1
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Tên đề tài nghiên cứu của luận án: “Phát triển ý tưởng sáng
tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện
nay, được tác giả trăn trở suy nghĩ trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu. Đây là một công trình khoa học có tính mới, độc lập,
không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố ở trong và
ngoài nước. Cùng với ý tưởng của mình và sớm có sự trao đổi,
định hướng của tập thể cán bộ hướng dẫn khoa học, tác giả quyết
định lựa chọn đề tài này làm vấn đề nghiên cứu trong luận án, từ
đó có thể đem lại những giá trị hữu ích cho hoạt động đào tạo,
nghiên cứu và quản lý sau đại học. Đề tài góp phần làm sáng tỏ
một số nội dung, đặc điểm và tính quy luật phát triển ý tưởng sáng
tạo của nghiên cứu sinh; phân tích làm rõ thực trạng, chỉ ra những
nhân tố tác động và các yêu cầu, đề xuất hệ thống giải pháp nhằm
phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và
nhân văn quân sự. Những vấn đề được trình bày trong luận án là sự
kế thừa có chọn lọc từ các công trình nghiên cứu trước đó của tập
thể và cá nhân các nhà khoa học có liên quan đến đề tài luận án.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất trong xã hội thông
tin hiện nay là trình độ tư duy, tri thức, tư tưởng của con người
đang có những bước phát triển mạnh mẽ, theo hướng "tổ chức,
quản lý, sáng tạo và đổi mới" dựa trên cơ sở của những ý tưởng
mới lạ, độc đáo, hữu ích. Theo đó, vấn đề phát triển ý tưởng sáng
tạo xét trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn đã và đang trở
thành nhân tố chi phối, điều khiển và tạo ra động lực thúc đẩy quá
trình phát triển đời sống con người trong xã hội hiện đại. Bởi vì ý
tưởng vừa là nền tảng phát triển vừa là yếu tố sản xuất, hầu hết
các sản phẩm vật chất và tinh thần được làm ra trong thời đại ngày
nay đều có xu hướng kết tinh, hội tụ trong đó hàm lượng tri thức,
trí tuệ, chất xám ngày càng cao, vì thế vấn đề phát triển ý tưởng
sáng tạo ngày càng được coi trọng và phát huy một cách tối đa.
2
Phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học
xã hội và nhân văn quân sự có vai trò quan trọng tạo ra chất lượng
mới về tư duy, trí tuệ, khả năng sáng tạo trong hoạt động lý luận
và thực tiễn chính trị quân sự của người học ở hiện tại và tương
lai. Từ đó, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, yêu cầu, nhiệm
vụ đào tạo trình độ tiến sĩ; làm tăng chất lượng nguồn nhân lực
bậc cao cho Đảng, Nhà nước về khoa học xã hội và nhân văn quân
sự, chuyên sâu về khoa học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý
luận về đường lối quân sự của Đảng. Nhận thức rõ về vấn đề
này, các chủ thể phát triển thường xuyên quan tâm, coi trọng sự
phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh trong quá trình học
tập, nghiên cứu lý luận và đã đạt được một số kết quả rất đáng
khích lệ.
Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn, phát triển ý tưởng
sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
vẫn còn tồn tại hạn chế, bất cập về hàm lượng khoa học, tính mới,
độc đáo và hữu ích còn chưa đậm độ, sự phá cách, tính đột phá chưa
rõ ràng; việc tìm tòi, khám phá ra ý tưởng mới về hướng nghiên cứu,
tiếp cận mới hoặc các quan điểm, giải pháp, cách diễn dịch mới còn
hạn chế; vẫn còn hiện tượng trùng lặp khá rõ về nội dung, hình
thức kết cấu trong các sản phẩm, công trình khoa học của nghiên
cứu sinh làm ảnh hưởng không tốt đến chất lượng đào tạo và nghiên
cứu khoa học.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, của cuộc cách
mạng khoa học, công nghệ hiện đại và trước yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước tiếp tục đặt ra cho khoa học xã hội và nhân văn quân
sự cần làm sáng tỏ trên hai phương diện lý luận và thực tiễn về
quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, lực lượng, sức mạnh, phương
thức bảo vệ Tổ quốc; nội dung xây dựng nền quốc phòng, thế trận
quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc; quan điểm, phương châm xây dựng Quân đội về chính trị; bổ
sung, phát triển, hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội; những
3
vấn đề chính trị quân đội nước ngoài; đối ngoại quốc phòng, quân
sự trong tình hình mới.
Vì thế, nghiên cứu làm rõ sự phát triển ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự làm cơ sở
cho xây dựng đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học, cán bộ lãnh đạo,
quản lý có trình độ tư duy lý luận cùng với khả năng vận dụng,
sáng tạo tri thức mới, áp dụng vào hoạt động giảng dạy, nghiên
cứu, lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, giáo dục bộ đội; giải quyết đúng
đắn, kịp thời đòi hỏi từ thực tiễn hoạt động chính trị quân sự và
cuộc sống; góp phần vào xây dựng quân đội cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, vững mạnh về chính trị trong tình
hình mới, là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết, được tác giả lựa chọn đề
tài này để nghiên cứu trong khuôn khổ luận án tiến sĩ chuyên ngành
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: góp phần gia tăng hiệu quả phát
triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân
văn quân sự, đáp ứng yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo
tiến sĩ ngành khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ các vấn đề về ý tưởng, ý tưởng sáng tạo; lập luận,
phân tích, khái quát về thực chất và tính quy luật phát triển ý tưởng
sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Đánh giá thực trạng, nguyên nhân, chỉ ra yếu tố tác động,
xác định các yêu cầu trong trong phát triển ý tưởng sáng tạo của
nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát huy nhân tố tích
cực và khắc phục những hạn chế, bất cập trong phát triển ý tưởng
sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: phát triển ý tưởng sáng tạo của
nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
* Phạm vi nghiên cứu: những vấn đề liên quan đến phát
triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân
văn quân sự trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học; đề tài
4
sử dụng các tài liệu, số liệu điều tra, khảo sát chủ yếu là từ năm
2008 đến nay (tập trung vào nghiên cứu sinh là cán bộ, sĩ quan quân
đội), không nghiên cứu, tìm hiểu nghiên cứu sinh dân sự.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận án: là hệ thống các quan điểm,
nguyên tắc của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, nghị quyết của Đảng uỷ
quân sự Trung ương về giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ; về
xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng và phát huy nguồn lực con
người, các công trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn của luận án: là tình hình thực tiễn phát
triển ý tưởng sáng tạo, các kết quả điều tra khảo sát của tác giả và
những số liệu báo cáo, tổng kết của các cơ quan đơn vị có liên
quan trực tiếp đến đề tài luận án.
* Phương pháp nghiên cứu: đề tài luận án vận dụng hệ
thống phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử; hệ thống phương pháp nghiên cứu về tư duy (phức
hợp, đột phá, tích cực, độc lập…); phương pháp luận nghiên cứu
khoa học và các phương pháp khoa học liên ngành; ngoài ra đề tài
còn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng
hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống cấu trúc, lô gích
lịch sử, phương pháp nghiên cứu tài liệu, điều tra xã hội học,
phỏng vấn và xin ý kiến chuyên gia,v.v.
6. Những đóng góp mới của luận án
Bổ sung, làm rõ đặc trưng của ý tưởng và ý tưởng sáng tạo, xây
dựng khái niệm về ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh; chỉ ra đặc
điểm và tính quy luật phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh
khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Đánh giá thực trạng, làm rõ nhân tố tác động, chỉ ra các yêu
cầu có tính nguyên tắc; đề xuất giải pháp cơ bản, đồng bộ nhằm
phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và
nhân văn quân sự hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận: với kết quả nghiên cứu của luận án góp
phần giải quyết làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về phát triển ý
5
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn
quân sự.
* Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu luận án cung cấp
cơ sở khoa học trong việc thực hiện các giải pháp góp phần thúc
đẩy quá trình triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học
xã hội và nhân văn quân sự hiện nay; kết quả của đề tài có thể
dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động giáo dục đào
tạo, nghiên cứu khoa học và quản lý đào tạo sau đại học ở các học
viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu của công trình gồm: phần mở đầu; tổng quan về vấn
đề nghiên cứu; nội dung bố cục thành 3 chương (7 tiết); kết luận; các
công trình khoa học đã công bố; danh mục tài liệu tham khảo; phụ
lục.
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu ở
nước ngoài liên quan đến phát triển ý tưởng sáng tạo
Tác giả S.E.Frost với tác phẩm “Những vấn đề cơ bản của
triết học”; hai tác giả Bobbi Deporter & Mike Hernacki với các tác
phẩm “Phương pháp tư duy siêu tốc”,“Phương pháp học tập siêu
tốc” và “Phương pháp ghi nhận siêu tốc”; hai nhà sưu tập ý
tưởng, Chip Health và Dan Health với tác phẩm “Tạo ra thông
điệp kết dính”; tác giả Michael Michalko với tác phẩm “Đột phá
sức sáng tạo”; Ronald Gross với tác phẩm "Học tập đỉnh cao"; tác
giả Thomas Amstrong với tác phẩm “7 loại hình thông minh”; tác
giả Tony Buzan, nhà phát minh ra những sơ đồ tư duy với các tác
phẩm: “10 cách đánh thức tư duy sáng tạo" ,"Sơ đồ tư duy", “Hướng
dẫn sử dụng bản đồ tư duy”, “Sách hướng dẫn kỹ năng học tập theo
phương pháp Buzan”; tác giả Virender Kapoor với tác phẩm “PQ
Chỉ Số Đam Mê”; tác giả Michael J.Geblb với tác phẩm “Khám phá
thiên tài trong bạn”; Tập thể tác giả Helga Nowotny Peter Scott
Michael Gibbons với tác phẩm “Tư duy lại khoa học”; Hai tác giả
Gordon Mace & Francois Petry trong tác phẩm “Cẩm nang xây
dựng dự án nghiên cứu trong khoa học xã hội”. Các tác giả đã có
sự nghiên cứu, tìm hiểu về ý tưởng và ý tưởng sáng tạo của con
người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, họ đã giải
6
phẫu các ý tưởng và giải thích các phương pháp khiến cho ý tưởng
mới nảy nở và trở nên hợp lý, hiệu quả hơn trong cuộc sống ; các
tác giả còn chỉ ra phương pháp, cách thức tạo ra ý tưởng, đưa ra
một số chiến lược về tư duy sáng tạo và tổ chức tư duy trên cơ sở
các chiến lược phát khởi những ý tưởng. Theo các tác giả muốn
phát triển các ý tưởng, chúng ta cần rèn luyện tư duy, tăng cường
quan sát, rèn luyện trí tưởng tượng, liên tưởng; tạo ra sự thông thái,
nhạy cảm của hệ thống thần kinh; thường xuyên ghi chép, đồ hoạ,
lập biểu đồ để lưu lại những suy nghĩ, ý nghĩ nảy sinh đến và giữ
lấy những ý tưởng nảy sinh, học cách khái quát ý tưởng, loại bỏ
những nhận thức cũ, lỗi thời, tiến đến những cách thức nhận thức
mới, sáng tạo hơn phù hợp với cuộc sống hiện đại.
2. Những công trình khoa học tiêu biểu trong nước
nghiên cứu về phát triển ý tưởng sáng tạo
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia
với “Giáo trình triết học Mác Lênin”; Nhóm nghiên cứu của
Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia với tác phẩm
“Tư duy phát triển hiện đại: Một số vấn đề lý thuyết và thực
tiễn”; Đồng tác giả Vũ Đình cự và Trần Xuân Sầm với tác phẩm
“Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức”; Tác giả Phan Dũng
với bộ sách "Sáng tạo và đổi mới" gồm 7 tác phẩm: "Phương
pháp luận sáng tạo và đổi mới" , "Thế giới bên trong con người
sáng tạo", "Tư duy lôgíc, biện chứng và hệ thống", "Các thủ
thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản phần 1”, "Các thủ thuật
(nguyên tắc) sáng tạo cơ bản phần 2”, "Các phương pháp sáng
tạo" , "Các quy luật phát triển hệ thống" hay (Các quy luật sáng
tạo và đổi mới);Tác giả Nguyễn Đình Gấm với bài viết: “Sáng
tạo phẩm chất nhân cách hàng đầu của con người trong xã hội
hiện đại”; Hai tác giả Việt Phương và Thái Ninh với tác phẩm "IQ
EQ nền tảng của sự thành công"; Tác giả Lê Văn Quang với tác
phẩm "Phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo khoa học trong đào
tạo sau đại học". Tác giả Hoàng Chí Bảo chủ biên tác phẩm “Dân
chủ trong Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn”.v.v.
Trong các công trình khoa học các tác giả đã có nhiều đóng
góp trong việc làm rõ về mối quan hệ giữa ý tưởng với ý thức,
nhận thức, tư duy và thực tiễn; chỉ ra các biện pháp cách thức nâng
cao trình độ tri thức, rèn luyện kỹ năng, phương pháp tư duy, bảo
đảm các điều kiện cần và đủ để hình thành ý tưởng sáng tạo.
7
3. Những công trình khoa học trong nước nghiên cứu về
đào tạo trình độ tiến sĩ ở các ngành khoa học trong đó có khoa
học xã hội và nhân văn
Nhóm tác giả Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Thị Hồng Hà với
tác phẩm “Nho Giáo đạo học trên đất kinh kỳ Thăng long Hà Nội”;
Bộ Giáo dục Đào tạo với kỷ yếu Hội thảo: “ Gắn kết nghiên cứu
khoa học với đào tạo tiến sĩ trong các cơ sở đào tạo sau đại học”; Học
viện chính trị với các sách: “Những vấn đề cơ bản nâng cao chất lượng
đào tạo sau đại học ở Học viện Chính trị quân sự”, “Đào tạo sau đại
học ở Học viện Chính trị quân sự Thành tựu và triển vọng”, “Đào
tạo sau đại học ở Học viện Chính trị quân sự (19862005) Thành tựu
và kinh nghiệm”, “Nâng cao chất lượng tạo nguồn đào tạo thạc sĩ, tiến
sĩ các ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự trong quân đội hiện
nay”; Lê Quý Trịnh với các đề tài: “Đổi mới nâng cao chất lượng đào
tạo thạc sĩ, tiến sĩ khoa học xã hội nhân văn ở Học viện Chính trị thời
kỳ mới”, “Phát huy tư duy độc lập của nghiên cứu sinh trong thực hiện
luận án tiến sĩ ở Học viện Chính trị hiện nay”; Phạm Văn Sơn với đề
tài: ”Gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo tiến sĩ ở Học viện Chính trị
hiện nay”. Với các góc độ khác nhau trong các công trình đó đã đề cập
đến nhận thức, tư duy, ý tưởng, tính độc lập, sáng tạo của nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Đồng thời, các công trình đó
còn chỉ ra chất lượng đào tạo tiến sĩ, đặc biệt là trình độ tri thức,
phương pháp tư duy, sức sáng tạo và những đóng góp mới về mặt khoa
học trong các công trình khoa học của nghiên cứu sinh không chỉ phụ
thuộc vào quá trình đào tạo mà còn phụ thuộc rất lớn vào hoạt động
nghiên cứu khoa học.
4. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học đã công bố và những vấn đề luận án cần tập
trung nghiên cứu, giải quyết
Thứ nhất, có nhiều cách quan niệm về ý tưởng và ý tưởng sáng
tạo ở các công trình nghiên cứu trước đây, nhưng cơ bản đều thống
nhất với nhau về lý luận, phương pháp tiếp cận ý tưởng sáng tạo. Sự
đề cao tri thức, phương pháp, kỹ năng tư duy, sức sáng tạo, trí tuệ,
thái độ... trong sản sinh ý tưởng, các công trình nghiên cứu đó chủ yếu
chỉ đề cập đến, vị trí vai trò, cách thức, giải pháp, quy trình nảy sinh ý
tưởng sáng tạo, hầu như không đi sâu vào khái niệm, học thuật, chỉ
đưa ra cách thức để có ý tưởng và hiện thực hóa chúng thành các sản
8
phẩm vật chất hay tinh thần, không chú ý bàn đến nguồn gốc, bản
chất và mối quan hệ của ý tưởng với các yếu tố khác.
Theo chúng tôi để tiếp cận ý tưởng sáng tạo một cách toàn
diện, sâu sắc, cần coi trọng cả về tri thức, tư duy, trí tuệ và giá trị
tính mới, hữu ích, tính khoa học, độc đáo; trong nghiên cứu cần làm
rõ mối quan hệ giữa ý tưởng với ý thức, nhận thức, tư duy sáng
tạo, tư duy khoa học và thực tiễn; làm rõ đặc trưng, hệ thống cấu
trúc và xu hướng các yếu tố cấu thành ý tưởng sáng tạo, từ đó làm
cơ sở để nghiên cứu khái niệm ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự và chỉ ra các yếu tố mang
tính đặc thù riêng, cần có sự so sánh, phân biệt giữa ý tưởng sáng
tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự với ý
tưởng của các nghiên cứu sinh ở các ngành khác; làm rõ giá trị ý
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn
quân sự, những cống hiến đóng góp sáng tạo có những ích lợi, tác
dụng như thế nào đối với đời sống xã hội và quân đội.
Thứ hai, trên thực tế, ý tưởng sáng tạo đã được nhiều nhà
khoa học trên thế giới nghiên cứu và ứng dụng trong các ngành
khoa học và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Còn ở nước ta,
nghiên cứu về ý tưởng bước đầu đem lại hiệu quả rõ rệt, nhưng
chủ yếu là cứu nghiên ứng dụng ở các ngành khoa học, chúng ta
gọi chung là khoa học sáng tạo hay sáng tạo khoa học, khoa học
đổi mới sáng tạo, chúng ta đã thành lập các trung tâm, câu lạc bộ
về khoa học sáng tạo, có các trang website về ý tưởng sáng tạo, có
chương trình truyền hình mỗi ngày một ý tưởng, xuất bản nhiều
ấn phẩm, sách báo nói về ý tưởng... Được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm khuyến khích trong lĩnh vực này, nên hàng năm có nhiều
đơn vị, tổ chức kinh tế xã hội tiến hành triển khai các cuộc thi về
ý tưởng sáng tạo rộng khắp trong các lĩnh vực, ngành nghề, đã thu
hút được nhiều lực lượng tham gia.
Song, việc đề cập đến ý tưởng và các công trình nghiên cứu
chuyên sâu về ý tưởng sáng tạo ở nước ta chủ yếu là đi vào nghiên
cứu ứng dụng, triển khai, nghiên cứu cơ bản chưa được coi trọng
đúng mức và còn để ngỏ. Do đó, nghiên cứu về ý tưởng sáng tạo,
tìm ra các giải pháp phát triển ý tưởng sáng tạo cho các chủ thể
trong xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu
khoa học, giảng dạy, quản lý giáo dục đào tạo là rất cần thiết.
9
Các đề tài khoa học đã công bố chủ yếu nghiên cứu về tư duy sáng
tạo, năng lực, phát huy tính sáng tạo... chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu riêng về ý tưởng sáng tạo của con người (đối
tượng được đào tạo) trong các cơ sở đào tạo trình độ tiến sĩ của
các học viện, nhà trường quân đội. Phát triển ý tưởng sáng tạo của
nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay là
đề tài đầu tiên nghiên cứu cơ bản về ý tưởng sáng tạo và phát
triển ý tưởng sáng tạo của một đối tượng cụ thể là nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Thứ ba, Phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh
khoa học xã hội và nhân văn quân sự vừa là hoạt động có mục đích,
là hoạt động nhận thức và chủ động cải tạo của chủ thể đối với
hiện thực, vừa bao chứa trong đó sự vận động phát triển tự thân
của nghiên cứu sinh đưa ra những cống hiến, đóng góp mới về lý
luận. Các chủ thể trên cơ sở có nhận thức đúng về quy luật khách
quan của sự vận động phát triển, để có những phương cách tác
động phù hợp thúc đẩy quá trình phát triển ý tưởng sáng tạo của
nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự, đáp ứng với
đòi hỏi của thực tiễn đổi mới căn bản, toàn diện đào tạo trình độ
tiến sĩ và nghiên cứu khoa học trong tình hình mới.
Thứ tư, thực tiễn đào tạo trình độ tiến sĩ khoa học xã hội và
nhân văn quân sự, trong đó có một số sản phẩm khoa học của
nghiên cứu sinh ít có những đóng góp mới, thiếu tính thiết thực ,
hữu dụng; biểu hiện trùng lặp, giao thoa, đạo văn, giống nhau về
mô típ, cấu trúc hoặc sai sót về trật tự, kết cấu lô gích. Điều đó
đặt ra cho tác giả trong quá trình công tác, học tập, nghiên cứu luôn
có những trăn trở, suy tư, làm thế nào tìm ra những cách thức, giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng đào
tạo sau đại học.
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO
CỦA NGHIÊN CỨU SINH KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ
10
1.1. Ý tưởng sáng tạo và thực chất phát triển ý tưởng
sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân
sự
1.1.1. Ý tưởng sáng tạo và đặc điểm ý tưởng sáng tạo của
nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
* Khái niệm ý tưởng sáng tạo
Trong triết học, ý tưởng được diễn đạt, sử dụng, biểu hiện
ở một số khái niệm và hiểu đó là hình ảnh, biểu tượng về tinh
thần. Thông thường, những ý tưởng được đề cập là hình ảnh đại
diện, tức là hình ảnh của một số sự vật, hiện tượng, hay ở ngữ
cảnh khác, ý tưởng được xem là các khái niệm, mặc dù khái niệm
trừu tượng không nhất thiết phải xuất hiện là hình ảnh.
Ý tưởng là những ý nghĩ nảy sinh trong đầu óc của con
người; những ý nghĩ đó có thể được định hình một cách chính xác,
trọn vẹn hoặc chưa rõ ràng, đầy đủ về trật tự kết cấu, nội dung
cũng như tính thể nghiệm của ý tưởng trong hiện thực. Hay cụ thể
hơn, ý tưởng là kết quả của quá trình tư duy dưới dạng ngôn ngữ,
hình ảnh bên trong hoặc chuỗi các lập luận, suy lý.v.v. tức là ý
nghĩ đó được ý thức một cách rõ ràng hoặc (lóe sáng) như là một
nội dung của quá trình tư duy hay của tập hợp các hoạt động tiếp
theo đó diễn ra trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
Ý tưởng " Idea" còn được hiểu là quan niệm, ý kiến, suy
nghĩ, quan điểm, hành động, giải pháp…được kích thích bằng
nguồn cảm hứng, khát vọng sáng tạo với những rung động cảm
xúc đặc biệt nhằm tạo ra những xu hướng, khả năng gợi mở, vận
động làm phát triển các hoạt động sáng tạo; đó là sản phẩm được
đúc kết từ quá trình tư duy của con người do nhu cầu cuộc sống
đặt ra.
