Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu khả năng tăng sinh của tế bào gốc mỡ và ảnh hưởng của chúng đến tế bào da nuôi cấy định hướng trong điều trị vết thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­

ĐOÀN HOÀNG THU

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TĂNG SINH CỦA TẾ BÀO 
GỐC MỠ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐẾN TẾ 
BÀO DA NUÔI CẤY ĐỊNH HƯỚNG TRONG ĐIỀU 
TRỊ VẾT THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­

ĐOÀN HOÀNG THU

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TĂNG SINH CỦA TẾ 
BÀO GỐC MỠ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐẾN 
TẾ BÀO DA NUÔI CẤY ĐỊNH HƯỚNG TRONG 
ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG

Chuyên ngành : Sinh học thực nghiệm
Mã số              : 60420114

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. TS. Đinh Văn Hân
2. PGS. TS. Ngô Giang Liên


Hà Nội ­ 2014
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới Tiến  
sĩ Đinh Văn Hân và PGS. TS. Ngô Giang Liên – những người thầy đã tận tâm,  
nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn cũng như động viên, cổ  vũ tinh thần cho em trong  
suốt quá trình thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ.
Em xin bày tỏ  lời cảm  ơn sâu sắc đến những thầy cô giáo đã giảng dạy  
em trong những năm qua, những kiến thức mà em nhận được trên giảng đường  
sẽ là hành trang giúp em vững bước trong tương lai. 
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Khoa Sinh  
học, Bộ  môn Sinh học Tế  bào ­ Trường Đại học Khoa học Tự  nhiên – Đại học  
Quốc gia Hà Nội  đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành khóa học.
Xin chân thành cảm  ơn các cô chú, anh chị  và các bạn đồng nghiệp tại  
Khoa Labo nghiên cứu  ứng dụng trong điều trị  Bỏng – Viện Bỏng Quốc Gia đã  
quan tâm, hỗ trợ, tạo điều kiện để em thực hiện đề tài.
Cuối cùng, xin được gửi lời tri ân đến gia đình, bạn bè và tất cả  những  
người thân yêu đã luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ  em trong quá trình học tập  
để em hoàn thành bản luận văn này!
 
Hà Nội, ngày 16 tháng 08 năm 2014
Học viên

                                                               Đoàn Hoàng Thu



MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG

Bảng 1. Khả năng tạo dòng của tế bào mới tách ra từ mô mỡ (n=5).............
               Error:
  
 
Reference source not found
Bảng 2. Khả năng tạo CFU­F theo các thế hệ tế bào (n=5)..........
            Error: Reference
  
 
source not found
Bảng 3. Ảnh hưởng của tế bào gốc đến tăng sinh nguyên bào sợi  Error: Reference 
source not found
Bảng 4. Thời điểm nguyên bào sợi gia tăng số lượng khi có tấm tế bào gốc.......
         Error:
  
 
Reference source not found
Bảng 5. Tỷ lệ sống của nguyên bào sợi sau khi trypsin.  Error: Reference source not 
found
Bảng 6. Ảnh hưởng của tấm tế bào gốc đến tăng sinh tế bào sừng...............
                 Error:
  
 
Reference source not found

Bảng 7. Ảnh hưởng của tấm tế bào gốc tới di cư tế bào sừng......
        Error: Reference
  
 
source not found


DANH MỤC HÌNH

Hình 1. Sơ đồ sự tăng sinh của nguyên bào sợi trong các giai đoạn khác nhau của  
quá trình liền vết thương.....................................
                                       Error: Reference source not found
  
 
Hình 2. Mô phỏng thí nghiệm đánh giá  ảnh hưởng của tế bào gốc mô mỡ  bằng  
phương pháp đồng nuôi cấy.................................
                                   Error: Reference source not found
  
 
Hình 3. Tạo vết thương in vitro............................
                              Error: Reference source not found
  
 
Hình 4. Tách mô mỡ bằng enzym collagenase......
       Error: Reference source not found
  
 
Hình 5. Đĩa tế bào sau 48h nuôi cấy. ..................
                   Error: Reference source not found
  

 
Hình 6. Tế bào sau 4 và 10 ngày nuôi cấy............
             Error: Reference source not found
  
 
Hình 7. Tế bào gốc mỡ trên kính hiển vi đảo ngược 50X(A) và 100X(B)........
         Error:
  
 
Reference source not found
Hình 8. Hình thái tế bào gốc mỡ sau khi nhuộm Giemsa. (100X) ..
   .  Error: Reference
 
 
source not found
Hình 9. Tế bào gốc mỡ tạo colony – ngày thứ 1 và 5. (50X) Error: Reference source 
not found
Hình 10. Tế bào gốc mỡ tạo colony ở ngày thứ 10 và 20. (50X)....
      Error: Reference
  
 
source not found
Hình 11. Các đĩa colony sau khi nhuộm giemsa....
      Error: Reference source not found
  
 
Hình 12. Biểu đồ  so sánh số  lượng tế  bào thu được giữa các thí nghiệm đồng  
nuôi cấy tấm tế bào gốc mô mỡ với nguyên bào sợi ở ngày thứ 2.  Error: Reference 
source not found
Hình 13. Tác động của tấm tế bào gốc mô mỡ  lên sự  tăng sinh của nguyên bào  

sợi (50X)................................................................
                                                                  Error: Reference source not found
  
 
Hình 14. Sự gia tăng số lượng nguyên bào sợi theo thời gian........
         Error: Reference
  
 
source not found
Hình 15. So sánh số  lượng tế  bào thu được giữa các thí nghiệm đồng nuôi cấy  
tấm tế bào gốc với tế bào sừng...........................
                             Error: Reference source not found
  
 


Hình 16. Tác động của tấm tế  bào gốc mô mỡ  lên sự  tăng sinh của tế  bào sừng
                                                                                 Error: Reference source not found
...............................................................................
  
 
Hình 17. Tế  bào sừng độ  che phủ đạt 100% , tế  bào sừng hinh ovan và đa di
̀
ện  
moc day xêp khit nhau ngay tr
̣
̀ ́
́
ước khi tạo vết cạo để  đồng nuôi cấy với tấm tế  
bào gốc mỡ và tấm nguyên bào sợi (50X)............

             Error: Reference source not found
  
 
Hình 18.  Ảnh hưởng của tế bào gốc mỡ  lên di cư  và biệt hóa của tế  bào sừng  
(50X).                                                                     
 
.....................................................................
  
