Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN ý TƯỞNG SÁNG tạo của học VIÊN SAU đại học , học VIỆN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.59 KB, 103 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương
1

CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG
TẠO CỦA HỌC VIÊN SAU ĐẠI HỌC Ở HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ

1.1 Ý tưởng sáng tạo và thực chất phát triển ý tưởng sáng tạo
của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị
1.2 Đặc điểm phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau
đại học ở Học viện Chính trị
Chương THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO
CỦA HỌC VIÊN SAU ĐẠI HỌC Ở HỌC VIỆN
2
CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

2.1 Thực trạng và nguyên nhân phát triển ý tưởng sáng tạo
của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị hiện nay
2.2 Một số vấn đề đặt ra và yêu cầu đối với phát triển ý
tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện
Chính trị hiện nay
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN Ý
Chương
TƯỞNG SÁNG TẠO CỦA HỌC VIÊN SAU ĐẠI
3


HỌC Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

3.1 Đổi mới, hoàn thiện một số yếu tố cơ bản trong công
tác đào tạo sau đại học ở Học viện Chính trị
3.2 Phát huy nhân tố chủ quan của học viên sau đại học ở
Học viện Chính trị trong phát triển ý tưởng sáng tạo
của họ
3.3 Xây dựng môi trường đào tạo; tăng cường phương
tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển ý tưởng sáng tạo của của
học viên sau đại học ở Học viện Chính trị
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

9
9
26
41
41
53
68
68
80

87
92

94
97


Hiện nay, khi trình độ tri thức của con người đang chuyển sang một cấp độ
cao hơn đó là quá trình “ tổ chức, quản lý sáng tạo và đổi mới” dựa trên cơ sở
của những ý tưởng tiến bộ vượt bậc thì vấn đề phát triển ý tưởng sáng tạo ngày
càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống của con người trong xã hội
hiện đại. Do bản chất, vai trò và tính phức tạp của nó, ý tưởng sáng tạo luôn
được các ngành khoa học quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng. Phần lớn
các sản phẩm (vật chất và tinh thần) được làm ra, kết tinh trong đó chủ yếu là
hàm lượng trí tuệ, chất xám thì vấn đề phát triển ý tưởng sáng tạo ngày càng
được con người quan tâm, chú trọng nhiều hơn.
Phát triển ý tưởng sáng tạo là một yêu cầu khách quan của quá trình đào tạo
nguồn nhân lực, nhất là đối với đào tạo nguồn nhân lực bậc cao trong thời đại cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Với tư cách là một trung tâm lớn của quốc
gia về đào tạo sau đại học, Học viện Chính trị đã có những thành tựu quan trọng
trong đào tạo sau đại học về khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các
chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn có liên quan chặt chẽ đến xây dựng
quân đội về chính trị, góp phần tăng số lượng và chất lượng nguồn nhân lực bậc cao
cho đất nước và quân đội. Đồng thời, cũng đã có những đóng góp đáng kể vào quá
trình phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học trong suốt những năm
qua.
Tuy thế, cùng với các thành tựu đã đạt được, đào tạo sau đại học ở Học viện
Chính trị còn có những hạn chế, bất cập về nội dung trương trình đạo tạo,
phương pháp dạy và học chưa tương xứng với bậc học, còn chậm đổi mới làm
hạn chế sự năng động và phát huy tính sáng tạo của người học theo yêu cầu cao.
Về chất lượng luận văn, luận án hàm lượng khoa học tính mới - hữu ích, sự độc
đáo, tính đột phá là chưa rõ ràng, trong các luận văn, luận án, các bài báo khoa
học của học viên, việc tìm kiếm đưa ra ý tưởng mới về hướng tiếp cận hoặc các

quan điểm, giải pháp mới, cách diễn dịch mới là rất hạn chế. Đặc biệt, vẫn còn
hiện tượng trùng lặp, giao thoa trong các đề tài luận văn, luận án về nội dung
nghiên cứu, hình thức kết cấu. “Điều đáng chú hơn là một số học viên sau khi
bảo vệ thành công luận văn, luận án, nhưng khả năng làm việc độc lập, sáng tạo
trong các hoạt động khoa học của quốc gia, quốc tế vẫn còn bộc lộ nhiều hạn
chế” [14, tr.9]. Những bất cập đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có
nguyên nhân từ chủ thể làm công tác đào tạo cho đến người học chưa thực sự


nắm chắc cơ chế, phương pháp, cách thức tạo ra sự đột phá sức sáng tạo của tư
duy, tư tưởng, tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm phát triển ý tưởng sáng tạo
của học viên trong quá trình đào tạo sau đại học.
Trong khi đó, do tác động của toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ và trước những yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước lại luôn đòi hỏi người học viên sau đại học
phải có trình độ tư duy sắc sảo cùng với khả năng vận dụng, sáng tạo ra những tri
thức mới áp dụng vào hoạt động lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, giáo dục bộ đội, giải
quyết đúng đắn các vấn đề thực tiễn nảy sinh trong cuộc sống và hoạt động quân sự.
Mặt khác, do quá trình đào tạo sau đại học ở Học viện ngày càng phát triển, nội
dung học tập và nghiên cứu khoa học đòi hỏi có chất lượng cao hơn, từ đó lại đặt ra
yêu cầu phải tổ chức tốt quá trình đào tạo sau đại học sao cho có trọng tâm, trọng
điểm hướng các hoạt động học tập, nghiên cứu của học viên sau đại học theo hướng
tích cực, chủ động, đề xuất được các ý tưởng mới, sáng tạo trong các công trình
luận văn, luận án, bài báo khoa học…thực hiện tốt quan điểm: “Khuyến khích và
tạo điều kiện phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của người học, biến quá trình đào
tạo thành tự đào tạo” [12, tr.7].
Phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị
hiện nay, vì thế, là vấn đề mang tính cấp thiết, có ý nghĩa cả về phương diện lý luận
và thực tiễn. Do đó tác giả đã chọn đề tài này để nghiên cứu trong khuôn khổ luận

văn thạc sĩ chuyên ngành triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về phát triển ý tưởng sáng tạo của con người là một vấn đề
phức tạp, rất rộng và đa diện, do đó cần có nhiều cách tiếp cận, luận giải khác
nhau. Những thành tựu nghiên cứu về ý tưởng, ý tưởng sáng tạo và phát triển ý
tưởng sáng tạo đã được các nhà khoa học trên thế giới và ở trong nước thông báo
ở một số công trình, đề tài khác nhau. Ở đây có thể đưa ra một số công trình, đề
tài cụ thể của một số tác giả tiêu biểu:
Tác giả Tony Buzan trong các tác phẩm “Hướng dẫn sử dụng bản đồ tư duy”
và “10 cách đánh thức tư duy sáng tạo” đã chỉ ra cách khai thác tối đa sức sáng tạo
của tư duy, vẽ tương lai ý tưởng của mỗi người bằng bản đồ tư duy. Theo đó, để ý
tưởng sáng tạo luôn thăng hoa, phát triển thì con người phải có ước mơ, khát vọng,


hoài bão trong sáng, sự rèn luyện kiên trì, học tập nỗ lực, có quyết tâm, tín tâm, mạo
hiểm trong cuộc sống. Đặc biệt, phải có óc liên tưởng và sự thông suốt là điều kiện
để nảy sinh ý tưởng mới, giải phóng bộ não. Ông còn chỉ ra con đường đi đến sự
sáng tạo và các yếu tố cấu thành sức sáng tạo, hiệu suất sáng tạo cùng với sức mạnh
dung lượng, tốc độ của nó. “Tính thông suốt của tư duy sáng tạo dùng để chỉ số
lượng của tư duy (hoặc quan niệm) của con người có thể tạo ra tốc độ của sáng tạo.
Tính thông suốt là một trong những mục tiêu chủ yếu mà tất cả các nhà tư tưởng
sáng tạo và thiên tài vĩ đại đều theo đuổi” [41, tr.113].
Hai tác giả Bobbi Deporter & Mike Hernacki trong các tác phẩm “Phương
pháp ghi nhận siêu tốc”,“Phương pháp học tập siêu tốc” và “Phương pháp tư
duy siêu tốc” đã khẳng định sáng tạo là một kỹ năng phổ biến vốn có của con
người, song nếu không được rèn luyện sẽ bị mai một. Để phát triển kỹ năng sáng
tạo thì phải có sự tin tưởng và an toàn, theo đó các ông đã chỉ ra vai trò của môi
trường sáng tạo và những quy tắc nhất định mà các chủ thể khi tiến hành hoạt
động sáng tạo phải tuân theo chúng. Đồng thời, các ông chỉ ra phương pháp lập kế
hoạch và giải quyết vấn đề sáng tạo: 1) nắm rõ mục tiêu của vấn đề; 2) đưa ra các

