn  ươm 
hoặc nhúng cây con vào dung dịch thuốc trừ sâu để tiêu diệt sâu, nhộng, trứng  
đang tồn tại trên cây giống.
Thường xuyên kiểm tra ruộng, khi thấy mật số sâu tơ  tăng nhanh phải 
phun thuốc diệt trừ kịp thời.
Sâu tơ  có khả  năng kháng thuốc rất nhanh, vì thế  để  giảm bớt áp lực 
kháng thuốc của sâu, bà con phải sử  dụng luân phiên nhiều loại thuốc như:  
Sec Saigon 5ME hoặc 10ME, Sherzol 205EC, Sapen­Alpha 5EW...  Để  hạn  
chế  tính kháng thuốc, có thể  sử  dụng những chế  phẩm sinh học như: Biocin  
16WP hoặc 8000SC, Olong 55WP, Bacterin BT­WP, Xentari 35WDG...
+ Sâu khoang (Spodoptera sp.)

12



- Đặc điểm hình thái:
Trưởng   thành   là   loài   bướm   có   thân   dài   17­20mm,   sải   cánh   rộng   40­
45mm. Toàn thân màu nâu vàng, trên cánh trước có nhiều đường vân màu 
sẫm, xung quanh viền vàng. Mép ngoài cánh có hàng chấm màu nâu đen. Cánh 
sau màu trắng xám, có ánh phản quang màu tím.
Trứng hình bán cầu, có nhiều đường khía ngang dọc. Trứng đẻ  thành  ổ 
lớn ở mặt sau lá, bên ngoài phủ lớp lông màu nâu vàng. Sâu non màu xám tro 
hoặc nâu đen, vạch lưng màu vàng,  ở  đốt bụng thứ  nhất có một khoang đen 
lớn rất rõ. Nhộng mầu nâu đỏ, cuối bụng có 1 đôi gai ngắn.
-

Tập quán sinh sống và gây hại:

Bướm hoạt động ban đêm, thích các chất có mùi chua ngọt, đẻ  trứng 
thành ổ bám mặt dưới lá. Một bướm cái có thể đẻ hàng ngàn trứng.
Sâu non sau khi nở sống tập trung quanh chỗ ổ trứng, gặm lấm tấm ch ất  
xanh của lá. Sâu lớn tuổi phân tán, ăn khuyết lá. Sâu non phá hại mạnh vào 
ban đêm. Hoá nhộng trong đất. Vòng đời trung bình 35­40 ngày.
- Biện pháp phòng trừ:
Vệ  sinh đồng ruộng, làm đất kỹ  trước khi trồng. Dùng bả  chua ngọt để 
bắt bướm, ngắt bỏ  ổ  trứng, diệt sâu non mới nở. Có thể  sử  dụng một trong 
các loại thuốc sau để phòng trừ.
Abamectin (Reasgant 1.8EC, Shertin 3.6EC, Plutel 0.9 EC)
Bacillus thuringiensis (Map ­ Biti WP 50000 IU/mg)
Emamectin benzoate (Angun 5 WG, Emaben 0.2 EC, Tasieu 1.0EC)
Deltamethrin (Decis 25 tab)
Etofenprox (Trebon 20 WP)
+ Bọ nhảy (Phyllotrera spp.)

- Đặc điểm hình thái:
Trưởng thành có kích thước cơ  thể  dài 1.8­2.4mm, hình bầu dục, toàn 
thân màu đen và lấp lánh ánh kim. Mặt lưng đốt ngực trước và trên cánh cứng  
có các chấm xếp thành hàng dọc. Mỗi cánh  ở  giữa có vân thẳng màu vàng, 
phía cạnh ngoài của vân lõm vào, phía trong của vân thẳng hay cong về  phía 
trong

 

hình

 

13

củ

 

lạc.


Trứng hình trứng, dài 0.3mm, màu vàng nhạt. Sâu non hình ống tròn phần cuối 
nhỏ, đầu màu nâu nhạt, lưng và bụng màu vàng nhạt. Nhộng hình bầu dục, 
dài khoảng 2mm, màu trắng sữa.
- Tập quán sinh sống và gây hại:
Trưởng thành hoạt động vào lúc sáng sớm hoặc trời mát. Trời mưa ít 
hoạt động. Trưởng thành ăn lá cây và giao phối trên cây. Đẻ  trứng chủ  yếu 
trong đất, cách rễ chính khoảng 3cm, đẻ nhiều vào sau buổi trưa. Một con cái  
đẻ khoảng 25­200 trứng.Sâu non có 3 tuổi, sống trong đất, ăn rễ cây, làm cho 

cây bị còi cọc, héo hoặc bị thối. Hoá nhộng ngay trong đất.
- Biện pháp phòng trừ:
Vệ  sinh đồng ruộng. Làm đất kỹ  trước khi trồng, luân canh với các cây 
trồng khác họ. Phun thuốc trừ trưởng thành vào buổi chiều tối. Xử lý đất trừ 
sâu non.  Luân phiên sử dụng một số loại thuốc để phòng trừ: 
 

