Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Khơi gợi hứng thú học Ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.79 KB, 18 trang )


KHƠI GỢI HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRONG BỘ MÔN NGỮ VĂN LỚP 9
A. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông hứng thú có nghĩa là :
Hứng thú ( DT) : Sự ham thích.
Hứng thú ( TT) : Cảm thấy hứng thú, hào hứng ( với công việc )
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố
quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng việc phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, làm cho học sinh ham thích môn học .
Có thể nói cốt lõi của đổi mới Dạy và Học là hướng tới hoạt động học tập chủ động ,
chống thói quen thụ động trong học tập của học sinh . Điều 24, Luật giáo dục ( do Quốc
hội khóa X thông qua ) cũng đã chỉ rõ: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực , tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp
học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ
môn Ngữ văn.
Tính tích cực trong học tập liên quan trước hết đến động cơ học tập. Động cơ đúng
tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Tính tích cực hay hứng thú học tập của
học sinh chính là sự ham thích, sự hào hứng trong công việc học tập bộ môn Ngữ văn.
Nó được biểu hiện ở chỗ HS tích cực lĩnh hội tri thức văn học. Các em thông hiểu, ghi
nhớ những điều đã nắm qua hoạt động nỗ lực của bản thân. HS thích phát biểu ý kiến,
chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới. Phương pháp
giảng dạy tích cực có mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong giờ học. Người giáo
viên là người hướng dẫn học sinh chủ động trong quá trình tiếp nhận kiến thức, rèn luyện
toàn diện về tư duy, tình cảm, tâm hồn.
Song việc thực hiện điều đó không dễ dàng trong quá trình dạy học. Đặc biệt môn
Ngữ văn lại càng gặp khó khăn trong việc phát huy tính tích cực của học sinh. Học sinh
thường thụ động, không thích học văn, không cảm thấy hứng thú trong giờ học.Khi con
người mất hứng thú học tập thì sẽ trở nên sợ học, các em cảm thấy mình lẹt đẹt trong


lớp.Thực tế xã hội cho thấy người thất học là người không biết cách học. Tình hình đó
đòi hỏi người giáo viên phải suy nghĩ, tìm tòi những biện pháp làm cho giờ học Ngữ văn
lôi cuốn học sinh, phát huy được tính tích cực chủ động trong người học hướng đến hiệu
quả tối đa của giờ học. Hướng tới dạy cho các em biết cách học.
Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 9 tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu
quả cao, giáo viên phải khơi dậy được hứng thú học tập của học sinh. Từ đó mới phát
huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Thực tế cũng đã chứng minh
rằng, khi giáo viên khơi gợi được hứng thú học tập thì hiệu quả giờ lên lớp được nâng
1

cao, học sinh tích cực chủ động trong học tập. Trong phạm vi của Sáng Kiến Kinh
Nghiệm, tôi xin đề cập đến một số biện pháp nhằm khơi gợi hứng thú học tập của học
sinh trong giờ học Ngữ văn lớp 9. Đó cũng là hướng tiếp cận quan điểm dạy học mới
( Đổi mới phương pháp )giúp HS mạnh dạn , tự tin trong học tập. Các hình thức học tập
sinh động sẽ tạo cho các em hứng thú trong học tập. Việc quan tâm đúng mức trong rèn
luyện các kỹ năng Nghe – Nói – Đọc – Viết giúp các em khắc sâu Kiến thức và hoàn
thiện các kỹ năng sống cần thiết. Đây cũng là cơ sở thực tiễn, là nền tảng cho việc hình
thành thói quen tốt , hình thành nhân cách cho các em trong tương lai.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :

I. THỰC TRẠNG :
1/ Về chương trình Ngữ văn lớp 9:
Văn
- Truyện văn xuôi và
truyện thơ trung đại Việt
Nam.
- Truyện Việt Nam sau
1945.
- Truyện nước ngoài.
- Thơ trữ tình việt Nam sau

