Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phẫu thuật nội soi một đường rạch điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.51 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

PHẪU THUẬT NỘI SOI MỘT ĐƯỜNG RẠCH  
ĐIỀU TRỊ NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM 
Trần Ngọc Sơn*, Nguyễn Thanh Liêm*, Vũ Xuân Hoàn* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả kỹ thuật và báo cáo kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi một đường rạch (SILS) trong điều 
trị nang ống mật chủ ở trẻ em. 
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu lại các bệnh nhân được thực hiện SILS điều trị nang ống mật chủ tại 
bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 9/2012 đến tháng 5/2013. Chúng tôi sử dụng một đường rạch rốn hình 
chữ Z và đặt 3 trocar 3 – 5 mm ở các chỗ khác nhau trong phạm vi đường rạch da này. Quai hỗng tràng Roux‐
en‐Y được tạo ra ở bên ngoài ổ bụng qua đường rạch rốn. Cắt nang ống mật chủ và nối ống gan chung với ruột 
được thực hiện với các dụng cụ nội soi thẳng thông thường. 
Kết quả: Có 34 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu, với tuổi trung vị là 12 tháng (dao động 1 tháng đến 7 
tuổi). Các triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là đau bụng (50 %), vàng da (41,2%), nôn (26,5%). Kích thước 
trung vị của nang ống mật chủ là 4,8 cm (dao động 2,3 cm ‐ 12,5 cm). Nang ống mật chủ được cắt thành công ở 
tất cả các trường hợp. Có 8 bệnh nhân (23,5%) được thực hiện tạo hình ống gan chung khi ống này đường kính 
nhỏ hơn 5 mm. Nối ống gan chung ‐ hỗng tràng được thực hiện ở 32 bệnh nhân, nối ống gan chung tá tràng ‐ ở 
2 bệnh nhân. Một bệnh nhân (2,9%) cần phải đặt thêm 3 trocar để thực hiện miệng nối với ống mật phụ bất 
thường. Thời gian mổ trung vị là 200 phút (dao động 150 ‐ 450 phút). Dẫn lưu ổ bụng được đặt ở 7 bệnh nhân 
đầu tiên còn 27 bệnh nhân tiếp theo (79,4%) không đặt dẫn lưu. Không có biến chứng trong mổ. Sau mổ không 
có bệnh nhân nào bị rò miệng nối, có 1 bệnh nhân (2,9%) bị nhiễm khuẩn rốn. Tất cả các bệnh nhân được ra viện 
với sức khỏe tốt với thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 5,2 ngày (dao động 4 ‐ 7 ngày). Kết quả thẩm mỹ 
sau mổ là rất tốt. Với thời gian theo dõi 1 ‐ 9 tháng, có 1 bệnh nhân bị viêm tắc mật do hẹp miệng nối phải phẫu 
thuật làm lại miệng nối. Tất cả các bệnh nhân khác đều trong tình trạng sức khỏe tốt. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi một đường rạch qua rốn dùng dụng cụ thẳng thông thường điều trị nang ống 
mật chủ ở trẻ em là khả thi, an toàn và có kết quả thẩm mỹ rất tốt. Kỹ thuật này là một lựa chọn tốt trong điều trị 
phẫu thuật nang ống mật chủ ở trẻ em ở các trung tâm phẫu thuật nội soi có nhiều kinh nghiệm. 


Từ khóa: Phẫu thuật nội soi nang ống mật chủ ở trẻ em. 

ABSTRACT 
SINGLE INCISION LAPAROSCOPIC SURGERY FOR CHOLEDOCHAL CYST IN CHILDREN 
Tran Ngoc Son, Nguyen Thanh Liem, Vu Xuan Hoan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 80 ‐ 84 
Objectives:  The  aim  of  this  study  is  to  describe  our  techniques  and  present  our  initial  results  of  single 
incision laparoscopic surgery (SILS) for childhood choledochal cyst (ChC). 
Methods: Medical records of all children undergoing SILS for ChC at National Hospital of Pediatrics from 
September,  2012  to  March,  2013  were  reviewed.  Our  SILS  operations  started  with  a  z‐shaped  umbilical  skin 
incision and placement of three 3‐5 mm ports at separate places in the same incision site. Roux‐en ‐Y loop was 
created extracorporally through the umbilical incision. Excision of ChC and hepatico intestinal anastomosis were 
* Bệnh viện Nhi Trung Ương 
Tác giả liên lạc: TS. BS. Trần Ngọc Sơn 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