Abamectin: (Agromectin 1.8 EC, Shertin 3.6EC)
Emamectin benzoate (July 5WG; Starrimec 19EC, Angun 5 WG)
Dinotefuran (Chat 20WP, Oshin 20WP)
Azadirachtin (Vineem 1500EC, Hoaneem 0.03EC)
Chlorantraniliprole 20% +Thiamethoxam (Virtako 300SC
+ Dòi hại rễ (Delia brassicae)
- Đặc điểm hình thái:
Trưởng thành trông giống như  ruồi nhà nhỏ, có màu đen, dài khoảng 

1mm, trên lưng có các sọc đen và lông cứng ngắn màu đen. Dòi màu trắng, dài  
1cm và không có chân.
- Tập quán sinh sống và gây hại:
Trưởng thành đẻ trứng vào khe đất nứt hoặc trên thân cây giáp mặt đất. 
Hoá nhộng trong đất.
Dòi phá huỷ rễ, đặc biệt là rễ cây con bằng cách đục vào rễ hoặc ăn trên 
bề  mặt của rễ. Cây bị  hại trở  nên hơi vàng, đỏ  tía hoặc xanh xám, cây phát 
triển còi cọc. Nếu bị  hại nặng cây có thể  bị  chết. Dòi phát sinh và gây hại  
nặng vào mùa khô.
- Biện pháp phòng trừ:

14



Trưởng thành thường bị  thu hút đến những vật chất hữu cơ  đang thối 
rữa để  đẻ  trứng vì vậy không nên bón phân chuồng tươi, phân cá và các tàn  
dư  cây trồng chưa được  ủ  kỹ  cho cây. Tưới đủ   ẩm cho cây trong mùa khô. 
Chưa có thuốc BVTV đăng ký trong danh mục để phòng trừ dòi hại rễ/cây họ 
thập tự.
 + Rệp (Brevicolyne brassicae)
-  Đặc điểm hình thái:

Có 2 dạng rệp có cánh và không có cánh. Rệp có cánh dài hơn rệp không 
có cánh một chút, đầu và thân màu đen, vân cánh màu nâu. Rệp có ống bụng  
nhỏ ở cuối thân. Rệp sinh sản đơn tính.
- Tập quán sinh sống và gây hại:
Cả  rệp non và trưởng thành đều chích hút nhựa cây, làm búp và lá bị 
xoăn lại, lá nhạt màu hoặc vàng, héo rũ. Ngoài gây hại trực tiếp cho cây 
trồng, rệp còn là môi giới truyền bệnh vi rus cho rau. Thời tiết nóng khô 
thuận lợi cho rệp phát triển, vòng đời ngắn, chỉ trong khoảng 10­12 ngày.
- Biện pháp phòng trừ:
Tưới nước, giữ ẩm cho cây trong điều kiện thời tiết mùa khô, luân phiên 
sử dụng một số loại thuốc sau để phòng trừ: Abamectin (Reasgant 5EC, Plutel 
5EC);   Abamectin+Imidacloprid   (Abamix   1.45WP);   Matrine   (Agri­one   1SL);  
Azadirachtin:   (Super   Fitoc   3EC,   Vineem   1500EC); Thiamethoxam   (Actara 
25WP);
+ Sâu xám (Agrotis ypsilon)
- Đặc điểm hình thái:
Trưởng thành là loài bướm có thân dài 20­25mm. Cánh trước có màu xám 
đen, gần phía góc mép ngoài có 3 vệt đen nhỏ  hình tam giác. Cánh sau màu 
trắng, mép ngoài màu nâu xám nhạt. Cơ thể có nhiều lông màu xám. Trứng có  
hình cầu hơi dẹt, có sọc nổi, đường kính khoảng 0.5mm, lúc đầu có màu nhạt 
sau chuyển sang màu đen đến nâu.
Sâu non màu đen nâu, có đường xẻ  màu nâu nhạt  ở  giữa và hai sọc hai 

bên. Đầu rất đen, có hai điểm trắng. Nhộng có màu nâu cánh gián, cuối bụng 
có một đôi gai ngắn.