ý tưởng; 3) xem xét, lựa chọn ý tưởng phù hợp; 4) kế hoạch hành động thực thi
các ý tưởng; 5) đánh giá kết quả thực hiện các ý tưởng [3, tr.185-198]. Bobbi
Deporter và Mike Hernacki khẳng định để trở thành những nhà tư tưởng sáng tạo,
điều cần thiết là phải có trí tò mò, thích thể hiện, sẵn sàng mạo hiểm và ham muốn
làm việc một cách có hiệu quả. Và vô luận thế nào thì tiền đề tiên quyết của ý
tưởng sáng tạo cũng vẫn là tri thức, kiến thức. “Thậm chí những ý tưởng được coi
là cách mạng cũng bắt nguồn từ một nền tảng tri thức sẵn có” [4, tr.300].
Tác giả Thomas Amstrong trong tác phẩm “7 loại hình thông minh” đã khẳng
định, phần lớn các nhà tư tưởng vĩ đại nhất trên thế giới nhờ có phương pháp, kỹ
năng tư duy tốt mà luôn có ý tưởng sáng tạo. Muốn khám phá và phát triển các ý
tưởng, Thomas Amstrong đã khuyên mọi người dựa vào việc ghi chép, đồ hoạ, biểu
đồ, sử dụng nhật ký ý tưởng để thường xuyên lưu lại suy nghĩ, các ý nghĩ nảy sinh
đến với mình từ trong cuộc sống hàng ngày [37, tr. 93]. Do đó, phải thường xuyên
luyện tập và giữ lấy các ý tưởng nảy sinh trong quá trình tập luyện, học cách khái
quát ý tưởng, loại bỏ những khuôn mẫu nhận thức cũ lỗi thời tiến đến các cách thức
nhận thức mới phù hợp với cuộc sống hiện đại.


Tác giả Michael Michalko trong tác phẩm “Đột phá sức sáng tạo” đã chỉ ra
phương pháp, cách thức tạo ra ý tưởng. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích hàng
trăm thiên tài tư duy sáng tạo vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại từ Leonardo da
Vinci đến Walt Disney, từ Pablo Picasso đến Thomas Edison, từ nhà bác học
Charles Darwin đến thiên tài Martha Graham. Michael đã giải thích quá trình
phát triển ý tưởng của họ bằng các bước rất đơn giản, dễ theo dõi mà bất cứ ai
cũng có thể áp dụng để trở nên sáng tạo hơn. Theo đó, Ông đưa ra chiến lược tư
duy sáng tạo và tổ chức lại tư duy trên cơ sở các chiến lược phát khởi các ý
tưởng, cần phải thay đổi cách thức xem xét vấn đề, đưa ra các giải pháp cải tiến
cụ thể cho những thách thức mà con người đang từng ngày phải đối mặt [ 28].
Tác giả Đức Uy trong tác phẩm “ Tâm lý học sáng tạo” đã xem “ ý tưởng là
nguồn của quá trình sáng tạo”, tất cả những cái mới do con người tạo ra trong các

giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử xã hội và cả những cái mới trong hoạt
động thực tiễn đã và đang nảy sinh. “Có thể kéo dài vô tận những cái mới hiện có
và có thể có. Cái gì là chung cho tất cả những loại mới đó? Khởi đầu của tất cả là ý
tưởng nảy sinh trong đầu óc một ai đó. Về thực chất bất cứ quá trình sáng tạo nào
cũng bắt đầu từ ý tưởng” [48, tr.31]. Ý tưởng và các sản phẩm có kết quả từ ý tưởng
là điểm khởi đầu và cũng là điểm kết thúc của toàn bộ quá trình sáng tạo.
Tác giả Nguyễn Đình Gấm trong bài viết: “ Sáng tạo - phẩm chất nhân cách
hàng đầu của con người trong xã hội hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu con người,
số 5/2004, đã đưa ra quan điểm coi sáng tạo: là tìm ra cái mới, cách giải quyết
mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào những cái đã có. “Ý tưởng là mầm mống của
sự sáng tạo, do đó trước tiên cần quan tâm đến các ý tưởng mới” [16, tr.60].
Đồng thời, tác giả còn nhấn mạnh các ý tưởng mới chỉ có giá trị khi mang trong
đó các hạt nhân hợp lý, những tiền đề cho giải quyết vấn đề đang đặt ra. Tố chất
cá nhân, phương pháp giáo dục và môi trường xã hội là các nhân tố ảnh hưởng,
quy định đến sự xuất hiện các ý tưởng mới. Cần phải có cơ chế khuyến khích,
động viên các tập thể, cá nhân biến những ý tưởng sáng tạo trong khoa học, nghệ
thuật, kinh doanh… hiện thực hoá trong thực tiễn.
Tiến sĩ Đào Văn Tiến khi nghiên cứu về “Phát triển năng lực tư duy sáng
tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”,
cho rằng năng lực tư duy sáng tạo là “tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện,


liên tưởng, trừu tượng hoá, khái quát, xử lý thông tin trong quá trình phản ánh và
tạo ra tri thức mới về đối tượng để chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người
ngày càng có hiệu quả cao” [39, tr.22].
Tiến sĩ Lê Quý Trịnh khi nghiên cứu về “Phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan
trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” đã đưa ra quan niệm năng lực trí
tuệ là “khả năng hoạt động của trí tuệ trong việc tìm kiếm, khám phá, tích luỹ tri
thức và vận dụng tri thức vào giải quyết những nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra, đảm
bảo cho hoạt động của con người đạt chất lượng và hiệu quả cao” [43, tr.17].

Có thể nói trong một số quan điểm của các nhà khoa học đã công bố ở
những góc độ khác nhau, nhiều vấn đề liên quan tới ý tưởng, ý tưởng sáng tạo và
các nguyên tắc, quy tắc, kỹ năng hình thành ý tưởng sáng tạo được luận giải khá
sâu sắc. Đó là những đóng góp đáng trân trọng, có ý nghĩa trong tham khảo,
nghiên cứu vấn đề liên quan tới ý tưởng và ý tưởng sáng tạo của con người trong
xã hội và trong quân đội. Tuy nhiên, chưa có công trình của tác giả nào nghiên
cứu một cách trực tiếp, cơ bản, có hệ thống dưới góc độ triết học- xã hội học về
phát triển ý tưởng sáng tạo của một nhóm đối tượng trong lĩnh vực hoạt động
đặc thù đó là học viên sau đại học ở Học viện Chính trị.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau
đại học ở Học viện Chính trị hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của
mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển ý tưởng sáng tạo, đề xuất một
số giải pháp nhằm hiện thực hoá quá trình này với đối tượng học viên sau đại học
ở Học viện Chính trị hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ thực chất phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học
viện Chính trị.
- Chỉ ra đặc điểm phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học
viện Chính trị.


- Đánh giá thực trạng phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học;
một số vấn đề đặt ra và yêu cầu đối với phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau
đại học ở Học viện Chính trị.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của việc phát triển ý
tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở học viện chính trị hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu: Phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học
ở Học viện Chính trị.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào một lớp đối tượng là học viên sau đại
học (đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ) ở Học viện Chính trị. Thời gian điều tra khảo sát, sử
dụng tài liệu chủ yếu từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng của phát triển ý tưởng sáng tạo
của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị hiện nay; những biến đổi của giáo
dục - đào tạo trên thế giới, trong nước và quân đội có liên quan đến ý tưởng sáng
tạo. Các số liệu điều tra xã hội học ở một số công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học; kết quả khảo sát của tác giả ở Hệ Sau đại học - Học viện Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá, phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn
trực tiếp và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về phát triển ý tưởng của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu trong công tác
giáo dục, đào tạo và quản lý ở Học viện Chính trị hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO
CỦA HỌC VIÊN SAU ĐẠI HỌC Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

1.1. Ý tưởng sáng tạo và thực chất phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên
sau đại học ở Học viện Chính trị
1.1.1. Khái niệm ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị
Để có quan niệm rõ ràng, đúng đắn về ý tưởng sáng tạo của học viên sau
đại học ở Học viện Chính trị, trước tiên cần làm rõ ý tưởng của con người là gì?
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: Ý tưởng là những ý nghĩ nảy sinh trong đầu
óc của con người [50, tr.1885]; những ý nghĩ đó có thể được định hình một cách
rõ ràng, trọn vẹn hoặc chưa rõ ràng, đầy đủ về mặt trật tự kết cấu nội dung cũng
như tính thể nghiệm của ý tưởng trong hiện thực.
Nói một cách cụ thể hơn ý tưởng là kết quả của quá trình tư duy dưới dạng
ngôn ngữ bên trong hoặc một chuỗi các lập luận, suy lý…, tức là một ý nghĩ
được ý thức một cách rõ ràng như là một nội dung của quá trình tư duy hay hoạt
động tiếp sau đó.
Ý tưởng của con người không phải ngẫu nhiên mà có, trái lại, nó là sản phẩm,
của quá trình tư duy. Vì vậy, ý tưởng liên quan mật thiết đến hoạt động của não bộ
con người và liên quan tới toàn bộ quá trình nhận thức từ trực quan (cảm giác, tri
giác, biểu tượng, tưởng tượng) đến tư duy trừu tượng (khái niệm, phán đoán, suy
luận). Cơ sở chủ yếu, trực tiếp nhất của ý tưởng là thực tiễn. Trong quá trình sống
tồn tại và phát triển, con người luôn suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, tìm kiếm đưa ra
các ý tưởng mới nhằm đáp ứng, thoả mãn các nhu cầu mang tính khách quan. Thực
tiễn chính là cơ sở, nền tảng làm cho quá trình tư duy và ở những mắt khâu ý tưởng
được nảy sinh trong quá trình tư duy ngày càng chính xác, hoàn thiện hơn. Thông
qua thực tiễn và bằng thực tiễn, con người vừa phản ánh và nhận thức được các mối
liên hệ, bản chất tất yếu của các sự vật, hiện tượng, đồng thời cũng chính từ đó làm
nảy sinh ý tưởng, thực tiễn là cơ sở để kiểm chứng, thực thi lưu chuyển các ý tưởng
của con người vào cuộc sống.