1945.
- Thơ trữ tình hiện đại thế
giới.
- Tác phẩm Nghị luận Việt
Nam và nước ngoài.
- Văn bản nhật dụng về hội
nhập và bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam.
Về quyền sống , bảo vệ
hòa bình chống chiến tranh
- Kịch Việt Nam
- Chương trình địa phương
- Tổng kết, kiểm tra.
Tiếng Việt
- Từ vựng :
Học một số yếu tố Hán
Việt
Thuật ngữ
Sự phát triển của từ vựng
Tiếng Việt.
Trau dồi vốn từ
Tổng kết về từ vựng
- Hội thoại :
Phương châm hội thoại
Xưng hô trong hội thoại
Lời dẫn trực tiếp, lời dẫn
gián tiếp. Nghĩa tường
minh và hàm ý.
- Ngữ pháp : Khởi ngữ, các
thành phần biệt lập, Tổng

kết về Ngữ Pháp và dấu
câu.
- Chương trình địa phương
- Tổng kết, kiểm tra.
Tập làm văn
- Văn thuyết minh:
- Văn tự sự
- Văn Nghị luận
- Hành chính công vụ
-Tập làm thơ và hoạt động
Ngữ văn
- chương trình địa phương
- Ôn tập, kiểm tra
Qua bảng trên chúng ta đã có cái nhìn tổng thể về chương trình Ngữ văn lớp 9. Nhìn
chung chương trình đã đạt được yêu cầu : Tích hợp, tích cực, nội dung học tập gần gũi
có tính kế thừa từ các lớp dưới .
2/ Về phía giáo viên :
2

Hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phương pháp dạy học mới . Hàng năm các thầy
cô được tập huấn thay sách, thảo luận ưu nhược điểm của sách giáo khoa mới. Trong
giảng dạy người thầy đã phát huy được tính tính cực chủ động trong việc dạy học. Học
sinh được bày tỏ ý kiến tình cảm, cách hiểu của mình về bộ môn, được thực hành giao
tiếp nhiều hơn. Với tinh thần mới, giờ Ngữ văn không phải là giờ truyền thụ kiến thức,
mà là giờ khơi gợi khuyến khích học sinh tìm ra con đường đi tới kiến thức. Giáo viên
cũng đã phân biệt được phương pháp dạy học theo đặc trưng bộ môn Ngữ văn ( Tiếng
Việt – Văn – Tập làm văn ). Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện quan
điểm tích hợp trong các tiết dạy: Tích hợp ngang ( tính tích hợp của ba phân môn Văn -
Tiếng Việt – Tập làm văn) và Tích hợp dọc ( Tích hợp giữa các bài , các lớp trong cùng
một phân môn). Bên cạnh đó là việc tích hợp vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội một

cách phù hợp trong từng tiết dạy. Qua việc tích hợp và lồng ghép cộng với liên hệ thực tế
để giáo dục học sinh đã đem lại cho bộ môn Ngữ văn có những tín hiệu khởi sắc. Đó là
Phương pháp Dạy – Học mới đang được tiếp cận một cách tích cực.
Tài năng sư phạm của người thầy được dành nhiều hơn cho việc học sinh tự tìm hiểu
cảm thụ tác phẩm. Trong từng tiết dạy giáo viên đã mạnh dạn phối hợp cùng học sinh tiếp
cận, phân tích, tổng hợp và hình thành những tri thức cần nắm. Giáo viên nắm rõ được
quan điểm tích hợp của sách giáo khoa, có nhiều cố gắng rèn luyện kỹ năng Nghe- Đọc-
Nói- Viết cho học sinh. Học sinh không chỉ nắm kiến thức mà quan trọng hơn là biết vận
dụng kiến thức vào cuộc sống như : Nói, viết Tiếng Việt thành thạo, biết tạo lập văn bản,
biết sáng tác thơ, sáng tác tác phẩm nghệ thuật ngắn. Chính những chuyển biến này đã
giúp giáo viên nhanh chóng tiếp cận và thực hiện thành công những đổi mới trong
phương pháp Dạy – Học Ngữ Văn.
Tuy nhiên có một số giáo viên vẫn còn làm việc quá nhiều, trong một tiết dạy đưa
ra khá nhiều thông tin. Điều đó dễ đưa các em vào thế bị động ghi nhớ, không tạo điều
kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Từ đó dẫn đến sau này các em đứng trước
nhiều vấn đề mới các em bỡ ngỡ , bị động, lúng túng và không có đủ khả năng, bản lĩnh
để giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống.
Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn theo trình tự 5 bước lên lớp. Nó biến giờ học thiếu
sự phóng khoáng, giờ học nhạt nhẽo làm tê liệt sự hào hứng của học sinh. Rồi giáo viên
chỉ dùng một phương pháp dạy chủ yếu là thuyết trình, không có sự linh hoạt trong việc
kết hợp các phương pháp. Bên cạnh đó là việc sử dụng các giáo án mẫu, thiết kế bài
giảng một cách máy móc làm mất đi sự cảm thụ sáng tạo riêng của cá nhân.
2/ Về phía học sinh :
Các em học sinh phần nào ý thức được đây là bộ môn chính quyết định chất lượng học
tập. Các em luôn cố gắng để đạt được trung bình để không bị khống chế trong xếp loại
học lực. Các giờ học nhìn chung đã có một không khí mới, hào hứng, sôi nổi. Học sinh
được giao việc , tức là được chủ động tham gia vào các hoạt động trong giờ học với tư
cách là một chủ thể tích cực. Học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên, không
khí tiết học đôi khi ồn ào nhưng học sinh rất hào hứng đón nhận, giảm thái độ đối phó,
miễn cưỡng bởi các em đã tìm được sự hứng thú cho mình.