15


- Tập quán sinh sống và gây hại:
Bướm hoạt động giao phối và đẻ  trứng ban đêm, thích mùi chua ngọt. 
Đẻ  trứng rời  rạc thành từng  quả  trên mặt  đất, một bướm  cái có thể   đẻ 
khoảng 800­1000 trứng. Sâu non mới nở gặm lấm tấm biểu bì lá cây, sâu lớn 
tuổi sống dưới đất, ban đêm bò lên cắn đứt gốc cây. Sâu đẫy sức hoá nhộng 
trong đất. Sâu xám chủ yếu phá hại khi cây còn nhỏ. Vòng đời trung bình 50­
60 ngày, trong đó giai đoạn sâu non 30­35 ngày.
- Biện pháp phòng trừ:
Vệ sinh đồng ruộng, làm đất kỹ trước khi trồng, dùng một số loại thuốc  
sau để phòng trừ:
Abamectin (Dibamec 1.8 EC, Shertin 3.6EC); Permethrin (Pounce 1.5GR)
+ Sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae)
- Đặc điểm hình thái:
Bướm có thân dài 17­20mm. Cánh trước màu trắng, hình gần tròn, đầu 
cánh có vết đen hình tam giác tương đối lớn (2­3mm) và 2 chấm đen nhỏ hơn, 
trên cánh có lớp bụi phấn mịn. Cánh sau màu trắng, góc cánh màu xám tro.  
Trứng màu vàng nhạt, dài, có nhiều khía cạnh.
Sâu non mới nở  màu xanh nhạt, sau chuyển màu xanh lục, trên thân có  
nhiều chấm đen nhỏ và có 3 sọc màu vàng phía lưng. Dọc theo thân có những  
lông ngắn, cứng, màu vàng. Nhộng màu xanh, đính một đầu trên cuống lá rau.  
Giữa lưng nhộng nổi lên một đường gờ  như  xương sống, ngực nhô cao tạo 
thành góc nổi lên ở 2 bên phần bụng.
- Tập quán sinh sống và gây hại:
Bướm hoạt động ban ngày, đẻ  trứng rải rác thành từng quả  trên lá, mỗi  

con cái đẻ trung bình 150 trứng.
Sâu non mới nở  ăn vỏ  trứng, sau đó bắt đầu gặm chất xanh và để  lại 
màng lá trắng mỏng, sống thành từng cụm. Sâu tuổi lớn phân tán, ăn khuyết lá 
để lại gân làm cây xơ xác. Sâu xanh bướm trắng phát sinh mạnh trong những  
tháng ít mưa. Vòng đời trung bình 35­40 ngày.
- Biện pháp phòng trừ:

16


Dùng vợt bắt bướm, ngắt nhộng trên lá, thu dọn và huỷ  bỏ  tàn dư  cây 
trồng.Luân phiên sử  dụng một số  loại thuốc sau  để  phòng trừ:   Abamectin 
(Agromectin 1.8EC; Binhtox 1.8EC);  Matrine (Sokupi 0.36AS);  Azadirachtin 
(Vineem 1500EC); Abamectin + Chlorfluazuron (Confitin 36EC);  Abamectin + 
Alpha­cypermethrin   (Shepatin   18EC)  Abamectin   +   Bacillus   thuringiensis 
(Kuraba 3.6EC)
+ Sâu xanh đục bắp (Mamestra brassicae)
- Đặc điểm hình thái:
Trưởng thành có các cánh trước lốm đốm, cơ  thể màu xám, xanh lá cây 
hoặc màu đen. Cánh sau thường có màu sáng hơn cánh trước.   Sâu non có màu 
xanh, tuổi lớn có màu đen hơi nâu, bụng màu vàng xanh. Sâu cuộn lại khi bị 
động. Trứng có màu trắng sau chuyển sang màu hồng. Nhộng có màu nâu 
bóng.
- Tập quán sinh sống và gây hại:
Trưởng thành đẻ trứng ngay sau giao phối. Con cái đẻ trứng mặt dưới lá 
và đẻ  rải rác từng quả  nhưng đủ  gần để  tạo thành từng nhóm, mỗi nhóm 
khoảng 50 trứng.Sâu non ăn lá cây, khi mật độ  cao phá trụi các lá ngoài, chỉ 
chừa lại những bộ khung lá. Một số sâu đục vào bên trong bắp làm giảm giá  
trị thương phẩm.
­ Biện pháp phòng trừ: Cày, xới đất kỹ để tiêu diệt nhộng trong đất, thu 

gom tiêu hủy triệt để tàn dư cây trồng. Sử dụng một số loại thuốc BVTV sau  
để   phòng  trừ:  Bacillus   thuringiensis (Delfin  WG;  Olong  55WP);  Abamectin 
(Agbamex 3.6EC; Agromectin 1.8EC);  Emamectin benzoate ( Emaben 0.2EC; 
Tasieu1.0EC); Spinosad   (Akasa   25SC,   Wish   25SC);   Emamectin   benzoate 
+Petroleum oil (Eska 250EC).
B. BÊNH HAI
̣
̣
+ Cháy lá vi khuẩn (Xanthomonas campestris)
- Triệu chứng gây hại:
Bệnh gây hại  ở  cả  cây giống và cây đã lớn. Lá của những cây giống 
nhiễm bệnh chuyển sang màu vàng và rụng trước khi cây lớn. Trên cây lớn 
hơn, vết bệnh có màu vàng, hình chữ  V xuất hiện trên rìa lá với mũi nhọn  