 Error: Reference source not found
 

Hình 19. So sánh hình thái tế bào gốc mô 
mỡ…………………………….Error: Reference source not found
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

AB

Antibiotic/Antimycotic ­ Kháng sinh

ADSCs

Adipose­Derived Stem Cells ­ Tế bào gốc mỡ

DMEM

Dubeco’s Modified Eagle Medium

EGF

Epidermal Growth Factor ­ Yếu tố tăng trưởng biểu bì


FBS

Fetal Bovine Serum ­ Huyết thanh bào thai bê

FGF 

Fibroblasts Growth Factor ­ Yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi

HGF 

Hepatocyte Growth Factor

IL

Interleukin

ITS­X

Insulin, Transferin, Selen ­ X

KGF

Keratinocyte Growth Factor ­ Yếu tố tăng trưởng tế bào sừng

MCS

Mesenchymal stem cells ­ Tế bào gốc trung mô

P


Passage­ Cấy chuyển

PBS

Phosphat Buffer Saline ­ Dung dịch đệm phosphat

PDGF  

Pletelet­Derived Growth Factor 

TB

Tế bào

TGF 

Transforming Growth Factor

VEGF

Vessle Endothelial Growth Factor



ĐẶT VẤN ĐỀ
Tế  bào gốc là một trong những lĩnh vực sinh học lôi cuốn nhất hiện 
nay. Từ lâu, cấy ghép tế bào gốc đã được y học thế giới lựa chọn như là liệu 
pháp hữu hiệu để chữa khỏi một số căn bệnh mạn tính, hiểm nghèo liên quan  
đến máu, tủy, xương khớp…Trên thế giới, có một số nguồn tế bào gốc được 

đưa vào  ứng dụng như  tế bào gốc tủy xương và tế  bào gốc máu cuống rốn,  
các tế bào gốc từ 2 nguồn này chủ  yếu là tế  bào gốc tạo máu nên được ứng  
dụng trong nghiên cứu và điều trị các bệnh về máu, còn các bệnh cần có sự tái 
tạo thuộc hệ thống trung mô thì ít được ứng dụng. Trong khi đó, các bệnh của  
trung mô lại rất thường gặp như các vết thương, vết loét, bệnh lý hệ  mạch, 
não, tim…Một nguồn TB gốc khác đang được kỳ  vọng nhiều chính là tế  bào 
gốc phôi, mặc dù có tiềm năng lớn nhưng việc nghiên cứu và sử dụng còn rất 
khó khăn về công nghệ và đặc biệt là bị cản trở bởi vấn đề y đức (sử dụng tế 
bào gốc phôi đồng nghĩa với việc hủy đi một phôi vốn có thể  trở  thành một  
con người). Gần đây, nhiều nghiên cứu tập trung khai thác các tế  bào gốc từ 
phần phụ của thai như bánh rau, dây rốn. Thành công về công nghệ đã có thể 
tách và nhân lên các tế  bào gốc nhưng chỉ  có những bệnh nhân có bảo quản  
dây rốn – bánh rau…khi sinh ra mới có hy vọng được dùng các nguồn tế bào 
gốc này. Hiện nay, chỉ  có số  lượng rất ít người được lưu giữ  dây rốn hay 
bánh rau sau khi sinh ra, đồng thời chi phí cũng rất tốn kém và xác suất người 
lưu trữ  mô lại có các bệnh cần được điều trị  bằng các tế  bào gốc này cũng  
không phải cao. 
Tế  bào gốc mỡ  là quần thể  tế  bào vạn năng, chúng có thể  biệt hóa 
thành nhiều dòng khác nhau. Mô mỡ là loại mô có sẵn với số lượng lớn và dễ 
dàng thu hồi nên đây là nguồn tế  bào đầy hứa hẹn cho y học tái tạo trong  
tương lai có thể sử dụng để ghép tự thân và đặc biệt là không gặp phải những 
vấn đề y đức. Đối với lĩnh vực nghiên cứu liền vết thương thấy rằng, tế bào 


gốc mô mỡ  là một trong những dạng tế  bào quan trọng di cư  đến vùng tổn 
thương để  thực hiện nhiều khâu trong pha tăng sinh của quá trình liền vết  
thương. 
Tế  bào gốc trung mô đã được nghiên cứu tách từ  mô mỡ  nhưng trong 
thành phần tế bào được tách còn nhiều dạng tế bào khác như bạch cầu, hồng  
cầu…Tỷ  lệ  tế  bào gốc trung mô thay đổi nên khó xác định chính xác cần sử 

dụng bao nhiêu tế bào là cần thiết và bao nhiêu tế  bào trong hỗn dịch tế bào 
mới tách là đủ  để  cho một lần ghép điều trị  vết thương. Do đó, cần nghiên 
cứu xây dựng hoàn chỉnh quy trình tách và tinh lọc tế bào gốc trung mô. Nếu 
như các tế bào gốc trung mô tách ra lại có tác dụng kích thích tăng sinh hoặc di 
cư của 2 loại tế bào chủ yếu của da thì đó sẽ là cơ sở khoa học cần thiết cho  
việc tiếp tục các nghiên cứu  ứng dụng tế  bào gốc mô mỡ  trên lâm sàng và 
định hướng cho các nghiên cứu chế tạo các chế phẩm sinh học phục vụ điều  
trị  các tổn thương thuộc hệ  thống trung mô đặc biệt là vết thương và vết 
bỏng. 
Ngày nay, nhu cầu điều trị vết thương bằng ghép tế bào gốc là rất lớn,  
cụ thể tại Mỹ với 260 triệu dân thì hàng năm có khoảng 6,5 triệu người mang  
các vết thương mạn tính. Hàng năm tại miền tây Châu Âu có khoảng 150.000 
người cần được điều trị  bằng da nhân tạo. Riêng tại Đức có khoảng 3 triệu  
người bị loét và chi phí lên tới hơn 1 tỷ Euro dành cho điều trị. 
Tại Việt Nam hàng năm ước tính khoảng 791.000 người gặp tai nạn về 
bỏng [8]. Tuy chưa có con số  thống kê cụ  thể  nhưng chỉ  tính riêng tại Viện  
Bỏng Quốc Gia, hàng năm có khoảng 5000 bệnh nhân bỏng điều trị  thì nhu 
cầu về ghép da cũng đã chiếm khoảng 2500 bệnh nhân
Xuất phát từ những cơ sở khoa học và tiềm năng ứng dụng của tế bào 
gốc mỡ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu:  “Nghiên cứu khả  năng tăng sinh  


của tế bào gốc mỡ và ảnh hưởng của chúng đến tế bào da nuôi cấy định  
hướng trong điều trị vết thương” nhằm mục tiêu sau:

1. Đánh giá đặc điểm phân lập và sự  tăng sinh của tế bào gốc mỡ  trong  
điều kiện nuôi cấy invitro

2. Đánh giá ảnh hưởng của tế bào gốc mỡ đến tế bào da nuôi cấy
Chương 1 

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các tế bào chủ yếu tham gia liền vết thương
Diễn biến liền vết thương nói chung đều trải qua các giai đoạn đông 
máu, viêm, tăng sinh, tái lập mô và liền sẹo [3].  Tuy quá trình liền vết thương 
có nhiều cơ  chế  phức tạp nhưng kết quả cuối cùng là tái lập lại các mô tế 
bào đã bị tổn thương. Để  duy trì chức năng bảo vệ cơ  thể, con người cần có 
da. Thành phần tế  bào da người chủ  yếu bao gồm 2 loại là nguyên bào sợi 
(Fibroblasts) và tế  bào sừng (Keratinocytes). Nguyên bào sợi là tế  bào tạo ra 
lớp trung bì còn tế bào sừng tạo ra lớp biểu bì. Hai loại tế bào này có những 
chức năng khác nhau nhưng lại tương tác, kết hợp với nhau để tạo ra cấu trúc  
da hoàn chỉnh. Hai loại tế bào này cũng là những tế bào chủ yếu làm lành các  
tổn thương da. Khi da bị tổn thương, nguyên bào sợi là tế  bào tổng hợp nên  
đệm gian bào, tiết các yếu tố tăng trưởng tạo điều kiện để tế bào sừng từ bờ 
mép vết thương tăng sinh che phủ bề mặt làm lành vết thương. 
Nguyên bào sợi (Fibroblasts) là tế bào quan trọng nhất trong giai đoạn 
tăng sinh, chúng tạo ra các thành phần đệm gian bào làm nền cho quá trình  
biểu mô hoá và cung cấp các sợi laminin, decorin, elastin, fibronectin để tế bào 
biểu mô bám và trượt trên đó giúp tăng nhanh quá trình biểu mô hoá che phủ 


vết thương. Chúng tạo ra protein đệm mà trong đó collagen tạo nên sự  bền  
vững và toàn vẹn của mô. Đồng thời nguyên bào sợi là nguồn cung cấp quan 
trọng một số  yếu tố  tăng trưởng (growth factors ­ GF )  kích thích liền vết 
thương như  TGF­β, PDGF, KGF...[44], [45], [67], [76]. Hơn nữa, nguyên bào 
sợi chuyển dạng thành myofibroblasts tạo nên sự  co rút và liền vết thương 
nhanh hơn. Nguyên bào sợi còn tham gia vào giai đoạn sửa chữa sẹo diễn ra 
trong nhiều năm sau khi vết thương.  Ngày thứ  2 sau khi bị  thương bị  bỏng, 
nguyên bào sợi xuất hiện  ở vết thương do sự dịch chuyển từ mô liên kết bên  
cạnh. Sản xuất các siêu sợi actin của cơ  trơn chuyển nguyên bào sợi thành 
myofibroblast, gây co kéo làm hẹp vết thương (1­2 mm/24 giờ). Tổng hợp men  

Metalloproteinase,   collagenase   gây   thoái   huỷ   protein   khoảng   kẽ;   men  
Stomalysin   thoái   huỷ   protein   màng   nền.   Điều   hoà   tổng   hợp   và   thoá   biến  
collagen thông qua FGF­ , TGF­ . Sắp xếp collagen theo cấu trúc mô. Trong 
khoảng thời gian từ 5­7 ngày, các nguyên bào sợi tăng sinh, và được kích thích  
tiết PDGF, TGF­beta để điều khiển quá trình tổng hợp và lắng đọng các thành 
phần đệm gian bào bao gồm: fibronectin, laminin, glycosaminoglycans (GAGs)  
và collagen. Nguyên bào sợi còn tham gia vào giai đoạn sửa chữa sẹo diễn ra 
trong nhiều năm sau khi vết thương đã liền.
Tế bào sừng (Keratinocytes) tạo nên lớp biểu bì bảo vệ cơ thể. Biểu 
bì gồm nhiều lớp tế bào biểu mô lát tầng sừng hóa, thành phần chính là các tế 
bào sừng gồm nhiều lớp tế bào sắp xếp chặt chẽ với nhau [1]. Lớp mầm hay  
còn gọi là lớp đáy chứa các tế bào gốc biểu bì có khả  năng tự  tồn tại, tự tái 
sinh nhiều lần và nhanh trong suốt cuộc sống của con người. Giữa các tế bào  
sừng có các cầu nối gian bào làm kết nối chặt chẽ giữa chúng với nhau. Các 
tế  bào lớp đáy có cấu trúc cầu nối khác với các lớp  ở  trên, chúng có thể  dễ 
dàng bị xoá bỏ và cũng tự tái tạo lại để các tế bào sừng mới sinh ra di chuyển  
lên trên tạo ra các lớp tế  bào biệt hoá  ở  phía trên. Trong các tế  bào của lớp  


mầm biểu bì thì chỉ có 10% là tế bào mầm biểu bì còn lại là các tế bào đang ở 
các giai đoạn gián phân. Bình thường sự phân chia tế bào sừng lớp mầm cân  
bằng với sự  sừng hoá bong vảy của biểu bì nhưng khi da bị  tổn thương thì  
chúng tăng cường phân chia để tạo ra nhiều tế bào biểu mô. Các tế bào biểu  
mô sẽ di cư vào trung tâm của vết thương ở dạng đơn lớp cho đến khi các tế 
bào tiếp xúc trực tiếp với nhau thì tốc độ phân chia chậm lại và biệt hoá thành 
các lớp gai, lớp hạt, lớp sừng  ở phía trên để thực hiện chức năng bảo vệ của 
biểu bì. Trong quá trình di cư  chúng cần đệm gian bào đủ  chất lượng như 
trung bì, chúng cần có các sợi decorin, laminin…để bám vào và trượt dọc theo 
các sợi đó để di chuyển vào trung tâm vết thương. Trong trường hợp các vết  
thương mạn tính, cấu trúc đệm gian bào bị  tổn thương không hồi phục, vết 

thương trở  nên xơ  sợi, các nguyên bào sợi nghèo nàn hoặc không thể  thực 
hiện đầy đủ chức năng nên các tế bào biểu mô không thể phân chia hay di cư 
vào vết thương. Chính các mối tương tác chặt chẽ giữa hai loại tế bào trên mà  
trong điều trị cần chú ý tới các điều kiện để  cả hai cùng tăng sinh, cùng biệt 
hoá, cùng thực hiện chức năng liền vết thương thì vết thương mới nhanh liền.