3

Số học sinh say mê học văn có tăng nhưng không nhiều. Chất lượng bộ môn hàng
năm được tăng cao. Nhưng tính số lượng các em đạt điểm trung bình bộ môn Ngữ văn
trên 8.0 trong một lớp hay trong một trường cũng rất khiêm tốn.
Tuy nhiên đi sâu vào thì việc học của học sinh chủ yếu là đối phó. Kiến thức thực tế
về văn học của các em còn nghèo nàn, phương pháp học tập còn lúng túng. Do đó kiến
thức văn học các em không nhớ được; Kiến thức Tiếng Việt các em dùng từ ngữ trong
giao tiếp một cách thiếu chính xác. Đặc biệt các bài Tập làm văn thường mắc lỗi chính tả,
câu văn viết chưa đúng ngữ pháp, cách diễn đạt vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham
khảo. Nghĩa là các em chưa có tính sáng tạo trong việc tạo lập văn bản theo yêu cầu…
Nếu thử điều tra học sinh theo 3 câu hỏi nhỏ sau chúng ta sẽ thấy rõ thực trạng học
tập Ngữ văn và tâm trạng khi các em học văn ra sao :
+ Em có thấy môn văn cần thiết cho cuộc sống và nghề nghiệp sau này của mình
không ?
+ Em có thích học văn không ?
+ Nếu được lựa chọn thầy cô giáo trong trường để dạy em về môn văn, thì em chọn
những thầy cô nào ?
Kết quả điều tra sẽ rất đáng suy nghĩ, đáng để mỗi giáo viên dạy Ngữ văn trăn trở,
suy ngẫm về vị trí, tầm quan trọng của môn văn và năng lực dạy Ngữ Văn của mình.
II. NGUYÊN NHÂN :
Chất lượng, không khí học văn trên lớp nhiều tiết tẻ nhạt, thiếu hấp dẫn là : giáo viên
giảng dạy nhợt nhạt, không có hồn; học sinh mệt mỏi, thụ động, không hứng thú không
náo nức chờ đợi giờ học văn. Điều này do các nguyên nhân sau :
1/ Số thầy dạy hay, dạy giỏi chưa nhiều. Dạy Ngữ văn cũng cần đòi hỏi phải có năng
khiếu. Thầy dạy không hay, không say mê , nhiệt tình thì khó mà làm cho học trò thích
môn văn. Một số tiết dạy bình thường giáo viên lại quay về phương pháp cũ, tức là cung
cấp cho học sinh từng kiến thức, thậm chí đọc chép cho học sinh. Điều này cũng do
nguyên nhân giáo viên chưa tin vào năng lực thi công của mình, nhất là đối với học sinh

yếu kém. Giáo viên thường ghi câu chữ, hình ảnh, biện pháp tu từ sau đó đánh mũi tên
sang ngang ghi tác dụng, ý nghĩa … một cách máy móc giản đơn. Điều đó vừa làm mất
đi tính toàn vẹn của tác phẩm, vừa gây khó khăn cho học sinh khi học bài ở nhà .
Thao tác vào bài ( giới thiệu bài ) của giáo viên thường là nhắc lại tên bài học trước,
nêu tên bài học hôm nay. Kiểu dẫn dắt đơn điệu này không kích thích được hứng thú học
tập của học sinh.
Thao tác tìm hiểu bài còn hạn chế là : Câu hỏi quá dễ hoặc quá khó, diễn giảng vụn
vặt sau câu trả lời của học sinh, bỏ qua chỗ diễn giảng cao trào để bổ sung, nâng cao, mở
rộng cách hiểu cho học sinh.
2/ Đa số học sinh, cha mẹ học sinh đầu tư vào các môn khoa học tự nhiên và ngoại
ngữ, xem nhẹ môn Ngữ văn. Điều này dễ nhận thấy ở việc học sinh ồ ạt đăng kí học bồi
dưỡng học sinh giỏi bộ môn, hoặc ở việc tìm thầy phụ đạo thêm và ở việc học sinh học
bài ở nhà.
3/ Cơ sở vật chất, tài liệu minh họa, đồ dùng dạy học để phục vụ giảng dạy và bổ sung
kiến thức học tập môn văn quá nghèo nàn, đơn điệu. Chủ yếu là một số tranh ảnh và
4