17


hướng vào trong. Những vết bệnh này lan dần vào giữa lá. Diện tích bị nhiễm 
bệnh chuyển sang màu nâu, các mô cây bị chết. Gân lá ở những vùng bị nhiễm  
chuyển màu đen có thể nhìn thấy khi cắt lá.
- Nguyên nhân, điều kiện phát sinh phát triển bệnh:
Do vi khuẩn Xanthomonas campestris gây hại, vi khuẩn phát triển thích 
hợp ở nhiệt độ 30­320C. Nguồn bệnh tồn tại trong tàn dư cây trồng và trong 
hạt giống. Vi khuẩn xâm nhập qua vết thương do côn trùng hoặc cơ  giới,  
mưa gió.
- Biện pháp phòng trừ:
Khử  trùng hạt giống trước khi gieo bằng nước  ấm 50oC trong 30 phút 
để diệt vi khuẩn bám dính trên hạt giống. Luân canh cây trồng trong thời gian 
ít nhất là 3 năm. Bón phân cân đối, không bón quá nhiều đạm.  Vệ  sinh đồng 
ruộng triệt để sau khi thu hoạch. Khi bệnh phát sinh trên lá có thể phòng ngừa  

và hạn chế  tác hại bằng hoạt chất Copper hydroxide (DuPontTM Kocide
46.1 DF).
+ Bệnh lở cổ rễ (Rhizoctonia solani)
-

Triệu chứng: 

Bệnh chủ  yếu gây hại  ở  phần cổ  rễ, phần gốc sát mặt đất. Khi mới  
xuất hiện, nếu quan sát kỹ  có thể  thấy những vết bệnh có màu khác với vỏ 
cây, phần vỏ  này bị  rộp lên, sau đó lan dần bao quanh toàn bộ  phần cổ  rễ 
hoặc gốc cây. Dần dần phần vỏ  này khô teo lại, khi gặp trời mưa hoặc độ 
ẩm cao sẽ bị thối nhũn, bong ra, trơ lại phần lõi gỗ của cây có màu thâm đen, 
cây sẽ héo dần và chết.
Lúc mới bị nhiễm bệnh, lá trên các cây này còn giữ được màu xanh tươi  
trong vài ngày (nếu trời râm mát), sau đó toàn bộ cây sẽ bị héo rũ gục xuống, 
chết lụi từng đám rải rác trên ruộng hoặc từng vạt lớn nếu ruộng rau bị 
nhiễm bệnh nặng. Vào những ngày có nhiều sương mù hoặc lúc sáng sớm ta  
có thể thấy lớp tơ màu trắng bám nơi vết bệnh. Vài ngày sau, trên thân cây và 
vùng đất xung quanh gốc cây bị  bệnh xuất hiện nhiều đốm hạch màu vàng  
nâu bám xung quanh đó.
-

Tác nhân gây bệnh, điều kiện phát sinh, phát tiển và gây hại:

18


       Bệnh lở  cổ  rễ  do nấm Rhizoctonia solani gây ra là chủ  yếu. Tuy nhiên,  
tuỳ điều kiện thời tiết, chế độ canh tác có thể do nhiều loại nấm có trong đất  
gây ra như  Pythium spp., Fusarium solani, Fusarium sp. v.v. Các bào tử  nấm  