Hình 1. Sơ đồ sự tăng sinh của nguyên bào sợi trong các giai đoạn khác nhau  
của quá trình liền vết thương
(Nguồn: Werner S et al (2003), Physiol. Re;83:835­870), [79].
A. 12­24 giờ  sau bị  thương, nguyên bào sợi quanh tổn thương được kích  
hoạt.

B. Từ   3­7   ngày   sau   bị   thương,   nguyên   bào   sợi   di   cư   vào   vùng   tổn  
thương, tăng sinh và tổng hợp đệm gian bào.
C.   Từ   1­2   tuần   sau   bị   thương,   mô   hạt   hình   thành,   nguyên   bào   sợi  
chuyển   dạng   thành   myofibroblast   gây   co   hẹp   vết   thương   và   tiết  
collagen. 
1.2. Công nghệ mô – tế bào làm lành vết thương
1.2.1. Tổn thương da và nhu cầu chế tạo chế phẩm điều trị vết thương


Như  chúng ta đã biết da là cơ  quan lớn nhất của cơ  thể và có vai trò là  
một cơ quan bảo vệ cơ thể trước các tác động với môi trường xung quanh. Da 
bảo vệ các cơ  quan phía dưới da và bảo vệ cơ thể chống lại các mầm bệnh 
và vi sinh vật. Da trực tiếp tiếp xúc với các yếu tố độc hại tiềm tàng như  vi  
khuẩn, nhiệt, các tác động cơ học và hóa học. Trong 25 năm qua, các cố gắng 
lớn đã tạo ra các vật liệu thay thế mang tính bắt chước da người [50].  Ở da  
công nghệ  mô, các vật liệu tổng hợp hay sinh học được kết hợp với các tế 
bào nuôi cấy để tạo ra các mô có chức năng của da [74]. 

Các vật liệu thay thế da này được chế  tạo dựa trên các tiến bộ về công 
nghệ  mô và đã được  ứng dụng trong lâm sàng, chúng thúc đẩy sự  liền vết 
thương cấp và mạn tính và được sử dụng như một cơ quan phức hợp cho hệ 
thống thử  nghiệm cơ bản hoặc các nghiên cứu về dược [59]. Một vấn đề chính 
trong việc tăng sinh tế  bào là đáp  ứng yêu cầu cần đạt đủ  số  lượng các tế  bào 
cần thiết, trong khi vẫn đảm bảo được tính chất bình thường của tế  bào và cả 
chức năng của chúng. Các tế bào này sau đó chỉ được sử dụng cho các mục đích  
hoặc là tạo vật liệu thay thế  da phù hợp cho cấy ghép hoặc là cho các thử 
nghiệm in vitro [27], [66]. 

Có rất nhiều lý do gây nên tổn thương da bao gồm các hội chứng do gen, 
chấn thương cấp tính, vết thương mạn tính hoặc các can thiệp ngoại khoa. 
Một trong các lý do phổ biến nhất là tổn thương da do bỏng. Ngay khi da bị 
tổn thương, hàng loạt các vấn đề phức hợp bắt đầu diễn ra: các tế  bào miễn 
dịch bị lôi kéo tới vùng thương tổn, mô đệm mới được sinh ra bởi nguyên bào 
sợi, tiếp theo là tái biểu mô hóa do tế bào sừng đảm nhiệm và cuối cùng là sự 
tái phân bố mạch của vết thương [54]. Quá trình liền vết thương phức tạp này 
được kích thích và kiểm soát bởi các cytokine và các yếu tố tăng trưởng khác  
nhau [25]. Kích thước vết thương là yếu tố  chủ  đạo cho biểu mô hóa. Tổn 
thương toàn bộ lớp da với kích thước lớn hơn 1 cm đường kính thì cần phải  


ghép da để  đề  phòng tạo sẹo dẫn đến di chứng về  chức năng hay thẩm mỹ 
[55]. Mảnh ghép hoàn hảo nên phải sẵn có, không gây đáp ứng miễn dịch, che  
phủ và bảo vệ nền vết thương, làm tăng nhanh liền vết thương, ít gây đau và  
ít tạo sẹo.
Trong trường hợp tổn thương diện tích rộng các tế  bào có chức năng 
liền vết thương của bệnh nhân không đủ  khả  năng làm lành tổn thương mà  
cần phải ghép da tự thân nhưng nguồn da tự thân cũng không phải vô hạn nên 
ghép da tự  thân cũng chỉ cứu được những bệnh nhân bỏng sâu 50% diện tích cơ 

thể là chủ yếu.

Trong lĩnh vực điều trị  bỏng và chấn thương lớn, mặc dù đã có nhiều  
tiến bộ trong cứu chữa như cắt hoại tử ­ ghép da ngay, tăng độ giãn rộng của  
da ghép [14], sử dụng da đồng loại hay các vật liệu thay thế da khác nhau [9],  
[10], [11], [12] nhưng các rối loạn về protein, thay đổi hệ  thống miễn dịch...  
làm cho vết thương trở nên chậm lành hay rất khó lành [2], [7].
Ngoài ra chúng ta còn gặp các loại vết thương mạn tính rất khó lành  
như các vết loét do tiểu đường, loét do viêm tắc tĩnh mạch, loét điểm tỳ, loét  
xạ trị… mà không thể can thiệp bằng phẫu thuật ghép da nguy cơ thất bại rất  
cao do khả năng tiếp nhận mảnh ghép của vết thương rất kém và tình trạng 
bệnh nhân không cho phép phẫu thuật. Số  lượng bệnh nhân này ngày càng 
tăng cao cùng sự  phát triển kinh tế ­ xã hội và tuổi thọ  con người [10], [26].  
Các vết thương này bị gián đoạn giai đoạn tăng sinh hoặc tế bào tham gia liền 
vết thương bị  chuyển dạng [7], [9], [13], [23], [38]. Để  khắc phục hạn chế 
này nhằm thay thế  các tế  bào đã tổn thương, công nghệ  nuôi cấy tế  bào da  
phát triển. 
Từ   những   năm   trước,   một   số   nhà   nghiên   cứu   cho   rằng   điều   trị   vết  
thương vết bỏng trong tương lai sẽ trở nên đơn giản, nhanh chóng và dễ dàng  
che phủ tổn thương sau cắt hoại tử. Nhưng thực tế, điều đó còn rất xa vời.  