Trong một miền xác định khi đề cập đến hoạt động sáng tạo
có quan hệ trực tiếp với ý tưởng hay ý tưởng sáng tạo. Từ đó, có thể
hiểu khái niệm ý tưởng sáng tạo: là phát hiện mới của con người
về phương diện ý tưởng, phản ánh qua sự biến đổi, “phá cách”
hợp quy luật trong quá trình tư duy, đáp ứng những nhu cầu khách
quan của xã hội về cái mới trong thực tiễn. Hay ý tưởng sáng tạo
chính là phản ánh kết quả của quá trình tư duy dẫn đến những phát
sinh (phát hiện, phát kiến, phát minh, sáng chế) tạo ra sản phẩm mới
11
có giá trị về vật chất và tinh thần đáp ứng nhu cầu của đời sống con
người trong xã hội.
Từ quan niệm trên cho thấy, tiêu chuẩn của mọi ý tưởng
sáng tạo bộc lộ ở các khía cạnh sau: tính mới, được hiểu như là
hiện thân, là sự kết hợp, tích hợp tri thức, kiến thức từ điểm khởi
đầu đến điểm kết thúc của ý tưởng thể hiện tính tiên phong, khác
trước, không lặp lại, vượt qua những khuôn khổ, trật tự cũ.
Cùng với đó là tính hữu ích, ý tưởng sáng tạo luôn gắn với
hoạt động sáng tạo đưa ra những sản phẩm mới, trong đó phản ánh
khách quan những tình huống mới, chất lượng mới và cả mục đích
mới, ý tưởng sáng tạo trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã
hội bao giờ cũng gắn với việc tạo ra cái mới, độc đáo, tốt đẹp hơn,
mang lại ích lợi cho sự phát triển của xã hội con người.
Bên cạnh đó tính độc đáo, đặc sắc riêng có cũng là một
thuộc tính không thể thiếu của ý tưởng sáng tạo. Đó là, khả năng
sáng tạo ra ý tưởng hoàn toàn mới mẻ có sự khác biệt với những ý
tưởng trước đó và của người khác, từ khi phát ra ý tưởng (nhìn
nhận vấn đề) và những cách thức thực thi ý tưởng (phương án giải
quyết, tổ chức thực hiện vấn đề) có sự khác lạ với thông thường
và có khuynh hướng tránh lặp lại cách giải quyết cũ đã có bằng sự
hoài nghi.
Tất nhiên, tính thông suốt cũng là đặc trưng, thuộc tính của
ý tưởng sáng tạo, đó là tốc độ đưa ra kiến giải mới, được định
hướng theo mạch tư duy. Toàn bộ từ quá trình nảy sinh đến tổ
chức thực thi ý tưởng luôn tuân theo các quy luật, quy tắc tư duy.
Trong quá trình đó, biết phát hiện ra cái giống nhau trong những cái
khác nhau (hướng tới cái phổ biến, cái có tính quy luật); chỉ ra cái
khác nhau trong những cái giống nhau (tìm ra cái đặc thù, đặc sắc,
mang sắc thái riêng, cái mới), tính thông suốt là thước đo của ý
tưởng sáng tạo.
Một trong những đặc trưng quan trọng của ý tưởng sáng tạo
là tính hệ thống, bất kỳ một ý tưởng được đưa ra, bao hàm trong
đó tập hợp các yếu tố và giữa chúng có sự tương tác, liên hệ tác
động lẫn nhau bên trong và bên ngoài tạo tạo thành chỉnh thể thống
nhất; là những thuộc tính đặc trưng, phương thức bảo đảm cho ý
tưởng nảy sinh và cụ thể hoá. Đồng thời, thể hiện được tính
hướng đích, đa chiều, tuân theo quy trình điều khiển, cách thức tổ
12
chức trong những hoàn cảnh, điều kiện, không gian, thời gian nhất
định.
Ngoài ra, ý tưởng sáng tạo còn có các thuộc tính: linh hoạt,
phát tán, nối kết và rút gọn, tính liên tưởng, tưởng tượng, thể hiện
nhiều cách nghĩ, hoán vị, chuyển đổi, biết xem xét, tổ hợp khái
niệm cũ bằng phương thức mới, suy diễn, lập luận ngược lại với
những cách nghĩ đã có trước đây, biết vận dụng tổng hợp các lý
thuyết để đưa ra ý tưởng.
* Đặc điểm về ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa
học xã hội và nhân văn quân sự
Cũng như các đối tượng nghiên cứu sinh khác, nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự phản ánh điểm chung của
đối tượng thực hiện nhiệm vụ đào tạo để trở thành tiến sĩ trong các
ngành khoa học của nước nhà. Nhưng do tính chất hoạt động đặc thù
và yêu cầu về chất lượng đào tạo trình độ tiến sĩ các ngành khoa học
xã hội và nhân văn quân sự, nên đối tượng nghiên cứu sinh ngành này
có những đặc điểm riêng, khác với đối tượng nghiên cứu sinh khoa
học xã hội và nhân văn nói chung hay nghiên cứu sinh khoa học xã hội
và nhân văn (dân sự) đang theo học ở học viện, nhà trường quân sự.
Nhận biết sự khác biệt này qua các biểu hiện: nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự là những cán bộ, sĩ quan
quân đội đang học tập, nghiên cứu để trở thành nhà giáo, nhà khoa
học, chuyên gia trong lĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu, tổ chức
hướng dẫn nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn trong lĩnh
vực quân sự; tích cực, chủ động tham gia đấu tranh tư tưởng, lý
luận, góp phần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, xây dựng
quân đội vững mạnh về chính trị.
Từ những luận giải về ý tưởng, ý tưởng sáng tạo nói chung
cùng với những nét phác họa cơ bản về đặc điểm của nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự, tác giả đưa ra khái niệm:
Ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn
quân sự là phản ánh kết quả của quá trình tư duy với nền tảng hệ
thống tri thức hướng đến các phát hiện mới có giá trị về lý luận và
thực tiễn nhằm giải quyết hiệu quả các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra
đối với nghiên cứu sinh trong đào tạo và nghiên cứu khoa học.
13
Từ quan niệm trên cho thấy ý tưởng sáng tạo của nghiên
cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự được biểu hiện qua
những khía cạnh sau:
Thứ nhất, ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học
xã hội và nhân văn quân sự là cái mới về “miền đề tài” tương đối
xác định, luôn thể hiện rõ phương hướng chính trị và tính nhân văn
quân sự; luôn phản ánh hiện thực khách quan hoạt động quân sự.
Thứ hai, ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã
hội và nhân văn quân sự được hình thành theo xu thế hướng nội;
phản ánh suy nghĩ độc lập, sáng tạo.
Thứ ba, ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã
hội và nhân văn quân sự là hình ảnh tư duy của những người đang
trong quá trình học tập nghiên cứu để trở thành nhà giáo, nhà khoa
học.
1.1.2. Thực chất phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên
cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
Từ những nghiên cứu về ý tưởng và ý tưởng sáng tạo của
nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự, trên cơ sở
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự phát triển. Tác
giả đưa ra khái niệm: Phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự là quá trình tương tác
của các chủ thể nhằm khơi dậy, định hình và hoàn thiện ý tưởng
của người học giải quyết một cách sáng tạo mục tiêu, yêu cầu đào
tạo tiến sĩ các ngành khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Qua khái niệm trên, chúng ta thấy thực chất quá trình phát
triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân
văn quân sự được thể hiện ở các góc độ sau:
Thứ nhất, phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh
khoa học xã hội và nhân văn quân sự là tương tác của các chủ thể
diễn ra trong suốt quá trình đào tạo.