Rhizoctonia solani thường sống tiềm ẩn trong đất và tàn dư cây trồng khá lâu, 
nhất là ở những vườn ươm cây giống, những vườn sản xuất đã từng bị bệnh  
lở cổ rễ mà không được xử lý đất trước khi trồng lại.
      Các bào tử nấm này thường lây lan trong môi trường nước và xâm nhập  
qua các vết thương cơ giới hoặc các lỗ khí khổng của lá khi có điều kiện môi 
trường thuận tiện. Bệnh thường phá hại nhiều trong vườn ươm hoặc sau khi  
trồng khoảng 1 tháng tuổi, làm chết cây con. Nấm thường tấn công vào cổ rễ, 
nơi tiếp giáp với mặt đất và cổ  rễ  bị  khô, cây không hút được nước nên đổ 
rạp và chết rất nhanh. Bệnh thường phát sinh, phát triển mạnh trong điều 
kiện độ ẩm cao, nhiệt độ cao hoặc mưa, nắng, rét, nóng thất thường.
       Trong năm bệnh thường xuất hiện và gây hại nhiều nhất vào các giai 
đoạn: tháng 9­10 và tháng 2­3­4. Bệnh thường lây lan nhanh, gây hại nặng  ở 
những vườn ươm chuyên sản xuất cây giống hoặc vườn sản xuất đại trà liên  
tục nhiều năm; trên các vườn đầu tư, chăm sóc kém, nhất là trên các vùng đất 
sét, đất thịt nặng, đất chặt bí, những vùng đất  ẩm  ướt, trũng hoặc khó thoát 
nước.
­ Biện pháp phòng trị:
­ Phòng bệnh: Chọn nơi đất tốt, cao ráo, dễ thoát nước để làm vườn ươm sản  
xuất cây giống. Không nên làm vườn ươm ở những nơi trước đây đã từng bị 
bệnh   lở   cổ   rễ   và   các   loại   nấm   bệnh   khác.   Khử   trùng   đất   bằng   vôi   bột  
(30kg/sào Bắc bộ) hoặc các loại thuốc như: Regent 0,3 G, Basudin 5G, 10  
G/H (0,3­0,5 kg/sào Bắc bộ) trước khi trồng. Chỉ  sử  dụng phân chuồng hoai  
mục, không dùng phân tươi (có chứa nhiều nấm bệnh) để  bón lót hoặc làm  
bầu ươm.
 Thường xuyên vệ  sinh đồng ruộng, trồng đúng mật độ, khoảng cách nhằm 
tạo độ  thông thoáng, giảm độ   ẩm, hạn chế  nấm bệnh phát sinh, phát triển.  
Khơi thông mương rãnh tránh để  đọng nước gây ngập úng hoặc để  đất quá 

19



ẩm. Sử  dụng chế  phẩm TRICHODERMA trộn với phân chuồng đã được  ủ 
hoai mục để bón lót hoặc đóng bầu với lượng dùng 4­5kg/sào Bắc bộ.
­ Chữa trị: Nhổ bỏ và đem tiêu hủy hết các cây bị bệnh để  tránh lây lan ngay 
khi mới phát hiện. Phun ngừa hoặc phun trừ  bằng một trong các loại thuốc  
sau: Copper B, Booc đô 1%, Dithane M45, Benlat C 50 WP, Anvil 5 SC, Rovral 
50 WP, Appencarb Super 50 SL.. .pha nồng độ 0,2­0,3% (20­30 g hoặc cc cho  
bình 10 lít nước), khuấy đều phun kỹ thân cây gần mặt đất và phần đất xung 
quanh gốc cây vào buổi sáng và chiều mát. Phun nhắc lại lần 2 sau 5 ngày. 
Xới xáo mặt luống nhằm giảm độ ẩm, hạn chế lây lan.
+ Bệnh sưng rễ (Plasmodiophora brassicae W)
- Triệu chứng:
Bệnh gây hại trên bộ rễ của cây (rễ chính và rễ bên). Bộ phận rễ bị biến  
dạng sưng phồng lên, có các kích cỡ  khác nhau tùy thuộc thời kỳ và mức độ 
nhiễm bệnh. Cây sinh trưởng chậm, cằn cỗi, lá biến màu xanh bạc, có biểu  
hiện héo vào lúc trưa nắng, sau đó phục hồi vào lúc trời mát, khi bị nặng toàn 
thân cây héo rũ kể  cả  khi trời mát, lá chuyển màu xanh bạc, nhợt nhạt, héo  
vàng và cây bị chết hoàn toàn.
Nấm bệnh tấn công vào vùng rễ, gây biến dạng, làm giảm khả  năng 
hút nước, dinh dưỡng và khả  năng chống chịu của cây, dẫn đến việc xâm 
nhập dễ  dàng của một số  loài nấm, khuẩn gây nên sự  thối mục đen toàn bộ 
rễ cây. Khi cây bị nhiễm bệnh sớm (giai đoạn vườn ươm, hồi xanh) cây khó 
phục hồi và chết, nhưng nếu cây bị  nhiễm ở giai đoạn muộn hơn (giai đoạn 
hình thành bắp, phân hoá hoa) cây có thể  cho thu hoạch nhưng năng suất 
giảm, chất lượng kém.
- Nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của bệnh:
Bệnh do nấm Plasmodiophora brassicae W. gây ra.
Nấm bệnh là loài nấm cổ sinh đơn bào (không có nhánh, sợi nấm) và là  
loài nấm ký sinh bắt buộc. Chúng chỉ  phát triển và sinh sản trong tế  bào ký  
chủ còn sống mới hoàn tất vòng đời. Nấm có thể tồn tại trong đất 7­10 năm ở 