Khái niệm này đã dẫn đến một số quan niệm sai trầm trọng dẫn đến việc đưa 
ra những hứa hẹn quá sớm về công nghệ  mô da mà chậm được nhận ra trên 
thực tế  lâm sàng. Khái niệm sai này là coi da như  một mô giống như  xương 
sụn và sẽ  liên quan đơn giản tới nơi có thay đổi về  công nghệ  mô. Dù da 
không phải là một mô nhưng là một tổ chức hoàn toàn tổng hợp mang đến bởi  
sự  kết hợp tế  bào từ  3 nguồn gốc phôi gồm ngoại bì trung bì và  ống thần  
kinh. Những thành công hiện đại về tạo ra những sản phẩm thay thế da đã trở 
nên bị hạn chế hơn so với mong đợi và bây giờ những sản phẩm da công nghệ 

mô đang được mô tả  như  vật liệu thay thế  da giúp liền vết thương và sửa  
chữa, thay thế da tạm thời và thường hỗ trợ  cho việc tái sinh. Quá trình liền  
vết thương, vết bỏng có nhiều cơ  chế phức tạp nhưng kết quả cuối cùng là 
tái lập các mô tế  bào đã bị  tổn thương. Do đó, quan niệm mới trong điều trị 
các tổn thương ở bất cứ cơ quan nào trên cơ thể là các tế bào tổn thương phải 
được thay thế bằng các tế bào khỏe mạnh [4].
Cho đến ngày nay, người ta đã chế  tạo được các tấm nguyên bào sợi, 
tấm tế bào sừng, thậm chí cả các tấm vật liệu chứa cả hai loại tế bào trên mà  
người ta gọi là các vật liệu tương đương da hoặc da nhân tạo…[57], [70]. 
Tuỳ  theo nguồn gốc tế  bào sừng trên tấm vật liệu là tự  thân hay khác gen  
đồng loài (gọi tắt là đồng loài) mà người ta chế  được vật liệu có tính chất  
vĩnh viễn (không thải ghép) hoặc tạm thời. 
Các tấm tế  bào da nuôi cấy hoặc vật liệu tương đương da được  ứng  
dụng trong điều trị bỏng, vết thương mạn tính trong thẩm mỹ  và nghiên cứu  
thuốc…. So với ghép da tử thi, các vật liệu này có thuận lợi lớn là không phụ 
thuộc nguồn da người cho, việc sản xuất chúng gần như  vô hạn và hầu như 
không có nguy cơ lây nhiễm bệnh do có thể kiểm soát trước được nguồn cho 
tế bào bằng các xét nghiệm tầm soát các bệnh lây truyền qua ghép mô/tế bào.  
Có hai thành phần chính của vật liệu tương đương da là thành phần khuôn và 


thành phần tế  bào. Thành phần khuôn hay  được sử  dụng là collagen, acid  
hyaluronic, polymer tổng hợp hoặc sinh tổng hợp. Thành phần tế bào bao gồm  
các tế bào da như nguyên bào sợi, tế bào sừng là hai tế bào chủ  yếu, ngoài ra 
có thể có tế bào sắc tố… Đã có những sản phẩm thương mại sẵn có trên thị 
trường như Epicell, Integra, Transcyte, Apligraft, Dermagraft…

1.2.2. Một số loại tế bào và vật liệu điều trị vết thương từ nuôi cấy tế bào
Trị liệu tế bào nói chung đã mang lại một số kết quả đáng kể trong lâm  
sàng, một số tế bào được nuôi cấy và ứng dụng phổ biến là: 

Tế bào sừng (Keratinocyte) Trong vài thập niên trở lại đây, cấy ghép tế 
bào sừng tự thân nuôi cấy đã được triển khai tại các trung tâm điều trị  bỏng 
lớn  ở  Anh, Mỹ, Nhật... Việc cấy ghép tế  bào sừng lên vết thương góp phần 
giải quyết sự thiếu hụt nguồn da lành. Thành công do ghép tế  bào sừng nuôi 
cấy còn nhiều hạn chế, do khi đặt tế bào sừng nuôi cấy lên vết thương bỏng  
sâu, nền vết thương thiếu các yếu tố trung bì do chưa hoặc hình thành chậm  
màng đáy. Để  khắc phục điều đó, người ta đã sử  dụng cấy ghép kết hợp  
fibroblasts và tế  bào sừng [40].  Ứng dụng tế  bào sừng nuôi cấy, người ta đã 
chế  tạo ra các tấm vật liệu thay thế biểu bì. Để  sản xuất vật liệu thay thế 
biểu bì, một mẩu da sinh thiết khoảng 2­5cm 2    cần phải được lấy từ  bệnh 
nhân. Công việc này có thể phải kết hợp với lần phẫu thuật cắt hoại tử của  
bệnh nhân bỏng. Rồi sau đó, biểu bì được tách khỏi lớp trung bì và các tế bào  
sừng đơn lẻ được phân lập nhờ enzyme và nuôi cấy cùng với nguyên bào sợi 
chuột đã bất hoạt khả năng phân chia. Môi trường nuôi cấy tăng sinh được sử 
dụng có chứa FBS và các chất cần thiết khác; tuy nhiên, cũng có thể làm tăng  
sinh các tế  bào này trong điều kiện không có tế  bào dị  loại. Hiện nay, đã có 
các vật liệu thay thế biểu bì tự  thân được thương mại hóa cho sử  dụng trên 
lâm sàng như: Epicel, EpiDex, EpiBase, MySkin, Laserskin, Bioseed­S.