Thứ hai, phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh
khoa học xã hội và nhân văn quân sự là tích hợp, chuyển hoá vốn
tri thức, kiến thức, người học tìm ra những ý tưởng mới giải quyết
tốt các nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa
học xã hội và nhân văn quân sự là phát hiện, giải quyết mâu thuẫn
14
trong học tập và nghiên cứu, tạo động lực thúc đẩy trình độ, năng
lực tư duy sáng tạo của nghiên cứu sinh.
Thứ tư, phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa
học xã hội và nhân văn quân sự là lọc bỏ cái cũ, lạc hậu, không phù
hợp; kế thừa, tái tạo, khám phá, tìm ra tri thức mới, ý tưởng mới.
Những căn cứ để đánh giá sự phát triển ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự là dựa
vào sự tương tác giữa các chủ thể về việc xây dựng, tổ chức triển
khai thực hiện các yếu tố cơ bản (mục tiêu, tuyển chọn, nội dung
chương trình, phương pháp, kiểm định đánh giá hoạt động học tập
và nghiên cứu), xây dựng môi trường và các điều kiện đảm bảo
cho phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh diễn ra thuận
lợi và đúng hướng; đặc biệt phải dựa vào kết quả phát triển ý
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh (tích hợp chuyển hóa tri thức,
phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, lọc bỏ và kế thừa, tái tạo và
khám phá) kiến thức, phát triển kỹ năng, phương pháp học tập,
nghiên cứu, năng lực tư duy sáng tạo, dấu ấn cá nhân, sự trưởng
thành của họ.
1.2. Tính quy luật phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên
cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
1.2.1. Thống nhất giữa các yếu tố trong đào tạo định
hướng phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa
học xã hội và nhân văn quân sự
Từ tầm vóc, phương hướng chính trị trong sự phát triển ý
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh phụ thuộc vào quá trình đào
tạo, đặc biệt từ đặc điểm của thực tiễn quân sự chi phối, nên quy
trình đào tạo tiến sĩ khoa học xã hội và nhân văn quân sự thường
ưu tiên hơn cho xu thế (hướng nội), phát huy tính độc lập tự chủ,
sử dụng tối đa các nguồn lực nội sinh để thiết kế, tổ chức đào tạo,
bao gồm: mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp đào tạo,
kiểm định đánh giá chất lượng học tập, nghiên cứu.v.v. các yếu tố
ấy góp phần quyết định và tạo ra những sắc thái riêng trong ý
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh. Tính ưu việt của xu thế là huy
động các nguồn lực tại chỗ cùng với khả năng, sở trường, thế
mạnh trong việc khai thác nguồn dữ liệu, thông tin có sẵn, lấy tri
thức lý luận, kinh nghiệm làm chỗ dựa cho sự phát triển. Nhưng
hiện nay, theo xu thế chung (hướng ngoại), hội nhập, giao lưu với
15
bên ngoài trở thành nhu cầu bức thiết nhằm tăng cường sức mạnh
và nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo tiến sĩ khoa học xã hội
nhân văn quân sự, cơ sở đào tạo ngày càng mở rộng nhiều kênh
trao đổi, liên thông, liên kết với các cơ sở đào tạo bên ngoài quân
đội, sử dụng ngày càng nhiều đội ngũ giảng dạy và hướng dẫn
khoa học từ các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu. Qua
đó, nghiên cứu sinh nhiều nguồn thông tin và những gợi ý mới cho
việc xác định và triển khai ý tưởng sáng tạo của mình, bổ sung cho
bản sắc riêng ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã
hội và nhân văn quân sự những nội dung mới.
1.2.2. Thống nhất giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học quy
định phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã
hội và nhân văn quân sự
Sự thống nhất giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo trình độ
tiến sĩ được thể hiện thông qua rất nhiều hoạt động khác nhau,
nhưng trực tiếp đối với phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu
sinh, được phản ánh từ quy trình chọn hướng nghiên cứu; giao đề
tài luận án, cán bộ hướng dẫn khoa học cho nghiên cứu sinh; viết
thu hoạch, tiểu luận, xêmina; thu thập tư liệu viết đề cương,
chuyên đề, tổng quan, xây dựng và bảo vệ luận án, sinh hoạt học
thuật, hội thảo khoa học, viết báo công bổ kết quả nghiên cứu,
tham gia các đề tài khoa học các cấp, viết sách, giáo trình, hướng
dẫn luận văn.v.v.
1.2.3. Thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan tạo động lực phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên
cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
Đây là vấn đề có tính quy luật phản ánh biện chứng của quá
trình hình thành tính độc đáo, đặc sắc, riêng có trong ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Điều kiện
khách là tổng thể các mặt, các yếu tố tạo nên hoàn cảnh hiện thực:
môi trường đào tạo, nghiên cứu đương đại, đến cơ chế chính sách,
điều kiện cơ sở vật chất, khoa học và công nghệ.v.v. Những nhân tố
đó chi phối rất lớn đến quá trình nghiên cứu sinh xác định và tìm cách
giải quyết vấn đề phát triển ý tưởng sáng tạo. Còn khi đề cập nhân
tố chủ quan của nghiên cứu sinh, thực chất nói vai trò của chủ thể, là
sự thể hiện sự năng động, sáng tạo của nghiên cứu sinh trong việc
16
biến đổi, cải tạo và thích ứng với điều kiện khách quan thông qua
thực tiễn hoạt động quân sự, hoạt động học tập và nghiên cứu khoa
học góp phần làm gia tăng sự phát triển ý tưởng sáng tạo của họ.
Vai trò của nhân tố chủ quan của nghiên cứu sinh ngày càng
tăng khi họ biết chủ động phát hiện và dựa vào những điều kiện
khách quan để tổ chức, xúc tiến việc hình thành, nuôi dưỡng, hoàn
thiện ý tưởng sáng tạo, trên cơ sở phản ánh tính tất yếu vận động,
phát triển của nó. Mọi hoạt động của nghiên cứu sinh đều xuất
phát từ thực tế, trên cơ sở tôn trọng khách quan, phát huy năng
động chủ quan của chủ thể, chống thụ động, trông chờ, khuất
phục trước hiện thực. Vai trò nhân tố chủ quan của nghiên cứu
sinh không phải là thúc đẩy mọi khả năng phát triển mà trên cơ sở
nhu cầu của họ, chọn lọc, tác động để cho một hoặc một số khả
năng nào đó phù hợp nhất với quá trình phát triển ý tưởng sáng tạo
của họ theo tiến trình nhất định trở thành hiện thực.
Kết luận chương 1
Trong chương 1, luận án tập trung nghiên cứu làm rõ về ý
tưởng, ý tưởng sáng tạo nói chung, từ đó đi vào khái quát, phân tích
khái niệm ý tưởng sáng tạo và thực chất phát triển ý tưởng sáng
tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự nói
riêng. Đồng thời, chỉ ra tính quy luật về sự phát triển ý tưởng sáng
tạo của đối tượng nghiên cứu sinh đó với điều kiện hoàn cảch đặc
thù của người học được đào tạo vào nghiên cứu thuộc lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Chương 2
THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO CỦA NGHIÊN CỨU
SINH KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ HIỆN NAY
2.1. Thực trạng và nguyên nhân phát triển ý tưởng sáng
tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
hiện nay
2.1.1. Thực trạng phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên
cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
* Khảo sát, đánh giá sự tương tác giữa các chủ thể thông
qua việc xây dựng và triển khai thực hiện các nhân tố bảo bảm
17
cho quá trình phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa
học xã hội và nhân văn quân sự.