Ý tưởng của con người được nảy sinh và diễn ra trong các hoạt động, bao
gồm cả hoạt động bên trong (tư duy) và hoạt động bên ngoài (thực tiễn). Quá trình

sáng tạo thực chất là hành động tư duy làm bật ra những ý tưởng mới khi đối mặt
với các tình huống có vấn đề, nó xuất hiện khi có sự mâu thuẫn giữa cái đã biết với
cái chưa biết, với những phương thức cũ, lạc hậu không còn phù hợp đòi hỏi con
người không ngừng tìm kiếm ý tưởng, đề ra phương pháp giải quyết mới cho các
vấn đề cấp thiết của cuộc sống.
Ý tưởng không phải là một cái gì đó chung chung, trừu tượng. Trên thực tế ý
tưởng thường được thể hiện dưới những hình thức cụ thể nhất định và được truyền
tải dưới các dạng viết, vẽ, ghi âm, ghi hình hoặc được trình bày dưới một hình thức
bất kỳ nào đó để có thể hiểu và lưu trữ được. Các hình thức thể hiện ý tưởng của
con người rất phong phú, đa dạng và tuỳ theo từng lĩnh vực cụ thể mà ý tưởng tồn
tại dưới nhiều dạng, loại khác nhau.
Hành trình tạo ra ý tưởng không phải là một cái gì đó quá khó khăn. Trên thực
tế không phải cứ có ý tưởng là có tất cả và mọi ý tưởng đều trở thành hiện thực.
Điều quan trọng là làm thế nào để ý tưởng lưu chuyển, bộc lộ trở thành hiện thực và
có ích lợi. Nhưng toàn bộ quá trình này lại tuỳ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau như là các phẩm chất, năng lực tư duy....các điều kiện về kinh tế, tài chính. Có
những ý tưởng thiên tài, có ý tưởng tạo nên sự khác biệt và mọi sáng tạo đột phá
trước khi trở thành sự thật đều nảy sinh từ một ý tưởng của một cá nhân nào đó.
Nhưng ngay cả một số ý tưởng, dù rất vĩ đại, nếu không được hiện thực hoá và
được mọi người công nhận thì vẫn chỉ dừng lại ở một “ý tưởng” đơn thuần không
có giá trị. Bởi vì, ý tưởng là những ý nghĩ nảy sinh trong đầu thường chưa thật trọn
vẹn, do vậy nó có thể còn chung chung, trừu tượng. Ý tưởng chỉ là chất liệu “thô”
ban đầu và trên chất liệu ấy con người tiến hành các thao tác, kỹ năng “ cơ bắp” của
tư duy để hoàn thiện và hiện thực hoá ý tưởng vào cuộc sống, mang lại ích lợi cho
xã hội và cho cá nhân, đến lúc đó ý tưởng mới thực sự có giá trị và ý tưởng mới
mang nghĩa đầy đủ là ý tưởng sáng tạo.
Tất nhiên, để có thêm cơ sở cho nghiên cứu về ý tưởng sáng tạo cũng cần làm
rõ một số vấn đề liên quan đến khái niệm sáng tạo. Đơn giản bởi vì, không phải
mọi ý tưởng đều là sáng tạo. Sáng tạo gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển của
xã hội loài người. Từ việc tìm ra lửa, chế tạo ra công cụ bằng đá thô sơ... cho đến

việc sử dụng năng lượng nguyên tử, chinh phục vũ trụ..., hoạt động sáng tạo của


loài người ngày càng phát triển, không có giới hạn. Sáng tạo không thể tách rời khỏi
hoạt động thực tiễn, tách rời khỏi tư duy, hoạt động của bộ não con người. Chính
quá trình sáng tạo với chủ thể là con người đã tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần,
các thành tựu vĩ đại trên tất cả các lĩnh vực của đời sống và tạo ra nền văn minh
nhân loại.
Sáng tạo là khái niệm vô cùng rộng lớn về phạm vi sử dụng. Nó không có
giới hạn cuối cùng khi sử dụng (hoặc áp dụng) trong tất cả các hệ thống phân loại
của nền văn minh nhân loại như: hệ thống đo, đếm, quy chiếu, chuẩn mực, các
thông số theo toán học, vật lý, hoá học...cho đến cả triết học, tâm lý học, xã hội học,
thần học, tương lai học hay vũ trụ học...Tính phổ biến của khái niệm sáng tạo thể
hiện ở phạm vi sử dụng của nó. Ở đâu, trong bất kỳ lĩnh vực nào của nền văn hoá,
văn minh của loài người, khi xuất hiện một sự vật, hiện tượng mới, có giá trị đối với
cho con người thì đều được coi là sự sáng tạo. Từ đó, chúng ta có thể thấy thuật ngữ
sáng tạo gắn với rất nhiều các khái niệm khác nhau như: ý tưởng sáng tạo, quan điểm
sáng tạo, việc làm sáng tạo, hành động sáng tạo, công cụ sáng tạo, phương tiện sáng
tạo, phương pháp sáng tạo...Ở đây, tác giả luận văn chỉ đề cập đến hoạt động sáng
tạo trong quan hệ trực tiếp với ý tưởng hay ý tưởng sáng tạo.
Theo đó, có thể định nghĩa: Ý tưởng sáng tạo là kết quả của quá trình tư
duy đưa đến những phát sinh (phát hiện, phát kiến, phát minh, sáng chế) tạo
ra một hay nhiều sự vật, hiện tượng mới, hữu ích, có giá trị về vật chất và tinh
thần đáp ứng được nhu cầu của con người trong xã hội.
Cả lý luận và thực tiễn đều yêu cầu, ý tưởng chỉ trở thành ý tưởng sáng tạo
khi hội hội tụ đầy đủ các thuộc tính sau đây:
Trước hết, ý tưởng phải có tính mới. Tính mới ở đây được hiểu như là hiện
thân, là sự kết hợp hay tổng hợp kiến thức trong toàn bộ quy trình từ điểm khởi
đầu đến điểm kết thúc của ý tưởng, phản ánh sự phá cách tạo ra một chất lượng
mới, sự ưu trội luôn phù hợp với xu thế chung và thật sự có ý nghĩa đối với mỗi

cá nhân và toàn xã hội.
Đồng thời cùng với tính mới, ý tưởng phải có tính hữu ích. Ý tưởng sáng
tạo luôn gắn rất chặt với hành động sáng tạo để đưa đến các sản phẩm sáng tạo
và chúng luôn có mối quan hệ với hiện thực. Tính hữu ích của ý tưởng sáng tạo
tức là trong ý tưởng đó phản ánh hiện thực một cách tối đa trong những tình