sách tham khảo. Từ đó dẫn đến việc giáo viên dạy chay. Còn học sinh thì lúng túng
không biết chọn lựa sách nào để đọc cho phù hợp.
Các phương tiện nghe, nhìn để phục vụ cho Dạy và Học hầu như không có. Những
hoạt động ngoại khóa để khắc sâu, mở rộng kiến thức, gây hứng thú học tập môn Ngữ
văn cho học sinh rất ít được tổ chức, vì không có kinh phí tổ chức, vì tốn kém mất nhiều
thời gian và công sức.
III/ GIẢI PHÁP :
1/ Sự chuẩn bị của giáo viên :
Trước hết giáo viên phải chuẩn bị nhiều phương diện cho một giờ lên lớp. Nắm vững
bài dạy, xác định kiến thức trọng tâm, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích
cực , chủ động của học sinh, tìm hiểu thực tế lớp dạy cụ thể trong từng tiết học.
Giáo viên phải chú ý tạo tâm thế học tập tốt cho học sinh. Giúp học sinh nhận thức
được lợi ích của bộ môn như tạo sự phát triển trí tuệ, tư duy và tâm hồn, tình cảm cho

người học. Tác dụng này phải được giáo viên nhấn mạnh trong những tình huống phù
hợp. Khi chú ý đến điều này giáo viên sẽ khắc phục được thái độ thờ ơ, lãnh đạm, thụ
động của học sinh; dần dần học sinh sẽ tích cực chủ động hơn trong việc chuẩn bị bài ,
lĩnh hội kiến thức, vận dụng kiến thức Ngữ văn trong học tập và đời sống.
Như vậy, việc chuẩn bị tâm thế trong giờ học Ngữ văn rất quan trọng đối với việc tạo
hứng thú cho học sinh. Nhưng khơi gợi hứng thú cho học sinh có thành công hay không
chủ yếu phụ thuộc vào các biện pháp giáo viên thực hiện lên lớp, trong giờ dạy cụ thể.
Muốn vậy giáo viên phải phối hợp nhiều biện pháp để tạo nên những giờ học sinh
động lôi cuốn học sinh. Cụ thể như :
+ Quy trình dạy học hợp lí với sự chủ động bình tĩnh, một giờ dạy lôi cuốn học sinh
trước hết ở nghệ thuật dẫn dắt, hướng dẫn học sinh. Trên cơ sở nắm vững kiến thức trọng
tâm của bài học, giáo viên chú ý đến tính vừa sức, điều tiết thích hợp để tránh nhàm chán
vì sự lặp lại hoặc chán nản vì kiến thức khó. Đối với những bài mà các em đã học giáo
viên phải huy động kiến thức cũ, củng cố kiến thức cũ làm cơ sở hình thành kiến thức
mới.
+ Đối với những bài kiến thức hoàn toàn mới, giáo viên hướng dẫn học sinh từ dễ đến
khó, mạnh dạn tinh giản kiến thức , tránh ôm đồm quá tải làm học sinh không hứng thú
vì cảm thấy bài dài và khó.
+ Tăng cường giao tiếp trong giờ học là một biện pháp cơ bản để khơi gợi hứng thú học
tập . Thông qua giao tiếp học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức, giờ học sinh động hơn.
Để đạt điều này giáo viên phải tạo những tình huống có vấn đề để gợi mở suy nghĩ của
học sinh, học sinh sẽ cố gắng khám phá tìm hiểu vấn đề. Từ đó học sinh tranh luận, thảo
luận bảo vệ ý kiến của mình khi có những ý kiến trái ngược nhau. Lưu ý là phải tạo điều
kiện để các em lựa chọn cách hiểu và hướng dẫn đến ý kiến đúng một cách kịp thời, phù
hợp. Hoạt động giao tiếp trong giờ học được thực hiện từ khâu tìm hiểu bài, hình thành
kiến thức mới và luyện tập thực hành. Phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của
thầy và trò….
Tổ chức trò chơi cũng chính là hoạt động giao tiếp nhằm khơi gợi hứng thú học tập
của học sinh. Có thể tổ chức trong tiết dạy với hình thức thi giữa các nhóm nhỏ với nhau
5