Đã có một số nghiên cứu thử nghiệm ghép tế bào biểu bì đồng loại như 
Celaderm [17], [42]; tuy nhiên, hiệu quả và tính an toàn của các sản phẩm này 
phải được khẳng định bằng nghiên cứu lâm sàng có đối chứng. Các sản phẩm 
đồng loại có lợi ích là giảm chi phí sản xuất so với chi phí sản xuất sản phẩm  
tự thân. Hơn bao giờ hết, sự thiếu sót của cả hai sản phẩm là chúng khó bám 
và do đó dễ dẫn đến việc tạo thành nốt phồng [80]. 
Nguyên bào sợi (Fibroblasts)  là tế  bào có nguồn gốc trung mô, chúng 
sản sinh ra collagen có vai trò quan trọng trong quá trình sửa chữa vết thương, 
phục hồi cấu trúc và chức năng của mô [5].  Ở  mức độ  phân tử, lớp trung bì  
rất quan trọng cho các tế bào biểu bì  phát triển và trưởng thành chúng tiết ra  

các yếu tố như các sợi fibrin gắn kết, các yếu tố kết dính để gắn biểu bì vào 
trung bì. Vết bỏng sâu thiếu các thành phần trung bì hoặc lớp trung bì chưa  
hình thành hoặc hình thành chậm. Cần thiết phải tạo ra một lớp trung bì mới 
để tạo điều kiện cho da ghép tự thân hoặc tế bào sừng nuôi cấy che phủ lên 
vết thương cho kết quả tối  ưu nhất [40].  Hiện nay, các nhà nghiên cứu đều  
cho rằng, vật liệu thay thế  da lý tưởng nhất là phải thay thế  được cả  lớp 
trung bì và biểu bì. Sự tương tác giữa các yếu tố thuộc lớp biểu bì và trung bì 
sẽ  kích thích sự  trưởng thành của từng lớp. Boyce và Hansbrough đã tạo ra 
vật liệu thay thế da hỗn hợp (composite subtitues) g ồm nguyên bào sợi người 
nuôi cấy được cấy lên tấm màng collagen­glycosaminoglycan sau đó cho tế 
bào sừng phát triển lên trên, vật liệu này đã được thử nghiệm thành công trên  
mô hình chuột, nhưng còn một số hạn chế khi thử nghiệm lâm sàng. Một xu  
hướng khác, đơn giản hơn và không đòi hỏi cao về công nghệ đó là sử  dụng  
fibroblasts nuôi cấy đưa lên vết thương. Nguyên bào sợi sẽ  tổng hợp các 
thành phần của trung bì, tạo điều kiện cho việc ghép da tự  thân hoặc cấy 
ghép tế bào sừng thành công [33], [40], [70].  


Để điều trị bỏng sâu, cả lớp biểu bì và lớp trung bì của da cần được thay  
thế, việc điều trị bằng tấm tế bào biểu bì đơn thuần sẽ  dẫn đến chất lượng 
liền vết thương thấp. Tương phản với tấm biểu bì nuôi cấy, các cấu trúc 
trung bì từ  công nghệ  có thể  dự  phòng co kéo vết thương và tạo ra tính bền 
vững cơ  học tốt hơn. Vật liệu tương đương trung bì và biểu bì phải được 
ghép kế tiếp nhau việc làm cho tuần hoàn hóa trung bì tốt sau khi loại bỏ nền 
vết thương là cần thiết trước khi ghép lớp biểu bì [35]. Một số vật liệu này là 
mảnh ghép đồng loại đã được xử lý bằng hóa chất, ví dụ Alloderm không có  
thành   phần   tế   bào   gây   ra   đáp   ứng   miễn   dịch   thải   ghép   [77].   Ngược   lại, 
Dermagraft lại có các nguyên bào sợi từ da bao quy đầu của người được nuôi  
cấy trên lưới polyglactin có khả  năng giáng hóa [72]. Trong các vật liệu này,  
các tế  bào tiết protein  đệm gian bào, hàng loạt các yếu tố  tăng trưởng và 

cytokin vào trong vết thương cho đến khi chúng trải qua quá trình tự hủy bình 
thường sau vài tuần ghép. 
Purdue (1997) sử dụng tấm fibroblasts nuôi cấy là Dermagraft và so sánh  
với ghép da tử thi cho 66 bệnh nhân bỏng sâu được cắt hoại tử. Tác giả nhận  
thấy, tấm fibroblasts nuôi cấy có kết quả tốt tương đương với da tử thi trong  
việc hình thành mô hạt, kết quả  về  da ghép tự  thân là tương đương, nhưng  
tấm fibroblasts dễ  bóc khỏi mô hạt để  ghép da tự  thân nên không gây chảy 
máu như  da tử  thi. Tiếp tục theo dõi di chứng bỏng, tác giả  nhận thấy vùng 
ghép fibroblasts có kết quả  rất tốt về  thẩm mỹ  [61]. Hansbrough (1997) đã 
đánh giá khả  năng của Dermagraft che phủ vết bỏng sau cắt hoại tử trên 10 
vết thương có so sánh với da tử  thi. Tác giả  nhận thấy, khả  năng bám dính, 
khả  năng sống của Dermagraft là tương đương da tử  thi, kết quả  da ghép  
sống tương đương vùng ghép da tử  thi. Không thấy có biểu hiện thải loại  
miễn dịch trong khi 4/10 vùng ghép da tử thi có biểu hiện thải loại lớp thượng 
bì [33].


1.3. Vai trò tế bào gốc trong liền vết thương 
Mặc dù có nhiều tiến bộ đáng kể trong y tế và chăm sóc vết thương bằng  
các can thiệp ngoại khoa, việc điều trị  các tổn khuyết da diện rộng và vết 
thương mạn tính vẫn còn là thách thức lớn với y học hiện nay.  Trong liền vết 
thương, tế bào gốc trung mô được xác định là chúng biệt hóa thành các dạng 
tế bào da khác nhau [65]. Đã và đang có rất nhiều người quan tâm cả về khoa 
học nghiên cứu và lĩnh vực lâm sàng điều trị vết thương về tiềm năng và vai 
trò của các trị  liệu tế  bào dựa trên MSC trong việc kích thích tăng nhanh quá 
trình sửa chữa và tái tạo mô vết thương. Các nghiên cứu với MSC tủy xương 
đã cho thấy việc điều trị  vết thương bằng tế  bào MSC tủy xương đều làm 
tăng nhanh quá trình liền vết thương, tăng quá trình biểu mô hóa và tăng tạo 
mạch [26], [82]. Người ta thấy. MSC làm tăng nhanh liền vết thương ở cả vết  
thương cấp tính  ở  chuột có tăng và không gây tăng đường máu và cả   ở  vết  