huống mới, chất lượng mới và cả mục đích mới, ý tưởng sáng tạo trong bất kỳ
lĩnh vực nào của đời sống xã hội bao giờ cũng gắn với việc tạo ra cái mới, độc
đáo, tốt đẹp hơn và luôn có lợi cho sự phát triển của xã hội.
Tất nhiên, tính thông suốt cũng là một đặc trưng, một thuộc tính của ý
tưởng sáng tạo, đó là tốc độ đưa ra kiến giải mới và được định hướng theo mạch
tư duy nhất định. Theo đó, toàn bộ quá trình nảy sinh ý tưởng đến tổ chức thực
thi ý tưởng luôn tuân theo các quy luật, quy tắc của tư duy. Tính thông suốt là
thước đo của ý tưởng sáng tạo.
Một trong những đặc trưng quan trọng của ý tưởng sáng tạo là tính linh
hoạt của nó. Tính linh hoạt là sự nhìn nhận vấn đề từ mọi góc độ, xem xét vấn đề
từ những góc nhìn của người khác, tổ hợp khái niệm cũ bằng phương thức mới,
suy diễn, lập luận ngược lại với các cách nghĩ đã có trước đây. Nó còn bao gồm
các khả năng cảm quan khi sáng tạo ra ý tưởng mới.
Bên cạnh đó, tính độc đáo cũng là một thuộc tính không thể thiếu được của
ý tưởng sáng tạo. Thể hiện khả năng sáng tạo ra ý tưởng hoàn toàn mới mẻ có sự
khác biệt với những ý tưởng trước đó và của người khác. Từ khi phát ra ý tưởng
(nhìn nhận vấn đề) và các cách thức thực thi ý tưởng (phương án giải quyết, tổ
chức thực hiện vấn đề) có sự khác lạ với thông thường và có khuynh hướng
tránh lặp lại cách giải quyết cũ đã có bằng sự hoài nghi.
Tính phát tán, nối kết và rút gọn là một thuộc tính vốn có của ý tưởng sáng
tạo. Một người suy nghĩ có tính sáng tạo thường bắt đầu từ một ý tưởng trung tâm
rồi lấy đó làm cơ sở để dẫn dắt, phát tán, kết nối kéo dài tư duy ra các hướng và dần
hoàn thiện khiến nó trở thành một ý tưởng sáng tạo hoàn chỉnh hoặc trên cơ sở rất

nhiều ý tưởng cho một vấn đề nào đó, chủ thể tiến hành phân tích, chọn lọc lấy một
vài ý tưởng hợp lý để tổ chức triển khai hoàn thiện ý tưởng.
Cuối cùng là tính liên tưởng. Người có ý tưởng sáng tạo hay nghĩ sáng tạo
sẽ sử dụng hợp lý bộ não (cơ quan liên tưởng) to lớn, cơ quan này sẽ giúp cho
con người tạo ra các ý tưởng mới phong phú, sinh động. Người có ý tưởng, suy
nghĩ sáng tạo có thể sử dụng tài nguyên vô hạn đó để cải thiện sức sáng tạo của
mình ở mọi phương diện.
Những trình bày sơ bộ trên đây cho phép chúng ta tiếp cận ý tưởng sáng
tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị một cách rõ nét hơn.


Học viện Chính trị là một trong những trung tâm lớn của quốc gia được
Nhà nước giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học và là cơ sở duy nhất đào tạo cán bộ
chính trị có trình độ sau đại học về khoa học Mác - Lênin và một số chuyên
ngành khoa học xã hội nhân văn liên quan chặt chẽ đến xây dựng quân đội về
chính trị. Điều đó quy định đặc điểm của học viên sau đại học ở Học viện Chính
trị. Trước khi về học tập ở Hệ Sau đại học - Học viện Chính trị, họ là những cán
bộ làm công tác chính trị, giảng dạy, nghiên cứu tại các học viện, nhà trường
hoặc đảm nhiệm các cương vị lãnh đạo, chỉ huy ở các cơ quan, đơn vị trong toàn
quân. Tuổi đời bình quân của học viên tham gia đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ ở Học
viện thường cao hơn so với các trường ngoài quân đội thậm chí so với một số
trường đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật trong quân đội. Thực tế tuổi quân đào
tạo sau đại học hiện nay ở độ tuổi trên dưới 40, thậm chí có một số trường hợp
gần 50 tuổi. Nhìn chung, học viên sau đại học thể hiện sự vững vàng về nhân
cách và bản lĩnh; có sự chín muồi về trí tuệ, ý chí và tình cảm; hoạt động của các
quá trình tâm sinh lý, hệ thống thần kinh, khí chất…đó là những lợi thế của lứa
tuổi này trong hoạt động nghiên cứu, đặc biệt đối với lĩnh vực khoa học xã hội
nhân văn quân sự, lĩnh vực cần phải có độ chín nhất định và những tích luỹ cần
thiết để nhận thức, lý giải các vấn đề chính trị- xã hội. Đa số học viên sau đại
học ở Học viện là cùng một thế hệ, cùng độ tuổi, vì vậy ở họ có những nét tương

đồng về nhiều mặt; luôn thể hiện sự thống nhất cao trong suy nghĩ và hành động.
Đây là những điểm thuận lợi để họ giao lưu, chia sẻ cùng nhau phát triển ý tưởng
sáng tạo trong quá trình học tập, nghiên cứu. Đặc biệt, học viên sau đại học rất
nhạy cảm, ham hiểu biết, có khả năng tiếp thu kiến thức mới; giao tiếp rộng, dễ
hoà nhập và luôn gắn bó với nhau; có sự đoàn kết cộng đồng khá tốt, các thành
viên đều nỗ lực, cố gắng thực hiện tốt các nhiệm vụ đào tạo sau đại học và luôn
có ý thức, trách nhiệm đối với tập thể. Điểm nổi bật của họ là ưa hoạt động
nghiên cứu, tìm tòi, khám phá cái mới, có thái độ động cơ, mục đích phấn đấu
đúng đắn trong học tập, công tác.
Tuy nhiên, học viên sau đại học ở Học viện Chính trị cũng đã và đang gặp
không ít khó khăn trong quá trình đào tạo. Ở họ còn có những hạn chế, thiếu hụt
về lượng tri thức, kỹ năng, kỹ sảo, phương pháp tư duy. Mặc dù, “họ đều đã
được đào tạo ở nhiều cấp, nhiều khoá huấn luyện, song chưa thật đồng bộ, thiếu
tính hệ thống…Ở họ chưa thật sự hình thành thói quen về những phương pháp


học tập, nghiên cứu khoa học” [19, tr.36]. Hơn nữa, những tác động từ mặt trái
của nền kinh tế thị trường và tiêu cực xã hội trong thời kỳ hội nhập, dẫn đến
những biến đổi, phức tạp, nhạy cảm trong các mối quan hệ xã hội, làm cho trạng
thái tinh thần, tư tưởng, trạng thái tâm sinh lý của học viên sau đại học thêm
phức tạp hơn. Chính sự phức tạp này tiếp tục quy định và ảnh hưởng không nhỏ
tới thái độ, động cơ, sức sáng tạo của học viên trong quá trình đào tạo sau đại
học ở Học viện. Đó là những vấn đề mà chúng ta phải tính đến, phải đối mặt
trong quá trình gây dựng, phát triển ý tưởng sáng tạo ở đối tượng học viên đặc
biệt này.
Từ cơ sở phân tích một số đặc điểm cơ bản của học viên sau đại học ở Học
viện Chính trị, tác giả đưa ra khái niệm: Ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại
học ở Học viện Chính trị là kết quả của quá trình tư duy với nền tảng là một hệ
thống tri thức mang tính đặc thù, hướng đến các phát hiện mới có giá trị nhằm
giải quyết hiệu quả nhiệm vụ đặt ra đối với học viên cao học và nghiên cứu sinh

ở Học viện Chính trị.
Ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học vừa mang những điều kiện cần
và đủ, phản ánh các thuộc tính của ý tưởng sáng tạo nói chung, đồng thời cũng
có một số thuộc tính riêng, đặc thù do thực tiễn đào tạo sau đại học ở Học viện
Chính trị quy định.
Trước hết, là tính định hướng chính trị quân sự rõ nét. Tính định hướng
trong ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện là toàn bộ quá trình
từ việc phát hiện và giải quyết vấn đề đều hướng vào và luôn gắn rất chặt với
thực tiễn hoạt động quân sự; là sự thể hiện mục đích của chủ thể trong nhận thức
và suy nghĩ sáng tạo, là sự vận dụng có hiệu quả hệ thống tri thức cùng với trải
nghiệm được đúc rút qua thực tiễn vào hoạt động học tập, nghiên cứu, luôn nhạy
bén trong phát hiện, tạo dựng ý tưởng mới, tìm mọi biện pháp giải quyết, tạo
điều kiện thúc đẩy cho ý tưởng sáng tạo của người học phát triển đúng hướng.
Ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học là hình ảnh của tư duy luôn gắn
với quá trình nhận thức khách quan, có mục đích hướng đến chỉ đạo hoạt động
thực tiễn quân sự. Chính những kết quả của sự chỉ đạo hoạt động quân sự là tiêu
chuẩn khách quan để khẳng định, đánh giá ý tưởng đó thực sự là ý tưởng sáng
tạo hay không. Trong thực tế đã có nhiều kiểu, dạng và không ít ý tưởng viển
vông, phi khoa học, sáo rỗng, máy móc, không coi trọng thực tiễn, không có tính