dạng bào tử  tĩnh, cũng có thể  lâu hơn. Bệnh phát triển thích hợp trong đất 

20


chua và khoảng nhiệt độ  từ  18­25 0C. Tuy nhiên, bệnh chỉ  tấn công gây hại  
cây khi mật độ bào tử trong đất đạt >103 bào tử/1g đất.
Khi phát triển trong cây, bào tử động tiếp tục được hình thành ở pha thứ 
cấp và tấn công những cây bên cạnh hoặc di chuyển, phát tán xa hơn. Bào tử 
tĩnh được hình thành rất nhiều trong tàn dư cây bệnh và giải phóng ra đất khi  
rễ  cây bị  phân huỷ  (thối đen, mục). Nấm bệnh không lây lan qua hạt giống  
nhưng lây nhiễm gián tiếp qua hạt giống trong quá trình sản xuất và vận 
chuyển hạt giống.
- Biện pháp phòng trừ:
Trồng cây sạch bệnh, đất trồng phải bố trí tiêu thoát nước tốt. Không sử 
dụng nguồn nước bị nhiễm. Chú ý tránh đưa dụng cụ lao động từ nơi có bệnh 
đi nơi khác. Bón phân cân đối và hợp lý, không sử  dụng phân hữu cơ  chưa  
hoai mục. Vệ sinh đồng ruộng, luân canh cây trồng triệt để, bón vôi để có độ 
pH phù hợp = 6.8
Khi bị nhiễm bệnh sử lý bằng một trong các loại thuốc sau: Flusulfamide  
(Nebijin 0.3DP), Bacillus subtilis (Biobac 50WP), Chaetomium sp+Tricoderma 
sp (Mocabi SL), Copper citrate (Heroga 6.4SL)
+ Bệnh sương mai (Peronopora parasitica) 
-

Triệu chứng gây hại 

Bệnh gây hại từ  khi cây còn nhỏ  trong vườn  ươm cho đến khi cây lớn.  
Trên lá mầm và các lá thật của cây con xuất hiện những đốm nhỏ  màu vàng  
hoặc nâu. Trên cây lớn vết bệnh là những đốm tròn hoặc hình dạng bất định 

màu vàng nâu, trên đó có lớp mốc như  lông mịn màu xanh đen. Vết bệnh  ở 
dưới mặt lá được bao phủ  một lớp trắng xốp như sương. Sau một thời gian  
vết bệnh khô lại, có màu nâu hoặc đen. Các vết bệnh lan rộng liên kết với  
nhau thành mảng cháy lớn trên lá, lá vàng và rụng.
-

Nguyên nhân và điều kiện phát sinh, phát triển bệnh: 

Bệnh do nấm Peronopora parasitica gây ra. Bệnh phát triển trong điều 
kiện thời tiết mát mẻ (10­15oC) và ẩm ướt. Nấm bệnh tồn tại trên hạt giống, 
tàn dư cây trồng.
- Biện pháp phòng trừ:

21


Trồng cây với mật độ  hợp lý, vệ  sinh đồng ruộng triệt để. Khi bệnh 
xuất   hiện   có   thể   sử   dụng   một   số   loại   thuốc:   Chlorothalonil  
(Forwanil75WP); Mancozeb + Metalaxyl (Vimonyl 72
WP);  Ningnanmycin (Diboxylin 8SL); Oligo ­ sacarit (Olicide 9SL).  Chitosan 
(Biogreen 4.5 SL)
+ Bệnh thối gốc (Phoma ligam): 
- Triệu chứng gây hại:
Triệu chứng ban đầu là những vết nứt thối trũng xuất hiện trên gốc thân  
cây, trên lá có hình đốm tròn màu nâu nhạt. Những cây bị bệnh thường có kích 
thước nhỏ hơn.
Các vết thối mục lan rộng và bao lấy thân phía trên mặt đất, làm cho cây  
bị héo và đổ. Thân cây khô và hoá gỗ, mô cây chuyển màu đen, đôi khi có viền 
đỏ tía.
+ Bệnh thối hạch (Sclerotinia sclerotirum)