thương cấp tính trên người [26].  
Các nghiên cứu gần đây gợi ý rằng, MSC có khả  năng tiết ra nhiều  
cytokin và các chất hóa ứng động khác nhau vốn có vai trò quan trọng cho hoạt  
động sửa chữa mô, thậm chí trên cả các mô hình tổn thương thận và não [73]. 
MSC làm nhanh quá trình liền vết thương là do ít nhất có 2 cách thức khác  
nhau bao gồm thông qua tăng biệt hóa tế bào và thông qua các tín hiệu ngoại  
lai. Các MSC tủy xương đã được báo cáo là có thể biệt hóa thành tế bào sừng 
trong các nghiên cứu có sử  dụng EGFP [82]. Trong các vết thương này, một 
phần trăm các tế bào có biểu hiện EGFP dương tính ở  cả  trung bì và biểu bì 
cũng có biểu hiện với keratin vốn là marker chuyên biệt của tế bào sừng. Tuy  
nhiên, với tỷ  lệ  được đưa ra là quá thấp nên MSC vẫn chưa được coi chắc 
chắn là có trách nhiệm đối với quá trình sửa chữa mô thông qua tăng biệt hóa 
chuyển dạng và tái sinh hoặc phá hủy mô [58], [82]. Những chứng cớ tích cực  
hơn cũng đã cho thấy, MSC có thể thúc đẩy liền vết thương thông qua các tín 


hiệu ngoại lai được tiết ra mà cải thiện các đáp ứng với tổn thương của các  
tế bào da cư trú tại đó. Các báo cáo gần đây bắt đầu xác định những tương tác 
ngoại lai này giữa MSC và các dạng tế bào chuyên biệt khác trong vết thương  
da [15], [22], [81]. Khi nghiên cứu các vết thương được điều trị bằng dịch nổi  
nuôi cấy MSC (dịch chiết ngoại bào MSC), các tác giả  nhận thấy dịch chiết  
ngoại bào MSC đã làm vết thương nhanh đóng kín và nó tăng hấp dẫn với các  
đại thực bào và các tế bào nội mô đầu dòng thâm nhập đến vết thương [22]  
và các thí nghiệm in vitro chỉ  ra rằng dịch ngoại bào MSC cũng thúc đẩy tế 
bào sừng và tế bào nội mô tăng sinh. Hơn nữa, MSC tủy xương còn tiết ra các 
chất hóa  ứng động với đại thực bào, tế  bào sừng và các tế  bào nội mô. Các  
quan sát này rõ ràng chỉ  ra rằng MSC tủy xương là một nguồn các tín hiệu  
ngoại lai có tác dụng điều khiển các đáp ứng tế bào quan trọng trong sửa chữa 
vết thương da. 
Do đó,   một   trong   những   hướng   nghiên   cứu   khác   trong   điều   trị   vết 

thương là sử dụng các tế bào gốc. Người ta thấy chúng đảm nhiệm việc đánh 
giá sự thiếu hụt sinh lý học về các thành phần đệm và các cytokine, chúng sửa  
chữa các thiếu hụt đó bằng cách tạo ra những yếu tố thích hợp thúc đẩy liền  
vết thương. Điều này có nghĩa là tế  bào gốc hoạt động như  một cỗ  máy có  
kiểm soát tương tác các thông tin ngược một cách thông minh có thể  tự  điều 
chỉnh hệ  thống sinh học. Tủy xương, máu ngoại vi, máu cuống rốn đều đã 
được nghiên cứu sử dụng trong điều trị vết thương mạn tính để thúc đẩy các 
đáp ứng liền vết thương [75].
Tế  bào gốc là những tế  bào chưa có chức năng chuyên biệt, chúng có  
tiềm năng phát triển thành nhiều loại tế bào khác nhau và có khả năng tự thay  
mới. Đây là các tế bào còn chưa hay rất ít biệt hoá nên chúng có khả năng biệt 
hoá theo nhiều hướng và tạo ra nhiều loại tế bào khác nhau. Ngoài ra, chúng  
cũng có khả năng tự sinh ra các tế bào giống hệt nó. Thông thường các tế bào  


phân chia theo phương thức nhân đôi đối xứng tạo ra hai tế  bào giống hệt 
nhau về  mức độ  biệt hoá. Tế  bào gốc không chỉ  có khả  năng phân chia đối  
xứng mà còn có khả  năng phân chia không đối xứng thành hai tế  bào khác  
nhau, trong đó một tế  bào giữ  nguyên mức độ  biệt hoá cũng như  giữ  nguyên 
vai trò là tế bào gốc và một tế bào thứ hai đã biệt hoá hơn, chúng sẽ tiếp tục  
biệt hoá thành các tế  bào tiền thân để  sau đó phát triển thành tế  bào chuyên  
biệt tham gia vào cấu trúc và chức năng của mô, cơ quan. Nhờ đó mà số lượng 
tế bào gốc được duy trì hoặc tăng lên chứ không mất đi do quá trình biệt hoá  
tế bào.
Những nghiên cứu về  tế  bào gốc đã chứng minh, hàng ngày cơ  thể 
chúng ta thay thế những tế bào già chết là do nguồn tế bào gốc biệt hoá thành  
những tế bào chức năng. Khi bị thương các tế bào gốc từ các ổ (niche) có thể 
ở gần vết thương hoặc từ các mô khác nhau như tuỷ xương… sẽ di cư đến và 
biệt hoá thành các tế  bào chuyên biệt có  chức năng liền vết thương. Khi  
nguồn tế bào gốc này không đủ đáp ứng với những tổn thương tế bào do tổn 