định hướng. Từ đó thấy rằng, khi được gọi là ý tưởng sáng tạo thì phải luôn gắn
với hiện thực khách quan, phản ánh đúng hiện thực khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm chứ không thể xuất phát từ hư vô, chủ quan, tuỳ tiện, duy ý chí.
Ý tưởng xuất phát từ chính hoạt động quân sự, thực tiễn là tiêu chuẩn để
kiểm tra ý tưởng. Thực tiễn đặt ra mục đính, yêu cầu, cung cấp công cụ, phương
tiện giúp người học kiểm tra ý tưởng của mình một cách khách quan, chính xác.
Trong nội dung của ý tưởng sáng tạo thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa
khách quan và chủ quan, giữa lý luận và thực tiễn. Theo đó, ý tưởng sáng tạo của
học viên sau đại học ở Học viện dựa trên nền tảng thế giới quan, phương pháp

luận duy vật biện chứng, vận hành theo hệ thống các nguyên tắc, quy luật của
quá trình tư duy lôgíc chính xác, lôgíc biện chứng và hệ thống tri thức khoa học.
Tính định hướng của ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện
còn được thể hiện trong nội dung của nó, luôn xuất phát từ nền tảng lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
đường lối nghệ thuật quân sự và hệ thống tri thức khoa học mà người học đã
được trang bị, thẩm thấu; là sự thống nhất giữa nội dung với cách thức diễn đạt,
trình bày bằng hệ thống thuật ngữ chuyên ngành thể hiện tính học thuật cao.
Ý tưởng sáng tạo là hình ảnh, kết quả của quá trình tư duy nên ý tưởng của
học viên sau đại học đã được bóc tách khỏi sự tiếp xúc trực tiếp với đối tượng và
được trừu tượng hoá, khái quát hoá từ đó đưa ra những hiểu biết mới dưới các
dạng: quan niệm, khái niệm, đặc trưng, đặc điểm, vấn đề có tính quy luật hay
những phương pháp, cách thức tiếp cận mới trong phát hiện, giải quyết vấn đề
mà ý tưởng đề cập tới.
Tính định hướng của ý tưởng sáng tạo đòi hỏi người học, chủ thể của quá
trình tư duy giữ đúng hướng, mạch lạc trong tư duy; ý tưởng được trình bày
chính xác, rõ ràng, văn phong trong sáng, khúc triết, không phạm lỗi tư duy, bảo
đảm tính khoa học và sự chuẩn hoá cao.
Do liên quan một cách trực tiếp đến quá trình tổ chức, thực hiện các sản
phẩm khoa học chủ yếu của học viên sau đại học là các luận văn, luận án nên ý
tưởng sáng tạo của họ phải mang tính thực tế - khả thi. Ý tưởng chỉ có ý nghĩa khi
được hiện thực hoá vào trong các bài viết, công trình của họ. Do đó, cần xác định
quy trình thực thi, lưu chuyển ý tưởng thành thực tế. Tính khả thi được xác định
bằng các kế hoạch cụ thể nhằm bảo đảm quá trình triển khai ý tưởng thông suốt,


người học thiết kế, lên kế hoạch cho các hành động, việc làm, sắp xếp chúng theo
thứ tự ưu tiên. Dự kiến thời gian, tự thi công, giám sát tiến độ và kiểm tra kết quả.
Đồng thời, điều đó còn giúp người học tự kiểm soát và cân bằng các nguồn lực
nhằm mục đích bảo đảm và gia tăng kết quả cho sự thành công của ý tưởng.

Tính khả thi trong ý tưởng sáng tạo của họ sẽ giúp cho người học có một
cách tiếp cận hệ thống và nhất quán đối với các vấn đề nghiên cứu. Để làm được
điều đó, với từng mục tiêu cụ thể trong kế hoạch cần rõ ràng, chi tiết. Như vậy,
mới có thể kiểm tra, đánh giá được mức độ chất lượng, hiệu suất của tiến trình
thực thi ý tưởng. Trong trường hợp ý tưởng lâm vào bế tắc, hãy xem những khó
khăn đó là cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, tiếp tục tìm cách thức mới để hoàn
thiện ý tưởng; quá trình triển khai thực hiện ý tưởng cần lường trước được những
khó khăn có thể nảy sinh và chuẩn bị sẵn sàng đương đầu với chúng. Luôn đối
chiếu kế hoạch thực hiện ý tưởng với tình hình thực tế và tiến hành ngay các
biện pháp cần thiết sửa chữa bất kỳ những lệch lạc. Thật vậy, nếu ý tưởng của
học viên sau đại học ở Học viện Chính trị thiếu tính khả thi và không được tiến
hành theo một kế hoạch cụ thể, chắc chắn sẽ rơi vào mò mẫm, bế tắc, chệch
hướng và gặp nhiều rủi ro.
Cùng với đó, tính dự kiến và có độ chính xác cũng là một đặc tính của ý
tưởng sáng tạo ở học viên sau đại học ở Học viện Chính trị. Dự kiến và độ chính
xác của ý tưởng sáng tạo là một trong những nội dung mang tính tất yếu, phổ
biến, luôn đóng vai trò quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đặc
biệt, trong lĩnh vực nhận thức và hoạt động quân sự, dự kiến kịp thời, chính xác
càng có ý nghĩa, vai trò to lớn. Những dự kiến, dự báo được phản ánh trong ý
tưởng sáng tạo luôn được đề cao, là do xuất phát từ đặc điểm của hoạt động quân
sự luôn liên quan đến chiến tranh, đấu tranh vũ trang, đến chiến đấu và sẵn sàng
chiến đấu, nhất là hiện nay do tốc độ phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa
học công nghệ và ứng dụng của nó vào lĩnh vực quân sự ngày càng đặt ra yêu
cầu cao về độ dự kiến và chính xác cho mỗi chủ thể sáng tạo.
Tính dự kiến thể hiện trong ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học là nói
đến sự nhận biết, thấy trước về một điều gì đó có thể diễn ra hay không diễn ra
trong tương lai, dự đoán được nguyên nhân, kết quả và xu hướng vận động biến đổi
của sự vật, hiện tượng và các quá trình quân sự mà nội dung của ý tưởng đề cập.
Xét về mặt bản chất, dự kiến trong ý tưởng là nội dung hiểu biết vượt trước hiện



thực. Dự kiến là một trong các biểu hiện quan trọng của tính tích cực, chủ động suy
nghĩ sáng tạo của người học ở những điều kiện, hoàn cảnh vật chất nhất định.
Ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị thường gắn
với lĩnh vực quân sự, nên dự kiến là một đòi hỏi khách quan, tất yếu và phổ biến.
Ngay từ trong thời bình chúng ta cần có những dự kiến, chủ động về chiến tranh
tương lai có thể xảy ra là như thế nào. Từ đó đặt ra hàng loạt các vấn đề về xây
dựng nhân tố chính trị, tinh thần, bản lĩnh, niềm tin..., trong mỗi vấn đề ấy lại có
những dự kiến mới, từ đó vạch ra các biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, làm giảm tới
mức thấp nhất yếu tố bất lợi, xây dựng và làm gia tăng các nhân tố tích cực để
giành được nhiều thắng lợi.
Ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học phát sinh từ một dung lượng tri
thức nhất định và được khái quát thông qua hoạt động học tập, nghiên cứu khoa
học. Mặc dù chưa được thực tiễn kiểm nghiệm nhưng vẫn có thể khẳng định ý
tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện chính trị có độ chính xác cao.
Người học có thể tự hình dung được những hình ảnh mới, điều gì sẽ xảy ra, chủ
động dự kiến tương đối sát tình huống diễn biến, khả năng có thể xảy ra, nhận
định đánh giá đúng tình hình từ đó chuẩn bị được nhiều phương án, biện pháp xử
lý các tình huống đạt hiệu quả cao nhất.
Do tính chất nhiệm vụ của hoạt động quân sự, trực tiếp nhất là do yêu cầu
của bậc đào tạo đã đặt ra những đòi hỏi mang tính ràng buộc đối với mỗi học viên
sau đại học ở học viện Chính trị phải có các ý tưởng mới, hiểu biết mới, luận giải
mới một cách sâu sắc, chính xác về các hiện tượng, quá trình quân sự đã và đang
diễn ra. Đồng thời, những đòi hỏi này đã làm cho tư duy, nhận thức của người học
vào trạng thái “kích hoạt” vận động theo sự biến đổi của các hiện tượng, quá trình
quân sự ấy, qua đó cho phép người học vạch ra khuynh hướng phát triển, sự
chuyển hóa giữa chúng; người học sử dụng hệ phương pháp nghiên cứu, các thủ
pháp, cách thức mới để chọn lọc, bóc tách từ vô số các thuộc tính, yếu tố ngẫu
nhiên, không cơ bản, không bản chất để rút ra được những thuộc tính, các “hạt”
hợp lý, các mối quan hệ bản chất có tính quy luật một cách khoa học, chính xác.