Mục tiêu, mô hình đào tạo đối với quá trình phát triển ý
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh, các chủ thể phát triển đã nhận
thức rõ và bám sát mục tiêu, mô hình yêu cầu đào tạo trình độ tiến
sĩ các ngành khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Qua số liệu khảo
sát cho thấy nghiên cứu sinh ý thức rõ về mục tiêu yêu cầu đào tạo, có
khả năng định hướng rõ trong đào tạo, nghiên cứu. Ngay từ đầu, bản
thân nghiên cứu sinh đã chủ động tiếp cận mục tiêu đào tạo trình độ
tiến sĩ khoa học xã hội và nhân văn và quân sự và họ cũng đã xác định
đào tạo ở trình độ này cần có những cống hiến, đưa ra suy nghĩ, ý
tưởng mới và cụ thể hóa, triển khai trong các sản phẩm công trình
khoa học
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển ý tưởng sáng tạo của
nghiên cứu sinh so với mục tiêu đào tạo đã xác định chưa đáp ứng
kịp yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị; năng lực và sự
tinh tế nhạy cảm trước những diễn biến của tình hình, khả năng
truyền thụ, cảm hoá và phát triển lý luận trong điều kiện mới còn
bất cập.
Công tác tạo nguồn dự khóa, xét tuyển, chuẩn bị ý tưởng khoa
học của nghiên cứu sinh. Hoạt động tạo nguồn dự khóa là bước
chuẩn bị đặc thù không thể thiếu và có ý nghĩa hết sức to lớn góp
sức tạo ra những tiền đề điều kiện cho sự phát triển ý tưởng sáng
tạo của nghiên cứu sinh sau khi chúng tuyển vào học tập, nghiên
cứu. Tổ chức các lớp dự khoá đã bảo đảm chặt chẽ, nghiêm túc,
trong đó tập trung vào một số nội dung chủ yếu phục vụ cho xét
tuyển, đặc biệt là sự định hướng, giúp đỡ các thí sinh chuẩn bị
phương hướng, ý tưởng đề cương nghiên cứu.
Quá trình xét tuyển nghiên cứu sinh bảo đảm đúng quy chế,
quy trình, có tiêu chí xét tuyển chặt chẽ, trong tiến trình xét tuyển
đã tập trung vào nội dung của đề cương nghiên cứu, bài luận, bài
báo khoa học, Hội đồng xét tuyển nghe thí sinh báo cáo và đặt câu
hỏi cho họ làm rõ về hướng nghiên cứu xem có cái gì mới, sáng
tạo, có giá trị khoa học và tính khả thi cũng như trình độ tri thức, tư
duy, khả năng, định hướng nghiên cứu trong tương lai của nghiên
cứu sinh.
Nhìn chung, trong công tác tạo nguồn, xét tuyển nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự thời gian qua, tuy đã đạt
18
được một số kết quả, nhưng vẫn còn nhiều bất cập về nhận thức
đến các hoạt động của các chủ thể tham gia.
Nội dung chương trình đào tạo đối với quá trình phát triển ý
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh. Hàng năm đều sự có rà soát,
điều chỉnh, bổ sung, cập nhật, cấu trúc của chương trình đã bảo
đảm được tính cân đối, thể hiện sự cập nhật mới, cơ bản và hiện
đại,nâng cao tính tư tưởng, tính chiến đấu, tính tự giáo dục, tự học,
tự nghiên cứu; phát huy năng lực thực tiễn, phát triển tư duy độc lập
sáng tạo của nghiên cứu sinh. Theo đó, đã tạo đều kiện giúp cho
nghiên cứu sinh hoàn chỉnh và nâng cao kiến thức cơ bản, hiểu biết
sâu về kiến thức chuyên ngành và mở rộng sang các ngành liên quan;
bổ trợ cho nghiên cứu sinh rèn luyện khả năng nghiên cứu, tư duy có
chủ kiến trong tìm tòi, khám phá đưa ra ý tưởng; độc lập giải quyết
các vấn đề trong học tập, nghiên cứu khoa học một cách sáng tạo.
Song, nội dung chương trình đào tạo đang hiện hành là chưa
thật sự hợp lý, còn một số bất cập, chưa thực sự đặt ra yêu cầu
cao và thực sự có sức hấp dẫn lôi cuốn đối với cả người dạy và
nghiên cứu sinh, càng khó khăn hơn trong việc tạo ra động lực thúc
đẩy mạnh mẽ đối với họ trong quá trình vươn lên trở thành chủ
thể chiếm lĩnh, chuyển hoá, sáng tạo ra ý tưởng mới, tri thức mới.
Phương pháp đào tạo đối với sự phát triển ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh, đã có sự chủ động, tích cực, tăng cường sử
dụng tích hợp các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại, gợi mở
nêu vấn đề, dạy học khám phá; mở rộng giao lưu đối thoại giữa
thầy và trò, giữa các nghiên cứu sinh với nhau. Hoạt động dạy
được đổi mới theo hướng chuyển sang giảng theo chuyên đề được
người học hưởng ứng. Qua số liệu khảo sát ý kiến về cơ bản đều
cho rằng hướng đổi mới hiện nay là phù hợp; đã có sự định hướng
người học phát huy tính độc lập sáng tạo trong tự học, tự nghiên
cứu.
Tuy nhiên, trình độ và phương pháp đào tạo còn có những
hạn chế, chưa tương xứng với bậc học, chưa thường xuyên cập
nhật, vận dụng những phương pháp giảng dạy mới. Việc bổ sung
các vấn đề lý luận mới vào bài giảng chưa theo kịp với yêu cầu
không ngừng tăng lên về chất lượng đào tạo, với thực tiễn quân
đội và đất nước hiện nay. Những tri thức mới có giá trị được cập
nhật chưa nhiều, những vấn đề nghiên cứu được xã hội quan tâm
chưa được nắm bắt kịp thời đề chuyển hóa thành ý tưởng mới.
19
Đánh giá kết quả học tập, nghiên cứu khoa học của nghiên
cứu sinh thông qua đó để thấy rõ sự phát triển ý tưởng sáng tạo.
Các chủ thể đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đánh giá
chất lượng học tập, nghiên cứu của nghiên cứu sinh, từ học các tín
chỉ, học phần đến xây dựng và bảo vệ luận án bảo đảm sự nghiêm
minh, chặt chẽ; đã có tiêu chí, cách thức đánh giá cụ thể, theo đúng
quy chế.
Tuy nhiên, trong đánh giá kết quả học tập, nghiên cứu của
nghiên cứu sinh vẫn có hạn chế nhất định: “Cách đánh giá kết quả
như hiện nay vẫn chủ yếu là nội dung kiến thức đã được xác định
và xếp đặt của chương trình có tính sơ cứng mà ít quan tâm đến
kết quả phát triển tư duy sáng tạo, phương pháp nghiên cứu và cái
mới của bản thân người học có được trong đào tạo.
Môi trường, điều kiện bảo đảm cho phát triển ý tưởng sáng
tạo của nghiên cứu sinh, cho đến nay môi trường đào tạo đã và
đang tiếp tục xây dựng, củng cố, hoàn thiện, phát huy được sức
mạnh của toàn bộ hệ thống; hoạt động giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, tự học, tự nghiên cứu ngày càng có nền nếp, đi vào
chuyên sâu, chuyên môn hoá. Có nhiều ý kiến cho rằng môi trường
đào tạo, nghiên cứu trong sạch, lành mạnh, đáp ứng theo yêu cầu
phát triển ý tưởng sáng tạo.