­ Triệu chứng gây hại:
Cây con: Bệnh xuất hiện ở gốc cây sát mặt đất làm cho chỗ bị bệnh thối 
nhũn, cây gãy gục rồi chết. Khi trời  ẩm ướt trên vết bệnh xuất hiện một lớp  
nấm màu trắng xốp.
Khi cây lớn: Vết bệnh thường xuất hiện trên các lá già sát gốc hoặc  
phần gốc thân, chỗ bị bệnh thối nhũn nhưng không có mùi thối. Nếu trời khô 
nắng thì chỗ bị bệnh thường khô và teo đi, các lá biến vàng.
Trên phiến lá và cuống lá: Chỗ  bị  bệnh có màu trắng bủng nước, bắt  
đầu từ  rìa lá lan vào phía trong. Khi trời  ẩm  ướt, lá bị  bệnh sẽ  thối rách nát  
nhưng nếu trời khô hanh lá bệnh khô mỏng, màu nâu bẩn.   Ở cây cải bắp khi 
đã cuốn, bệnh lây lan từ  lá ngoài vào trong làm toàn bộ  bắp bị  thối và chết  
đứng trên ruộng, gặp gió to cây đổ  gục. Chỗ  vết bệnh đã thối có lớp mốc 
trắng và nhiều hạch nấm nhỏ màu nâu hoặc đen bám chặt vào lá.
- Nguyên nhân, điều kiện phát sinh phát triển bệnh: 

Bệnh do nấm Sclerotinia sclerotirum gây ra. Bệnh phát triển thích hợp ở 
nhiệt độ  19­24oC, pH 5­8, tồn tại chủ yếu  ở dạng hạch trên tàn dư  cây bệnh 
và trong đất.

22


- Biện pháp phòng trừ:
Trồng cây giống sạch bệnh, vệ sinh đồng ruộng triệt để. Luân canh với 
cây trồng khác họ như hành, cà rốt
Bón phân đầy đủ  và cân đối. Tăng lượng phân chuồng hoai có tác dụng kích 
thích   cây   khỏe   và   hạn   chế   được   sự   phát   triển   của   bệnh.   Bón   mỗi   sào  
(1000m2) 9 ­ 12 kg nấm Trichoderma ĐHCT bằng cách rải trực tiếp vào đất 
hoặc trộn với phân chuồng  ủ  1 tuần trước khi trồng.  Sử  dụng một số  loại 
thuốc   sau   để   phòng   trừ: Prochloraz­Manganese   complex   (Trinong   50WP); 

Trichoderma spp (Promot Plus WP); Trichoderma viride (Biobus 1.00WP)
+ Bệnh thối nhũn: 
Có 2 nguyên nhân gây ra ( do nấm thối hạch và do vi khuẩn thối nhũn  
gây ra). Cần nhận biết và phân biệt rõ vỡi những triệu chứng sau:
- Thối nhũn do nấm
Do nấm tồn tại trong  đất trồng, tàn dư  gây ra. Vết bệnh lúc  đầu là 
những chấm nhỏ, mất màu sau đó nhũn ra. Bệnh gây thối từng lớp lá từ  trên 
xuống dưới. Gặp độ ẩm không khí cao thấy có lớp tơ màu trắng bao phủ vết 
bệnh. Không có mùi khẳn. 
Thuốc trị bệnh: Validacin3L, Rovral50WP, Anvil5SC, Bennomyl 50WP…
- Thối nhũn do vi khuấn
Do vi khuẩn tồn tại trong đất trồng, tàn dư  gây ra. Lúc đầu thấy xuất  
hiện một số lá bị héo vào buổi trưa, tươi lại buổi chiều. Bệnh làm thối mềm  
phần trong của cây (lõi) rồi sau đó làm thối nhũn cả  bắp. Độ   ẩm cao, thối  
nhũn càng nặng và ngửi vết bệnh thấy có mùi khẳn đặc trưng của hiện tượng  
thối   nhũn   do   vi   khuẩn.   Không   có   thuốc   trị   bệnh   mà   chỉ   có   thuốc   phòng:  
Kasumin 2L, Starner 20WP, New Kasuran 16,2 WP, Rovral 50WP.
* Thu hoạch:
Thời gian thu hoạch tùy thuộc giống và mùa trồng. Thu hoạch khi bắp 
cuộn chặt, 2 lá úp ngoài mặt căng, bắp phát triển đầy đủ, mặt bắp bóng láng  
và lá gốc bắt đầu vàng. Nếu thu hoạch sớm lá chưa cuốn chặt, năng suất 
kém. Nếu  thu  hoạch  muộn  bắp nứt nẻ, kém phẩm chất. Nên thu  hoạch vào 
lúc  trời mát hay buổi chiều, có thể  thu hoạch 2 đợt nếu bắp tăng trưởng  

23


không đều. Năng suất bắp cải 20 ­ 35 tấn/ha tùy giống và mùa vụ.
2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ  bắp cải trên thế  giới và trong 


nước
2.2.1. Tình hình sản xuất bắp cải trên thế giới
Bắp cải được phát sinh tại vùng Địa Trung Hải, tuy nhiên Châu Á là nơi  
có diện tích trồng và sản lượng bắp cải lớn nhất, đặc biệt Trung Quốc là  
quốc gia có diện tích trồng và năng suất bắp cải đứng đầu thế  giới. Bắp cải  
chủ yếu được sử dụng dưới dạng, rau tươi, rau trộn salad và dưa bắp cải.
Bảng 3. Tình hình sản xuất bắp cải trên thế giới
Lục địa