Tính chính xác của ý tưởng sáng tạo còn được biểu hiện ở người học phát
hiện, đánh giá đúng sự thật, xử lý các mâu thuẫn, tình huống nảy sinh, những
nguồn thông tin liên quan trong một thời gian nhanh nhất. Đưa ra được các quyết


định đúng đắn, rõ ràng, kịp thời về phương thức hoạt động đáp ứng với quá trình
vận động, biến đổi, phát triển của các hiện tượng, quá trình quân sự.
Tính đặc thù của môi trường hoạt động đòi hỏi ý tưởng sáng tạo của học viên sau
đại học ở Học viện Chính trị thể hiện tính chủ động, tích cực và quyết đoán. Vì người
học đang sống, học tập và làm việc trong môi trường quân sự - một lĩnh vực đặc thù,
phức tạp. Là nơi diễn ra lao động đặc biệt với tinh thần trách nhiệm cao nhất, luôn có
sự căng thẳng về thể chất, tinh thần và tâm lý… Đó là lĩnh vực luôn ẩn chứa sự đối đầu
quyết liệt, biến động của chúng hết sức mau lẹ, nhanh chóng. Trong lĩnh vực này luôn
tiềm ẩn những yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ, nhiều đại lượng chưa biết. Đặc điểm đó đã
quy định đến ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị có tính
chủ động, tích cực, quyết đoán trong thực hiện. Bởi vì, mọi ý tưởng sáng tạo của người
học đều phải tập trung vào giải quyết các nhiệm vụ liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
đến hoạt động thực tiễn quân sự. Trong lĩnh vực này, tốc độ, nhịp độ rất khẩn trương,
luôn có sự biến đổi gia tăng về chất lượng và số lượng, đòi hỏi trong ý tưởng có sự
nhạy cảm, thích nghi nhanh với mọi tình hình, luôn phản ánh đúng các hoạt động thực
tiễn và tính tích cực chỉ đạo các hoạt động đó. Vì vậy, tính thể hiện của ý tưởng sáng
tạo thường độc đáo về phương pháp, kết quả, táo bạo và quyết đoán. Nó luôn luôn đổi
mới, tự hoàn thiện và tạo ra những điều mới mẻ. Để đạt được điều này, yêu cầu người
học điều khiển quá trình hiện thực ý tưởng luôn giữ đúng tính hệ thống, đi vào bản chất
của sự vật, vận hành đúng quy luật nhằm phục vụ tốt cho các mục đích đã đề ra.
Tính chủ động, tích cực, quyết đoán trong ý tưởng sáng tạo còn biểu hiện ở
khả năng đưa ra các quyết định kịp thời trên cơ sở tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng
mọi vấn đề. Bởi vì, trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học ở Học viện là
quá trình người học vừa so sánh, đối chiếu giữa hệ thống tri thức được trang bị
và những trải nghiệm được tích luỹ với quá trình đưa ra ý tưởng và thực hiện ý

tưởng, họ phải luôn đối mặt với hàng loạt mâu thuẫn, các tình huống nảy sinh từ
thực tiễn. Do vậy, người học không được chần chừ, do dự, bỏ lỡ thời cơ, mà cần
chủ động thực hiện ý tưởng đã được “khai sáng”. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa
học xã hội và nhân văn quân sự, nhiều khi ý tưởng độc đáo xuất hiện hết sức đột
ngột, ý tưởng xuất hiện như “tia chớp” vụt thoáng qua, bỏ qua tất cả các bước,
các thao tác của tư duy và tại thời điểm ý tưởng loé sáng, người học có thể thấy
rõ các điều kiện cần thiết. Do đó, phải nhanh chóng nắm bắt lấy thời điểm
“vàng” xuất hiện ý tưởng và quyết tâm tổ chức thực hiện.


Trong quá trình thực hiện ý tưởng gặp khó khăn, hoặc tình hình có sự thay
đổi, người học nhanh chóng đưa ra các phương thức giải quyết tối ưu sao cho phù
hợp với thực tế. Để có sự chủ động, quyết đoán cao trong ý tưởng sáng tạo, người
học cần linh hoạt trong xử lý các vấn đề bằng sự tinh tế, nhạy cảm của hệ thống cơ
quan cảm giác, bằng trực giác quân sự. Yêu cầu cao về tính đa dạng trong phương
án xử lý tình huống, xem xét vấn đề theo nhiều chiều hướng khác nhau không
phiến diện, bất biến, dập khuôn, máy móc.
1.1.2. Thực chất phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở
Học viện Chính trị
Từ những phân tích khái lược trên đây có thể đưa ra khái niệm: Phát triển ý
tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị là quá trình
tương tác tích cực, tự giác giữa chủ thể và đối tượng đào tạo nhằm tích hợp,
chuyển hoá lượng tri thức của người học theo hướng đưa ra những ý tưởng
mới nhằm giải quyết sáng tạo các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra đối với học viên
sau đại học trong từng giai đoạn của quá trình đào tạo sau đại học ở Học viện.
Thứ nhất, phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện
Chính trị là quá trình tương tác tích cực, tự giác, thường xuyên tác động, tiếp
nhận tác động giữa chủ thể đào tạo và đối tượng đào tạo diễn ra trong hoạt
động giáo dục - đào tạo sau đại học ở Học viện Chính trị.
Kết quả của quá trình phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở

Học viện là sản phẩm tổng hợp của nhiều yếu tố, mỗi nhân tố có vị trí, vai trò, hợp
lực tác động theo các cấp độ khác nhau. Có những nhân tố tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp, có nhân tố tham gia trong cả quá trình hay ở từng giai đoạn... Song, hai
nhân tố cơ bản, trọng tâm xuyên suốt của quá trình là chủ thể đào tạo và đối tượng
đào tạo. Chủ thể đào tạo bao gồm hệ thống các tổ chức tham gia đào tạo sau đại
học trong Học viện: Hệ thống tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan sau đại học, các
khoa chuyên ngành, hệ sau đại học và một số lực lượng liên quan.
Hoạt động của chủ thể đào tạo là hoạt động có mục đích, nội dung, kế
hoạch, chịu sự quy định của mục tiêu, yêu cầu đào tạo với nhiều hình thức phong
phú nhằm đưa đến những lượng tri thức, hệ phương pháp nghiên cứu làm chuyển
biến quá trình nhận thức của người học; đưa đến những định hướng về nhu cầu,
ham muốn, tạo ra sự chuyển hoá thôi thúc họ vươn lên làm chủ quá trình học tập,


nghiên cứu, làm ra sản phẩm là các công trình khoa học, phản ánh và chứa đựng
trong đó các ý tưởng sáng tạo mới lạ, độc đáo. Đồng thời, chủ thể đào tạo thường
xuyên kiểm tra, theo dõi, giám sát toàn bộ quá trình đó. Chính vì vậy, hoạt động
của chủ thể đào tạo mang tính hệ thống, liên tục, thiết thực và tự giác.
Học viên sau đại học ở Học viện Chính trị trong mối quan hệ với chủ thể
đào tạo thì họ là đối tượng đào tạo. Còn đứng trước hệ thống giá trị tri thức, kiến
thức “ chất liệu” cơ bản mà mỗi học viên cần có để tạo ra ý tưởng mới hướng
vào giải quyết các yêu cầu khách quan của quá trình đào tạo, họ lại là chủ thể tự
giác, chủ động, tích cực tiếp nhận hệ thống giá trị đó. Nói một cách khác, hệ
thống tri thức chỉ được tiếp nhận, chuyển hoá thành những giá trị mới, khi người
học thực sự chủ động tích cực, tự giác tiếp nhận. Vai trò của chủ thể đào tạo là
rất quan trọng, song nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển ý tưởng sáng
tạo của học viên sau đại học chính là ở bản thân họ, chủ thể tiếp nhận, lĩnh hội.
Vì vậy, quá trình phát triển đó chỉ có ý nghĩa và mang lại hiệu quả cao khi nó
thực sự trở thành một nhu cầu phát triển tự thân, tự phát triển.
Sự phát triển ý tưởng sáng tạo của người học diễn ra trong môi trường đào

tạo sau đại học ở Học viện Chính trị. Các nhân tố trong môi trường tác động đến
quá trình phát triển đó theo những hướng khác nhau, có hướng tích cực, tiêu cực.
Do đó, cần tạo ra hợp lực đủ mạnh, các tác nhân tích cực để thúc đẩy quá trình
phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học luôn đúng hướng. Điều này
đòi hỏi sự cố gắng, quyết tâm của tất cả các tổ chức, các lực lượng, trong đó đặc
biệt nhấn mạnh tới đội ngũ các nhà giáo, nhà khoa học tham gia trực tiếp vào
quá trình đào tạo sau đại học ở Học viện và sự nỗ lực không ngừng của mỗi học
viên.
Thứ hai, phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện
Chính trị là quá trình tích luỹ, chuyển hoá vốn tri thức, kiến thức, người học đưa
ra được những ý tưởng mới và hiện thực hoá chúng nhằm giải quyết tốt nhất các
nhiệm vụ đặt ra đối với mỗi học viên sau đại học ở Học viện.
Phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học được thực hiện trong
suốt quá trình đào tạo ở Học viện, là quá trình người học lựa chọn, tiếp nhận, tích
luỹ dần những lượng tri thức tổng hợp, tri thức lý luận chuyên ngành. Qua đó học
viên nâng cao nhận thức, hiểu biết, từng bước hoàn thiện, nâng cao trình độ, năng
lực tư duy, khả năng sáng tạo đưa ra ý tưởng mới. Trạng thái quá trình phát triển ý