Song, trong môi trường đào tạo còn có những hạn chế bất cập
về khoa học công nghệ, các điều kiện vật chất, phương tiện kỹ
thuật, hệ thống tài liệu, giáo trình còn thiếu thốn, nghèo nàn; chưa
chú ý đầy đủ đến các yếu tố bảo đảm về cơ chế, chính sách cho cả
người dạy và người học; cơ sở vật chất, điều kiện học tập, công
tác, sinh hoạt của người học còn thiếu thốn.
* Khảo sát, đánh giá kết quả phát triển ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Nhận thức, trách nhiệm của nghiên cứu sinh . Hiện nay, tuyệt
đại đa số nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự đều có
chung một nhu cầu mong muốn tiến bộ, trưởng thành, hoàn thiện về
phẩm chất và năng lực chuyên môn nghề nghiệp. Họ đã có những
hứng thú, đam mê, tìm tòi, phám khá ra cái mới; tạo lập, xây dựng cho
mình phong cách học tập, nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo; luôn
có có tinh thần, thái độ cầu thị, chủ động khắc phục mọi khó khăn,
phấn đấu vươn lên trong học tập, nghiên cứu, hoàn thành tốt các
nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra liên quan trực tiếp với nghiên cứu sinh.
20
Bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế nhất định , nghiên cứu
sinh chưa thực sự mạnh dạn, chủ động tìm tòi đưa ra được những
cách tiếp cận, kiến giải về đối tượng nhận thức theo những
hướng mới, độc đáo, khác lạ hoặc có những liên tưởng, tượng
tượng phong phú vượt ra khỏi ranh giới suy nghĩ thông thường
Trình độ tri thức, kiến thức chuyên môn của nghiên cứu
sinh. Họ đã biết tiếp nhận hệ thống tri thức lý luận có hiệu quả,
biết khai thác và quan tâm đúng mức về vai trò của hoạt động trí óc
và thực hành chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, chủ
động nắm vững những cơ sở của nghề nghiệp và có tiềm năng
vươn lên thích ứng với những yêu cầu trước mắt và lâu dài do thực
tiễn cuộc sống đặt ra. Qua số liệu khảo sát có nhiều ý kiến cho
rằng nghiên cứu sinh thường xuyên biết tiếp nhận và xử lí thông
tin, giải quyết các vấn đề trong học tập nghiên cứu , nghiên cứu
sinh có suy nghĩ, nhận xét, lập luận độc lập theo những cách thức
riêng.
Song, xét tổng thể về trình độ tri thức của nghiên cứu sinh
còn thiếu tính hệ thống, liên hệ, gắn kết giữa các môn học, phần
học hoặc trong xây dựng luận án; khả năng giải quyết giữa lý luận
và thực tiễn chưa thật sự thành thạo, vững chắc; còn khiếm
khuyết, hổng về kiến thức, bí về phương pháp, kỹ năng thu nhận,
chuyển hoá tri thức.
Kỹ năng, phương pháp học tập và nghiên cứu của nghiên cứu
sinh. Họ đã chứng tỏ là người có kỹ năng, phương pháp, luận giải
được các vấn đề có chiều sâu khoa học, đưa ra những kiến giải,
nhận định, đánh giá hay hướng nghiên cứu, tiếp cận mới; đã biết
đưa ra những luận cứ, luận chứng và lập luận các vấn đề theo cấp
độ khác nhau và có sự định hướng; biết phát hiện ra các mặt đối lập,
tìm ra những khó khăn, cản trở, vướng mắc, những vấn đề chưa
được giải quyết trong đào tạo và nghiên cứu khoa học; tận dụng
mọi điều kiện, cơ hội, thời cơ, lĩnh hội, tiếp nhận tri thức, xử lý
thông tin, tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau và biến chúng thành tri
thức mới, có giá trị và hữu ích phản ánh trong các công trình khoa
học. Theo số liệu tổng hợp các khóa đào tạo nghiên cứu sinh các
năm gần đây, có tuyệt đại đa số nghiên cứu sinh đều có các bài báo
đúng theo và vượt chỉ tiêu đề ra trong quy chế, trước khi bảo vệ
luận án; có một số công trình khoa học (chuyên đề, đề tài) thể hiện
21
được tính mới, độc đáo của nghiên cứu sinh đi dự thi tuổi trẻ sáng
tạo ở các cấp đều đạt giải cao.
Tuy nhiên, các thao tác, kỹ năng tư duy của nghiên cứu sinh còn
những hạn chế, khó khăn trong tiếp cận, phân tích, lý giải những
thông tin mới; khả năng phân tích, tổng hợp, phát hiện, để xuất các
giải pháp tư tưởng, tổ chức giải quyết các vấn đề mới nảy sinh từ
thực tiễn, chuyển tải thành sản phẩm công trình khoa học hiệu quả
thấp.
Năng lực tư duy, dấu ấn cá nhân, sự trưởng thành của nghiên
cứu sinh. Họ đã biết triển khai các hoạt động tự học, tự nghiên cứu,
tìm kiếm, thu thập thông tin, dữ liệu, xử lý số liệu đưa vào các công
trình khoa học, viết chuyên đề cấp tiến sĩ, tiểu luận tổng quan, xây
dựng đề cương luận án, qua đó giúp cho nghiên cứu sinh cập nhật,
bổ sung kiến thức mới, cốt lõi ở mức độ cao, chuyên sâu của chuyên
ngành.
Song, trình độ tri thức, kỹ năng, phương pháp, năng lực sáng
tạo của nghiên cứu sinh đang từng bước phát triển nên chưa thật
nhanh nhạy, sâu sắc, chưa đạt tới độ chuẩn, nên khi luận giải,
chứng minh các vấn đề, còn bị chi phối bởi nhận thức trực quan,
cảm tính, thiếu suy xét, tư biện.
2.1.2. Nguyên nhân thực trạng phát triển ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện
nay
* Những nguyên nhân kết quả đạt được trong phát triển ý
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh
Thứ nhất, những chuyển biến tích cực trong giáo dục, đào
tạo đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển ý tưởng sáng
tạo nghiên cứu sinh.
Hai là, trong tiến trình đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo
trình độ tiến sĩ các chủ thể đào tạo đã có sự quan tâm đến phát triển ý
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh.
Thứ ba, sự nỗ lực, tích cực chủ động của nghiên cứu sinh
trong phát triển ý tưởng sáng tạo.
* Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong phát triển
ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn
quân sự
22
Thứ nhất, ảnh hưởng mặt trái của cơ chế cơ chế thị trường và
bất cập về cơ chế chính sách đã tác động đến nhận thức, tình cảm
của nghiên cứu sinh trong phát triển ý tưởng sáng tạo.
Thứ hai, một số chủ thể chưa phát huy cao độ tinh thần trách
nhiệm trong phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh.
Thứ ba, sự nỗ lực, cố gắng của nghiên cứu sinh trong phát
triển ý tưởng sáng tạo chưa tương xứng với yêu cầu đòi hỏi của
đào tạo trình độ tiến sĩ.
2.2. Nhân tố tác động và yêu cầu phát triển ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay
2.2.1. Những nhân tố tác động đến phát triển ý tưởng
sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân
sự
Thứ nhất, đổi mới căn bản và toàn diện của sự nghiệp giáo
dục, đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước tác động đến phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Thứ hai, tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại đến phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa
học xã hội và nhân văn quân sự.
Thứ ba, tác động từ hệ thống nhu cầu khách quan đến phát
triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân
văn quân sự.
2.2.2. Yêu cầu phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay
Thứ nhất, phải tạo ra sự chuyển biến toàn diện từ nhận thức
đến hành động của các chủ thể điều khiển, tổ chức quá trình phát
triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân
văn quân sự.