Nghìn tấn

Châu Phi

Tỷ lệ (%)

905

2

Châu Á

31.704

65

Châu Âu

12.254

25


Bắc Mỹ

2.722

6

Đại Dương

99

1

Nam Mỹ

557

1

48.241

100

Tổng

Nguồn: Nguồn: FAO, 1998.
Trong đó các nước sản xuất bắp cải chính là Trung Quốc, Nga,  Ấn Độ, 
Hàn Quốc và Nhật Bản, cụ thể:
Bảng 4. Sản lượng bắp cải của 10 nước sản xuất chính
STT


Quốc gia

Nghìn tấn

TT

Quốc gia Nghìn tấn

1

Trung Quốc

19.953

6

Mỹ

2.084

2

Nga

4.500

7

Ba Lan


1.778

3

Ấn Độ

4.200

8

Indonesia

1.401

4

Hàn Quốc

2.755

9

Ukraine

1.070

5

Nhật


2.550

10

Rumania

1.000

Nguồn: FAO, 2000.
2.2.2. Tình hình sản xuất bắp cải tại Việt Nam
Bắp cải là cây rau quan trọng trong vụ đông xuân  ở  miền Bắc nước ta,  
đặc biệt là vùng ĐBSH  (Tạ Thu Cúc, 2007).

24


Theo quyết   định số  182/1999/QĐ­TTg của Thủ  tướng  chính phủ  phê 
duyệt đề  án phát triển rau và hoa quả  mục tiêu đến năm 2010 về  kim ngạch  
xuất khẩu các loại hàng này là 1 tỷ USD, trong đó 525 triệu USD là rau, măng 
tây, măng ta, các loại quả là 323 triệu USD, gia vị gồm hạt tiêu đạt 100 triệu  
USD, hoa và cây cảnh khoảng 5%.
Tuy nhiên theo chiến lược phát triển xuất khẩu thời kỳ  2001­2010 của 
Bộ thương mại trình chính phủ ngày 21/8/2000 kim ngạch xuất khẩu rau quả 
đến năm 2010 đạt 1,8 triệu USD trong đó hạt tiêu đạt 250 triệu USD.
Đây là hai mục tiêu tạm gọi là tối thiểu và tối đa mà Việt Nam phấn đấu 
trong 10 năm tới trong đó cơ cấu chủng loại sản phẩm có thể điều chỉnh dần 
dần sao cho phù hợp.
Theo dự thảo đề  án của Bộ thương mại định hướng cho chủng loại rau 
xuất khẩu hiện nay bao gồm: rau quả tươi, trong đó bắp cải, cải ngọt, hành 

hương, hành hoa, các loại đậu, đỗ, bí đỏ, bí xanh, khoa mỡ, hành tây. Nhưng 
mới chỉ có bắp cải, cải ngọt là những loại rau đang xuất khẩu có hiệu quả và 
chuyển biến tốt. Gía bắp cải mua để  xuất khẩu cũng khá cao gần bằng giá 
thóc.
Bắp cải được trồng chủ  yếu  ở  miền Bắc  ở  vụ  đông – xuân  ở  các tỉnh  
đồng bằng sông Hồng và một phần diện tích bắp cải trái vụ  được trồng  ở 
huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai và huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Khu vực Tây 
nguyên bắp cải được trồng chủ  yếu tại Đà Lạt, Lâm Đồng do có điều kiện  
khí hâu thuận lợi nên có thể trồng bắp cải vụ sớm, bắp cải trái vụ. 
Các tỉnh có diện tích bắp cải lớn gồm: Lâm Đồng, Hà Nội, Hải Phòng, 
Hải  Dương,  Hưng  Yên. Năm 2010, với  tổng diện tích trồng bắp cải  đạt 
29.200 ha, sản lượng đạt 676.300 tấn (Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2010).
Tại huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, bắp cải được trồng trong vụ đông 
xuân tại các xã Mường So, Dào San, Pa Vây Sử, Tung Qua Lìn, Lản Nhì  
Thàng và thị trấn Phong Thổ, sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ nhu cầu của  
người dân và một phần mang đi bán, đặc biệt tại các xã Mường So, Dào San, 
Nhì Thàng  các hộ  dân đã chủ  động gieo trồng với số  lượng lớn để  tạo sản  
phẩm hàng hóa, góp phần tăng thu nhập cho gia đình.

25


×