tưởng sáng tạo của người học diễn ra theo xu thế không thể đảo ngược, phản ánh
tính tiệm tiến, liên tục thống nhất, bao hàm cả tính gián đoạn. Điều đó được thực
hiện qua các giai đoạn học bổ túc kiến thức, viết thu hoạch, bài tập, tiểu luận,
kiểm tra, thi, viết chuyên đề, tham gia các hoạt động khoa học khác, diễn ra theo
tiến độ đào tạo của từng học kỳ, năm học, khoá học. Trong quá trình đó, học viên
sau đại học sẽ trưởng thành, tiến bộ từng bước về tri thức, phương pháp, thao tác,
kỹ năng tư duy, sáng tạo ra ý tưởng mới. Người học chỉ có qua đào tạo cơ bản và
cùng với những trải nghiệm thực tiễn thì mới bảo đảm cho họ có trình độ sâu,
rộng, toàn diện về tri thức lý luận, làm cơ sở cho sự phát triển ý tưởng sáng tạo
của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị ngày càng có chất lượng cao và trọn
vẹn.

Tuy nhiên, trình độ phát triển đó mới đạt về mặt “số lượng” hoặc những
“chất bộ phận” chưa tạo ra sự đột phá, chuyển biến hoàn toàn trong thời gian đầu
của khoá đào tạo. Sự phát triển chỉ đạt đến ‘chất mới” khi có sự tích luỹ đủ về
“lượng” tri thức để chuyển hoá, nghĩa là tại thời điểm đó, học viên sau đại học đã
có đủ các điều kiện căn bản về lượng tri thức tích luỹ, cùng với sự định hướng của
khoa chuyên ngành, người hướng dẫn khoa học. Mốc đánh giá sự chuyển hoá căn
bản là khoảng thời gian cuối của khoá học, đây là “điểm nút” thời điểm có tính
chất quyết định đánh dấu sự trưởng thành “nhảy vọt” về chất sáng tạo được phản
ánh, thể hiện trong các công trình khoa học luận văn, luận án của học viên sau đại
học.
Ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị được hình
thành, củng cố là một trong những căn cứ không thể thiếu có tính chất quyết định
trong đánh giá chất lượng người học, qua đó đối chiếu đến mức độ hoàn thành
mục tiêu, yêu cầu đào tạo, sự phù hợp của nội dung chương trình, phương pháp
đào tạo, công tác kiểm định đánh giá đang ở tình trạng như thế nào. Vì xét đến
cùng bản chất của đào tạo là đào luyện, tạo ra “sản phẩm” là những con người
sáng tạo. Đồng thời, chính sự phát triển ý tưởng sáng tạo của họ còn tiếp tục tạo ra
những điều kiện, lợi thế, tiềm năng mới cho bản thân người học phát triển trở
thành nhà giáo, nhà khoa học chuyên nghiên cứu về lý luận, nhà lãnh đạo, quản lý,
chỉ huy tài năng ở các học viện, nhà trường, các cơ quan, đơn vị trong và ngoài
quân đội.


Thứ ba, phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện
Chính trị là quá trình giải quyết những mâu thuẫn trong thực hiện nhiệm vụ đào
tạo sau đại học, tạo động lực thúc đẩy sự tiến bộ vượt bậc về trình độ, năng lực
tư duy sáng tạo của người học.
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin: “phát triển là một cuộc đấu tranh giữa
các mặt đối lập” [24, tr.379] là quá trình tự thân giải quyết những mâu thuẫn nội
tại, khách quan vốn có. Vì vậy, phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại

học ở Học viện Chính trị cũng là quá trình giải quyết những mâu thuẫn nội tại. Đó
là biểu hiện của các mâu thuẫn nổi lên giữa xu hướng mong muốn phát hiện, tạo
lập, xây dựng, phát triển ý tưởng với một số nhân tố, bộ phận làm cản trở, suy
giảm tới quá trình phát triển đó. Đây là biểu hiện của cuộc đấu tranh giữa những
khó khăn, phức tạp, không thuận lợi với xu hướng tích cực, chủ động, bứt phá
vươn lên, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu; là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái
cũ, cái tiến bộ với cái lạc hậu đang diễn ra giữa các nhân tố trong và bên ngoài liên
quan trực tiếp đến người học; đó là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn ở mỗi
người học, mỗi tập thể học viên diễn ra trong đào tạo sau đại học ở Học viện.
Theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ ra, ứng với những
điều kiện, hoàn cảnh nhất định thì mọi sự vật, hiện tượng mới có thể nảy sinh và
phát triển. Khi những điều kiện, hoàn cảnh thay đổi căn bản thì sự vật, hiện
tượng cũ trở nên lỗi thời, lạc hậu, đồng thời sẽ làm nảy sinh sự vật, hiện tượng
mới. Cái mới ra đời từ mảnh đất hiện thực và từ trong lòng cái cũ, trong cuộc
đấu tranh với cái cũ. Với ý nghĩa đó, phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau
đại học ở Học viện Chính trị được xem như là cái mới trong giải quyết các vấn
đề về lý luận và thực tiễn. Do vậy, đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiến
bộ và cái lỗi thời, lạc hậu trong quá trình phát triển ý tưởng là một tất yếu khách
quan. Đó là quá trình đấu tranh khắc phục về những biểu hiện nhận thức chưa
đúng, chưa đầy đủ của người học về mục tiêu, yêu cầu, mô hình đào tạo, về vai
trò và sự cần thiết phát triển ý tưởng sáng tạo. Đó là quá trình đấu tranh khắc
phục, loại bỏ lối tư duy siêu hình, máy móc, thụ động, chủ quan, cứng nhắc thiếu
sáng tạo, thiếu mạnh dạn, quyết đoán. Đó còn là quá trình đấu tranh giữa khả
năng vận dụng các kiến thức, tri thức lý luận được trang bị cùng với các phương
pháp, thao tác, kỹ năng tư duy hướng vào giải quyết các nhiệm vụ trong quá


trình học tập, nghiên cứu khoa học còn hạn chế, bất cập. Hiệu quả quá trình đấu
tranh góp phần quyết định đến sự phát triển ý tưởng sáng tạo của người học. Con
đường đấu tranh giải quyết mâu thuẫn được thông qua nhiều hình thức, biện

pháp phong phú, đa dạng, phù hợp với đặc thù của đào tạo sau đại học, đặc điểm
hoạt động và thực trạng phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở
Học viện Chính trị. Là sự thể hiện tinh thần, trách nhiệm tự giác, tích cực, kiên
quyết đấu tranh ở mỗi học viên và các tổ chức, các lực lượng tham gia giải quyết
nhanh chóng các mâu thuẫn nhằm ngăn ngừa, khắc phục những tác động gây cản
trở đến sự phát triển ý tưởng sáng tạo của người học trong quá trình đào tạo sau
đại học ở Học viện.
Thứ tư, phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện
Chính trị là một quá trình kế thừa và lọc bỏ những cái cũ, lạc hậu, tiến hành tái
tạo, khám phá, phát hiện ra những tri thức mới đáp ứng tốt hơn cho nhiệm vụ
học tập và nghiên cứu khoa học tại Học viện và công tác sau này của học viên.
Phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị
không diễn ra một cách tự phát mà là một quá trình tự giác, nó không bao giờ
nảy sinh, phát triển từ mảnh đất hư không mà nảy sinh, phát triển từ những tiền
đề, cơ sở nhất định đó là hệ thống tri thức cùng với những kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn của người học được tích luỹ, thẩm thấu. Sự phát triển ý tưởng
sáng tạo của người học là một quá trình phủ định biện chứng, không tuân theo
đường thẳng trực tuyến mà quanh co, phức tạp nhưng tất yếu theo khuynh hướng
phát triển tiến lên, sản sinh ra những tri thức mới; là sự phủ định của cái mới, cái
tiến bộ hợp quy luật đối với cái cũ, cái không còn phù hợp cả về tri thức và tư
duy. Toàn bộ quá trình này dựa trên quan điểm kế thừa chắt lọc lấy những hạt
nhân, yếu tố hợp lý, loại bỏ những cái cũ, lạc hậu, tiến hành tìm tòi, khám phá
đưa ra những phát hiện, những ý tưởng mới, độc đáo.
Ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị là ý tưởng
mới đang hình thành và phát triển. Là quá trình người học đấu tranh để phủ định
các tri thức, kiến thức, kinh nghiệm và cả những phương pháp, kỹ năng tư duy
không còn phù hợp để phát triển lên những nấc thang mới, hình thành tạo dựng
nên tri thức, kinh nghiệm, phương pháp tư duy lý luận mới đáp ứng với yêu cầu
của thực tiễn.