để làm bài tập củng cố kiến thức. Hoặc kết hợp với những đề tài cụ thể để lôi cuốn học
sinh vào trò chơi, có động viên khen thưởng kịp thời.
+ Giáo viên thay đổi các ví dụ minh họa trong giờ học tạo cũng là một biện pháp tạo ra
được hứng thú học tập của học sinh. Trong những bài mà ví dụ khô khan, xa lạ, khó hiểu
giáo viên nên chủ động nêu các ví dụ gần gũi với cuộc sống, với tình hình thời sự và đặc
điểm của lứa tuổi học sinh. Chính các ví dụ này làm cho tiết học bớt khô khan cứng nhắc,
vui hơn, khơi gợi hứng thú học tập của học sinh hơn.

2/ Giáo viên nắm vững các phương pháp giảng dạy bộ môn Ngữ văn :
* Phần văn bản :
Cái tên Đọc – Hiểu văn bản là nói tới công việc của học sinh, coi người học là trung
tâm. Qua đó khẳng định bản chất của dạy văn là dạy cách đọc văn bản, cách tiếp nhận,
giải mã văn bản. Người thầy với tư cách là người bạn cùng tham gia với học sinh đọc –
hiểu văn bản. Yếu tố giảng văn của người thầy cần xác định là giảng điều gì và vào lúc
nào trong tiết học.
Người thầy trong dạy học tích cực đóng vai trò rất năng động làm nhiệm vụ điều hành,
hướng dẫn toàn bộ các hoạt động của học sinh, giúp các em cùng tìm kiếm đưa ra cách
hiểu biết để chiếm lĩnh kiến thức. Giáo viên thật sự tôn trọng những ý kiến phát hiện
riêng của học sinh, cần tạo được không khí thật dân chủ.
Gồm các hoạt động :
a/ Chuẩn bị bài học : Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài soạn ở nhà(Công
việc này được thực hiện từ cuối tiết học trước). Qua mục kết quả cần đạt của SGK mà
giáo viên giúp các em nắm được sơ bộ định hướng soạn bài như : tác giả, hoàn cảnh sáng
tác của tác phẩm, giá trị tác phẩm, tranh ảnh có thể sưu tầm hoặc tự vẽ, hoặc tập hát nếu
như văn bản đó là tác phẩm thơ đã được phổ nhạc.
b/ Thực hiện trong giờ lên lớp :
- Hoạt động tái hiện hình tượng : Đọc diễn cảm, đọc phân vai, đọc to, tường thuật
văn bản ( tóm tắt ). Việc đọc mẫu trước của giáo viên rất quan trọng, không chỉ đơn thuần
là hướng dẫn học sinh cách đọc đúng, đọc hay mà còn phải bước đầu gieo vào tâm hồn

học sinh những cảm xúc, rung động trước cái đẹp, cái hay của tác phẩm, trước mảnh đời
của nhân vật. Qua đó học sinh hiểu bài học hơn và khuyến khích lòng say mê ngôn ngữ,
hình ảnh và câu chuyện đối với các em. Hình thức đọc phân vai sử dụng trong tác phẩm
kịch hay văn bản tự sự có nhân vật, có lời thoại. Cách đọc phù hợp nhằm tái hiện hình
tượng, khắc họa nhân vật, nắm bắt tình tiết, hình dung bức tranh được vẽ bằng nghệ thuật
ngôn từ khiến văn bản trở thành một thế giới sinh động, có hồn nhất trong cảm nhận bước
đầu của học sinh.
- Hoạt động tìm hiểu chú thích : Mỗi văn bản đều có chú thích. Các chú thích này chủ
yếu tập trung giải nghĩa từ ngữ, chú thích về điển tích, điển cố giúp học sinh hiểu thêm về
nội dung tác phẩm. Nếu giáo viên không chọn lựa, hoặc dặn dò học sinh đọc chú thích ở
nhà thì sẽ mất nhiều thời gian cho phần này, hơn nữa học sinh sẽ không chú ý vì không
thấy hứng thú.
6