Thứ hai, phải bảo đảm dân chủ, công bằng trong phát triển ý
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn
quân sự.
Thứ ba, phải gắn kết giữa nâng cao phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống, tác phong khoa học với trình độ tri thức, kỹ năng,
phương pháp tư duy của nghiên cứu sinh trong phát triển ý tưởng sáng
tạo.
Kết luận chương 2
23
Trên cơ sở nghiên cứu, điều tra khảo sát và xử lý số liệu
tổng hợp từ các kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa
học là những minh chứng quan trọng để đánh giá đúng thực trạng,
chỉ ra đúng nguyên nhân của những kết quả đạt được và những bất
cập, hạn chế trong phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh
khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay
Phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã
hội và nhân văn quân sự hiện nay, đã và đang chịu tác động của
một số nhân tố và xác định những yêu cầu cơ bản có tính nguyên
tắc phải giải quyết. Nhận thức về các nhân tố tác động và giải
quyết hợp lý các yêu cầu đã chỉ ra, bảo đảm cho quá trình phát
triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân
văn quân sự luôn bảo đảm tính khách quan, đáp ứng với yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực bậc cao của quốc gia và quân đội.
Chương 3
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO
CỦA NGHIÊN CỨU SINH KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ HIỆN NAY
3.1. Tiếp tục đổi mới các yếu tố cơ bản của đào tạo
nhằm tạo động lực cho phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên
cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự
Thực tiễn của quá trình phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên
cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong thời gian qua đạt
được những thành tựu nhất định. Song, còn gặp không ít khó khăn,
thách thức, kết quả chưa cao. Do đó, để nâng cao chất lượng và hiệu
quả của quá trình phát triển đó, trong những năm tới đây cần tiếp tục
đổi mới căn bản và toàn diện các yếu tố từ quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều
kiện bảo đảm; kế thừa và phát huy những thành tựu, phát triển những
nhân tố mới có giá trị; các giải pháp thực hiện phải đồng bộ, khả thi, có
trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp; tập trung vào phát
triển phẩm chất và năng lực tự hoc, t
̣ ự làm giàu tri thưc, phát huy s
́
ức
24
sang tao và có nhi
́
̣
ều đóng góp cống hiến mới góp cua nghiên c
̉
ứu sinh,
thúc đẩy hơn nữa quá trình sự phát triển ý tưởng sáng tạo của họ luôn
có chất lượng mới, ổn định và bền vững, cụ thể như sau: Tăng cường
đổi mới tạo nguồn, tuyển sinh, lựa chọn người tài có phẩm chất, năng
lực, trình độ chuyên môn cao; đổi mới và hoàn thiện nội dung chương
trình đào tạo theo hướng phát huy cao độ tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo của nghiên cứu sinh trong phát triển ý tưởng sáng tạo; tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại thúc đẩy
quá trình phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh; đổi mới căn
bản công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, nghiên cứu nhằm góp
phần thúc đẩy phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh.
3.2. Xây dựng môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã
hội và nhân văn quân sự
Phát triển ý tưởng sáng tạo của mỗi nghiên cứu sinh phụ thuộc
vào yếu tố môi trường xã hội, môi trường sư phạm quân sự như các
điều kiện kinh tế xã hội của đất nước; sự phát triển và ứng dụng các
thành tựu khoa học công nghệ, khoa học công nghệ quân sự; sự phát
triển của các tập thể, mối quan hệ giao tiếp của nghiên cứu sinh với
các chủ thể khác; các điều kiện, phương tiện, cơ sở vật chất bảo
đảm cho đào tạo và nghiên cứu. Vì vậy, thúc đẩy sự phát triển ý
tưởng sáng tạo, phát huy được tiềm năng sáng tạo của nghiên cứu
sinh trong quá trình đào tạo cần phải nghiên cứu xây dựng môi trường
đào tạo, tăng cường các điều kiện, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ
thuật, cụ thể như sau: Gia tăng hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa
học, thúc đẩy quá trình phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự; t iếp tục đẩy mạnh xây
dựng môi trường đào tạo gia tăng các hoạt động trí tuệ, tính năng
động sáng tạo thúc đẩy phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu
sinh; nâng cao ý thức trách nhiệm của các lực lượng trong xây dựng
môi trường đào tạo, nghiên cứu có chất lượng cao; xây dựng môi
trường đào tạo phải thường xuyên quán triệt quan điểm toàn diện, kết
hợp đồng bộ với các yếu tố khác; có cơ chế chính sách phù hợp,
khuyến khích tạo điều kiện cho mọi sáng kiến, sáng tạo của nghiên
cứu sinh được phát hiện và áp dụng; coi trọng đầu tư các phương tiện
hiện đại, đảm bảo đầy đủ hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo cho
học tập, nghiên cứu của nghiên cứu sinh.
25
3.3. Phát huy nhân tố chủ quan của nghiên cứu sinh khoa
học xã hội và nhân văn quân sự trong phát triển ý tưởng sáng
tạo
Phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã
hội nhân văn quân sự không chỉ có sự tác động từ các nhân tố, điều
kiện khách quan mà rất cần có sự phát huy nhân tố chủ quan trong
tự học, tự rèn luyện phấn đấu của mỗi nghiên cứu sinh. Do đó, cần
nhận thức rõ và phát huy đúng mức tư duy mới, độc lập về trí tuệ
của nghiên cứu sinh, đẩy mạnh hoạt động học tập và nghiên cứu
đưa ra được những kiến giải mới, khái quát mới về mặt lý luận và
thực tiễn, thúc đẩy người học phát triển về tri thức, phẩm chất
năng lực tư duy sáng tạo, tố chất nghề nghiệp một cách toàn diện,
bền vững cần thực hiện tốt các nội dung sau: Phát huy tính tích
cực, tự giác nghiên cứu sinh trong phát triển ý tưởng sáng tạo; chủ
động nâng cao trình độ tri thức lý luận theo hướng toàn diện, chuyên
sâu của nghiên cứu sinh; nghiên cứu sinh phải không ngừng nâng
cao chất lượng tự học, tự nghiên cứu khoa học để tiếp thu lĩnh hội
tri thức và hướng vào phát triển ý tưởng sáng tạo của mỗi cá nhân.
Kết luận chương 3
Quá trình phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh
khoa học xã hội và nhân văn quân sự phải phù hợp với tính quy
luật vận động phát triển và phản ánh đúng tính chất yêu cầu nhiệm
vụ đào tạo trình độ tiến sĩ . Hệ thống giải pháp nhằm phát triển ý
tưởng sáng tạo của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn
quân sự là một thể thống nhất biện chứng, hỗ trợ nhau nhằm phát
huy tối đa vai trò của các chủ thể và bản thân nghiên cứu sinh,
đồng thời các giải pháp này cần được vận dụng một cách linh hoạt
và bổ sung liên tục nhắm đáp ứng được với quá trình phát triển.
KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu phát triển ý tưởng sáng tạo của nghiên cứu
sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự là vấn đề thực sự cấp
thiết nhằm nâng cao khả năng tư duy lý luận, phát huy sức sáng
tạo, thúc đẩy quá trình học tập, nghiên cứu của nghiên cứu sinh
đáp ứng với mục tiêu yêu cầu đào tạo tiến sĩ. Ý tưởng sáng tạo
của nghiên cứu sinh khoa học xã hội và nhân văn quân sự có những
đặc trưng riêng do đối tượng, lĩnh vực chuyên môn ngành nghề đào
tạo, nghiên cứu quy định, là kết quả của quá trình tư duy với hệ