Thứ năm, phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học là không
ngừng làm gia tăng, nảy nở các ý tưởng mới, những phương pháp hoạt động
sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa học của người học ở Học viện Chính
trị.
Học viên sau đại học ở Học viện Chính trị có đầy đủ các tố chất cần thiết. Ở
họ luôn có sự nhạy cảm với cái mới, linh hoạt, sáng tạo, chủ động trong tiếp nhận
hệ thống tri thức. Bởi vì, trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học luôn xuất
hiện nhiều vấn đề mới mà lý luận chưa theo kịp hoặc giải quyết chưa thoả đáng,
người học trên cơ sở đó chủ động nắm bắt tình hình thực tiễn, xây dựng kế hoạch,
nội dung, phương pháp, cách thức học tập, nghiên cứu, mạnh dạn đưa ra ý tưởng
mới, những sáng kiến mới đáp ứng cho chính quá trình hoạt động đó.
Trước những vấn đề thực tiễn của đào tạo, học viên sau đại học ở Học viện
Chính trị luôn có trăn trở, suy nghĩ đặt ra câu hỏi làm thế nào để nâng cao chất
lượng học tập, nghiên cứu các môn khoa học xã hội nhân văn, học tốt các môn bổ
túc kiến thức, viết báo khoa học, viết luận văn, luận án không sa vào đường mòn
lối cũ, trùng lặp, giao thoa, đề xuất được các sáng kiến, phương pháp, mở ra
những hướng đi mới. Các bài báo khoa học, chuyên đề, đề tài, công trình luận văn,
luận án có tính ứng dụng cao, thể hiện được tính chất xã hội hoá. Trong các công
trình khoa học đó có đóng góp mới, xuất hiện các ý tưởng độc đáo, sáng tạo. Tuy
rằng những cái mới có thể chưa thật sự trọn vẹn về phương diện, góc độ lập luận,
luận giải, cần phải tiếp tục hoàn thiện, bổ sung. Tuyệt nhiên không phải là những
sản phẩm chỉ mang tính chất thuần tuý công bố kết quả của cá nhân, ở đó hàm
lượng khoa học sáng tạo ít, hoặc thậm chí không có.
Phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị là
một quá trình đưa người học vào trạng thái cần phải phát huy tối đa mọi năng lực
trong phát hiện và giải quyết vấn đề, chỉ ra được cái mới về phương diện lý luận
trong thực tiễn hoạt động quân sự gắn với từng chuyên ngành đào tạo. Ở đó luôn
xuất hiện các tình huống có vấn đề đòi hỏi người học nghiên cứu, giải quyết, tìm
ra các thuộc tính mới, bản chất mới của sự vật, trên cơ sở đó cụ thể hoá, chuyển tải

chúng vào các công trình khoa học bảo đảm được tính hợp lý. Vấn đề này không
phải mọi học viên sau đại học đều thực hiện được mà còn phụ thuộc vào mỗi chủ
thể học viên, một số học viên có khả năng đưa ra ý tưởng, phát hiện được các tình
huống mà không có khả năng giải quyết, triển khai thực thi ý tưởng hoặc có những


học viên phát hiện ra vấn đề nhưng hạn chế trong vận dụng tri thức cũng như khả
năng phân tích, khái quát, chuyển hoá thành nội dung nghiên cứu. Do đó, quá
trình phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện vừa làm gia
tăng, nảy nở các ý tưởng mới vừa tạo điều kiện cho họ rèn luyện, củng cố nâng
cao các phẩm chất, năng lực đáp ứng tốt cho hoạt động sáng tạo.
Để đánh giá sự phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học cần
dựa vào một số tiêu chí cơ bản sau:
Một là, trình độ tri thức toàn diện và chuyên sâu của học viên sau đại học ở
Học viện Chính trị luôn được củng cố và nâng cao. Tri thức là yếu tố cơ bản để
hình thành nên ý tưởng sáng tạo của người học. Tri thức của người học viên là
toàn bộ những hiểu biết của họ về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và tư duy,
đặc biệt là tri thức về chuyên ngành, đa ngành, liên ngành mà người học được
đào tạo, lĩnh hội ở Học viện....Vì vậy, trình độ tri thức có vai trò chi phối rất lớn
đến mọi hoạt động sáng tạo của chủ thể và là “chất liệu” trực tiếp để hình thành
nên ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học.
Hai là, tính chủ động, tích cực, linh hoạt của học viên sau đại học trong quá
trình học tập, nghiên cứu ở Học viện Chính trị, nhanh chóng phát hiện ra những vấn
đề lý luận và thực tiễn nảy sinh, có phương pháp cách thức tiếp cận nghiên cứu.
Tính chủ động, tích cực, linh hoạt, của người học quy định và tác động trực tiếp đến
sự phát triển ý tưởng sáng tạo. Nó xuất phát từ nhu cầu khách quan của người học
muốn vươn lên làm chủ tri thức; tìm tòi, khám phá đưa ra được những đóng góp
mới về mặt lý luận.
Ba là, tính độc lập, sáng tạo trong thực hiện ý tưởng, là một trong những yếu
tố quan trọng trong phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học

viện Chính trị. Nó giúp cho người học đưa ra ý tưởng mới lạ, những sản phẩm độc
đáo, hợp lý ngay trong quá trình học tập, nghiên cứu. Cùng với các yếu tố khác của
ý tưởng, tính độc lập, sáng tạo trong quá trình thực hiện ý tưởng bảo đảm cho người
học ngày càng nhận thức sâu sắc, toàn diện, đi vào chiều sâu của các lớp đối tượng
nghiên cứu theo từng chuyên ngành đào tạo. Biết sáng tạo ra cái mới cho xã hội và
cho bản thân, tạo lập nên những phong cách mới, thích ứng hoà nhập và luôn phù
hợp với hoạt động quân sự nói riêng và xã hội nói chung.
Bốn là, các thao tác, kỹ năng đưa ra ý tưởng của học viên sau đại học trong
quá trình đào tạo ở Học viện. Người học thành thạo trong các khâu các bước tạo


lập, triển khai tổ chức thực hiện ý tưởng, khả năng vận dụng hệ thống tri thức,
phương pháp, kỹ năng tư duy và các thành tựu khoa học cùng với những kinh
nghiệm vào giải quyết các ý tưởng đã đề ra. Đây là một trong những tiêu chí
đánh giá trực tiếp sự phát triển ý tưởng sáng tạo. Sự phát triển này không chỉ dựa
vào các yếu tố tích cực chủ động, tự giác trong việc tiếp thu lĩnh hội tri thức mà
còn được đánh giá bằng các thông số, thao tác, kỹ năng vận hành, thực hành ý
tưởng thành hiện thực.
Trên cơ sở hệ tiêu chí cơ bản trên, việc đánh giá, phân loại mức độ phát
triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện, phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả học tập, nghiên cứu khoa học của họ, đặc biệt chú ý tới những đóng
góp mới của học viên về mặt lý luận, các hệ thống giải pháp hướng vào giải
quyết các hoạt động thực tiễn quân sự. Chính kết quả học tập, nghiên cứu phản
ánh cả về mặt số lượng và chất lượng là thước đo đánh giá trực tiếp sự phát triển
ý tưởng sáng tạo của người học. Nó biểu hiện ở sự phát triển liên tục các kết quả
học tập cũng như chất lượng mới trong đào tạo sau đại học ở Học viện Chính trị.
1.2. Đặc điểm phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở
Học viện Chính trị
Phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện Chính trị là
một quá trình vừa làm khởi phát, nảy nở vừa gia tăng tính bền vững các yếu tố cấu

thành ý tưởng sáng tạo của người học trên cơ sở tác động, quy định của điều kiện
khách quan và khả năng phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong đào tạo sau đại học
được biểu hiện ở mục tiêu, yêu cầu, nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy;
môi trường đào tạo; nhân tố chủ quan người học. Cụ thể ở một số nội dung sau:
1.2.1. Phát triển ý tưởng sáng tạo của học viên sau đại học ở Học viện
chịu sự tác động, quy định của mục tiêu, yêu cầu; nội dung chương trình đào
tạo; phương pháp giảng dạy sau đại học ở Học viện Chính trị
Đào tạo sau đại học là đào tạo nguồn nhân lực bậc cao, góp phần bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước, có đặc điểm khác biệt với đào tạo ở bậc học dưới. Với tư
cách là bậc đào tạo cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân, mục tiêu của đào
tạo sau đại học không dừng lại ở việc cập nhật, bổ sung những kiến thức khoa
học chuyên sâu về chuyên ngành cho người học, mặc dù điều đó là rất cần thiết
và quan trọng. Mục tiêu đào tạo sau đại học cần đạt tới là đào tạo ra những con
người toàn diện có đầy đủ những phẩm chất về chính trị, đạo đức, đồng thời họ


×