- Hoạt động chiếm lĩnh tri thức : Đây là hoạt động chủ đạo chiếm phần lớn thời gian
và quyết định thành công của tiết học. Phần này nhằm khai thác tìm hiểu phân tích giá trị
nội dung, nghệ thuật tác phẩm. Giáo viên phải giúp học sinh cảm nhận vẻ đẹp văn
chương, biết bày tỏ cảm xúc, cảm nghĩ về tác phẩm.Hoạt động này sử dụng các phương
pháp sau:

+ Phương pháp vấn đáp gợi tìm : Gồm có vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích minh
họa và vấn đáp tìm tòi (Phát hiện, đàm thoại để tìm lời đáp cho những vấn đề chủ yếu về
nội dung và nghệ thuật của tác phẩm). Sự thành công của phương pháp vấn đáp phụ
thuộc vào hệ thống câu hỏi ( nội dung câu hỏi, cách hỏi, thời điểm hỏi) Và cách giáo viên
hỗ trợ học sinh suy nghĩ, tìm tòi, mở rộng hay tổng kết, hệ thống kiến thức.
Ưu điểm của phương pháp này là kích thích được khả năng học hỏi, kích thích tư
duy độc lập của học sinh. Giúp học sinh hiểu nội dung, phát triển khả năng giao tiếp của
cá nhân trước tập thể. Giáo viên đánh giá được mức độ nắm kiến thức của học sinh.
Hạn chế của phương pháp này là giáo viên khó kiểm soát quá trình học tập của học
sinh vì có nhiều tình huống trong câu trả lời của người học. Học sinh phụ thuộc vào sự

dẫn dắt của giáo viên. Mất nhiều thời gian, ít học sinh được trả lời và số không trả lời dễ
mất hứng thú hoặc không tập trung.
Nắm được ưu điểm, hạn chế của phương pháp trên giáo viên sẽ có những lưu ý khi
dạy không nên đặt câu hỏi quá nhiều. Nên đặt câu hỏi có hệ thống, bám sát yêu cầu bài
học, phù hợp với trình độ học sinh. Tạo điều kiện cho tất cả học sinh được tham gia bằng
cách: đặt ra câu hỏi, dành cho học sinh suy nghĩ, trao đổi , chỉ định học sinh trả lời , yêu
cầu học sinh khác nghe và bổ sung, nhận xét. Giáo viên có những khuyến khích, động
viên để tạo hứng thú cho học sinh trả lời, hướng học sinh từng bước khám phá vấn đề.
Ví dụ : Khi tìm hiểu văn bản Chị em Thúy Kiều :
Vẻ đẹp như thế nào là trang trọng ? Khuôn trăng gợi tả vẻ đẹp như thế nào?
Vẻ đẹp của Kiều và của Vân khác nhau như thế nào ? So sánh vẻ đẹp của Thúy Kiều
và vẻ đẹp của Thúy Vân?
+ Phương pháp giảng bình ( còn gọi là phương pháp dùng lời có nghệ thuật ) :
Đây là cách dạy học truyền thống theo mô hình truyền thông tin một chiều, được
dùng để cung cấp kiến thức, giải thích giảng giải , trình bày vấn đề . Phương pháp này kết
hợp với minh họa bằng phương tiện dạy học hoặc sơ đồ bài dạy.
Ưu điểm của phương pháp là khắc phục các hạn chế về khả năng phân tích của học
sinh, chuyển tới học sinh một lượng thông tin chặt chẽ, tiết kiệm được thời gian . Giáo
viên trực tiếp khơi gợi hứng thú , truyền niềm say mê, định hướng tư tưởng tình cảm cho
học sinh…
Hạn chế là giáo viên thu được ít thông tin phản hồi từ người học, học sinh lưu giữ
thông tin ít, hạn chế tính tích cực chủ động của học sinh khi tiếp nhận thông tin và sáng
tạo. Nghĩa là học sinh thụ động chấp nhận, ít liên tưởng tưởng tượng. Đặc biệt là kĩ năng
giao tiếp của học sinh không được phát huy, sự chú ý trong giờ học thấp, giờ học dễ
nhàm chán đơn điệu.
Từ ưu nhược điểm trên mà giáo viên có dự kiến thuyết trình vấn đề sao cho có nghệ
thuật. Chú ý lời nói có biến đổi để gây chú ý, cách giải thích thuyết phục có tính hài
7

×