thương diện tích rộng, do cơ thể bị suy yếu… thì hậu quả là gây ra những vết 
thương vết loét lâu lành, thậm chí không liền được. Do đó công nghệ  tế  bào 
gốc đang mang lại những hy vọng lớn trong việc khắc ph ục nh ững nan gi ải  
hiện nay trong liền vết thương.   
Những tế bào gốc phôi có tiềm năng lớn thay thế toàn bộ các tế bào chức  
năng của cơ  thể. Nhưng việc sử  dụng tế bào gốc phôi vào lĩnh vực liền vết  
thương hay bất cứ lĩnh vực nào khác đang gặp phải những vấn đề về đạo đức,  
cần có nguồn thay thế. Hơn nữa, một báo cáo gần đây cho thấy tế bào gốc phôi 
của người trong nuôi cấy có biểu hiện protein không phải của người và giả 
thiết đặt ra là có thể  từ  protein chuột từ fibroblasts chuột của lớp nuôi (feeder  
layer), do đó tính an toàn của tế bào gốc phôi còn phải tiếp tục nghiên cứu [51].
Một số nguồn tế  bào gốc khác nhau từ  máu cuống rốn, tế  bào gốc máu  


ngoại vi và tuỷ  xương cũng đang được nghiên cứu [19], [32], [37], [75]. Một  
nghiên cứu trên in vivo chỉ ra rằng sự tổng hợp collagen và mức độ  bFGF và  
VEGF trong tế bào Stroma của tuỷ xương cao hơn rất nhiều so với fibroblasts  
trung bì. Điều này gợi ý khả  năng sử  dụng tế  bào tuỷ  xương tại chỗ  vết  
thương để thúc đẩy liền vết thương.
Một nghiên cứu trên in vivo chỉ ra rằng sự tổng hợp collagen và mức độ 
bFGF và VEGF trong tế bào Stroma của tuỷ xương cao hơn rất nhiều so v ới  
fibroblasts trung bì. Điều này gợi ý khả  năng sử  dụng tế  bào tuỷ  xương tại  
chỗ vết thương để thúc đẩy liền vết thương [32].
Tuy nhiên có tác dụng liền vết thương vết bỏng nhưng các nguồn tế 
bào gốc từ các mô của cơ  thể như máu tuỷ  xương, máu ngoại vi, máu cuống  
rốn, não, mỡ, gan… đều rất hạn chế về số lượng nên tính ứng dụng chưa cao. 
Trong khi đó, khai thác các nguồn tế bào gốc trung mô trưởng thành cũng đang 
là một trong những hướng nghiên cứu điều trị  vết thương. Ngoại trừ  các  
trường hợp ghép tế bào gốc trung mô đồng loại vốn sẵn có nguồn tế bào rất 
trẻ như tế bào gốc trung mô từ màng ối, dây rốn và máu cuống rốn thì đối với  

các trường hợp ghép tế  bào gốc trung mô tự  thân chỉ  có thể  lấy từ  2 nguồn  
chính là tủy xương và mô mỡ, các nguồn khác từ mô gan, não và cơ hầu như 
không có khả năng  ứng dụng trong điều trị vết thương. Nguồn tế bào gốc từ 
tuỷ  xương chủ  yếu là tế  bào gốc tạo máu đã và đang được  ứng dụng trong 
điều trị các bệnh về  cơ  quan tạo máu nhưng chúng có rất ít các tế  bào trung 
mô vốn tham gia vào việc tái tạo vết thương. Tuy có một số  nghiên cứu cho 
thấy tế bào gốc trung mô tủy xương làm tăng khả năng liền vết thương mạn  
tính nhưng tính ứng dụng chưa cao bởi rất hạn chế về số lượng tế bào trung  
mô. Do đó tế  bào gốc trung mô từ  mô mỡ  được coi là nguồn tế  bào gốc  
trưởng thành tự thân lý tưởng cho các nghiên cứu về y học tái tạo, công nghệ 
mô và liền vết thương.


1.4. Tế bào gốc trung mô từ mô mỡ
Tế  bào gốc mô mỡ  được xác định là tế  bào gốc trung mô. Tế  bào gốc 
trung mô lần đầu tiên được mô tả  là dạng tế  bào từ  tủy xương có khả  năng  
tạo dòng, bám dính bề  mặt nuôi cấy [31] mà có khả  năng biệt hóa thành tế 
bào mỡ, tế bào sụn và tế  bào xương [56]. Sau đó , chúng được xác định là có 
mặt ở rất nhiều mô cơ quan khác nhau như cơ, não, và mô mỡ [52]. Ngày nay, 
tế bào gốc trung mô từ tủy xương và mô mỡ được xác định là rất giống nhau 
về quần thể tế bào và kiểu hình tế bào [52]. 
Tế  bào gốc đa tiềm năng đã được phát hiện trong mô mỡ  của người và 
được gọi là tế  bào gốc mô mỡ. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử 
dụng tế  bào gốc mô mỡ  có thể  điều trị  một số  bệnh về  khớp, mà liệu pháp 
điều trị khác không thành công. Mô mỡ còn được sử dụng để tạo hình một số 
bộ  phận trong cơ  thể  như  ngực, má, cằm. Đây được coi như  là cuộc cách 
mạng trong lĩnh vực tạo hình thẩm mỹ. Tế bào gốc mô mỡ  thể hiện các đặc 
điểm của tế  bào gốc trung mô như  hình thái dạng nguyên bào sợi, là tế  bào  
bám bề  mặt nuôi cấy, có các dấu  ấn biệt hóa của tế  bào trung mô, có khả 
năng biệt hóa thành tế bào mỡ, tế bào sụn, tế bào cơ…Do mô mỡ  là loại mô  

sẵn có với số lượng lớn và dễ dàng thu hồi mà ít gây những bất lợi cho bệnh  
nhân nên tế bào gốc mô mỡ có thể sẽ là nguồn tế bào đầy hứa hẹn cho y học  
tái tạo trong tương lai đặc biệt các trường hợp sử dụng ghép tự thân. Các nhà  
nghiên cứu đề xuất nhiều cách thức phân lập tế bào gốc mô mỡ khác nhau, có 
tác giả  phân lập theo cách kinh điển là nuôi mô mỡ  trong đĩa nhựa có môi  
trường dinh dưỡng và chờ  cho tế bào tự mọc từ các mẩu mô ra và thu các tế 
bào có hình sao hoặc hình thoi là tế  bào gốc trung mô. Có tác giả  lại dùng 
collagenase để  phá hủy cấu trúc mô sau đó ly tâm lọc lấy các tế  bào. Môi 
trường nuôi cấy cũng được công bố  theo nhiều công thức khác nhau, các tác  
giả   dùng   môi   trường   cơ   bản   khác   nhau   như   DMEM,   DMEM­F12,  


×