ĐT: 0462738854 

 Email:  

81


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

performed using conventional straight laparoscopic instruments.  
Results:  34  patients  were  identified  with  median  age  12  months  (range:  1  month  ‐  7  years).  The  most 

common clinical manifestations were abdominal pain (50%), jaundice (41.2%), vomiting (26.5%). The median 
size  of  ChC  was  4.8  cm  (range:  2.3  cm  ‐12.5  cm).  The  ChC  was  successfully  excised  by  SILS  in  all  cases. 
Hepaticoplasty  was  performed  in  8  cases  (23.5%)  with  hepatic  duct  diameter  less  than  5  mm.  Hepatico‐
jejunostomy  was  performed  in  32  patients  and  hepatico‐duodenostomy  in  2  patients.  Additional  3  ports  were 
needed  in  one  patient  for  performing  anastomosis  with  an  aberrant  duct.  The  median  operative  time  was  200 
minutes (range 150 minutes to 450 minutes). Abdominal drain was used in the first 7 cases and all next 27 cases 
(79.4%) no drain was used. There was no intra‐operative complication and no anastomotic leakage. One patient 
(2.9%)  had  postoperative  umbilical  infection.  All  patients  were  discharged  in  good  health  with  a  mean 
postoperative  stay  of  5.2  days  (range  4‐7days).  The  postoperative  cosmesis  was  excellent.  At  follow  up  1  –  9 
months,  one  patient  suffered  from  jaundice  and  cholangitis  due  to  anastomotic  stenosis  requiring  redo 
anastomosis. All other patients were in good health. 
Conclusions: SILS with conventional straight laparoscopic instruments is feasible, safe, with an excellent 
postoperative  cosmesis  and  can  be  a  viable  option  for  surgical  management  of  childhood  ChC  at  experienced 
centers.  
Key words: Laparoscopic surgery for choledochal cyst in children. 
nhiên  ứng  dụng  SILS  trong  điều  trị  nang  ống 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
mật chủ là rất khó về mặt kỹ thuật nên cho đến 
Nang ống mật chủ là một trong những bệnh 
nay mới chỉ có một trung tâm duy nhất trên thế 
lý  ngoại  khoa  hay  gặp  ở  trẻ  em.  Điều  trị  nang 
giới  có  báo  cáo  thành  công  về  lĩnh  vực  này  từ 
ống  mật  chủ  kinh  điển  là  mổ  mở  cắt  toàn  bộ 
năm  2012(2).  Ở  Việt  Nam  cũng  chưa  có  nghiên 
nang và nối ống gan chung với ruột (có thể là tá 
cứu  nào  về  chủ  đề  này.  Do  đó  chúng  tôi  tiến 
tràng hoặc hỗng tràng). Năm 1995, Farrelo (Ý) là 
hành nghiên cứu này nhằm mô tả kỹ thuật mổ 
tác giả đầu tiên thực hiện phẫu thuật nội soi cắt 
và  báo  cáo  kết  quả  bước  đầu  trong  ứng  dụng 

nang  ống  mật  chủ  và  nối  ống  gan  chung  với 
SILS điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em. 
hỗng  tràng(3).  Cho  đến  nay  phẫu  thuật  nội  soi 
Mục tiêu nghiên cứu 
thông thường với 4 trocar đặt ở các vị trí xa nhau 
Mô tả kỹ thuật và báo cáo kết quả bước đầu 
trên  thành  bụng  với  các  vết  rạch  da  riêng  biệt 
phẫu thuật nội soi một đường rạch (SILS) trong 
tương ứng đã được sử dụng thường qui điều trị 
điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em. 
nang  ống  mật  chủ  ở  nhiều  trung  tâm  trên  thế 
giới trong đó có bệnh viện Nhi Trung Ương(6,5,4,1).  
Với mục đích tiếp tục giảm sang chấn và có 
kết  quả  thẩm  mỹ  tốt  hơn  nữa,  bước  tiến  tiếp 
theo  của  phẫu  thuật  nội  soi  trong  những  năm 
gần đây là nội soi chỉ dùng một chỗ (một đường 
rạch da) duy nhất cho trocar thay cho nhiều chỗ 
như  nội  soi  thông  thường  và  như  vậy  sẽ  là  chỉ 
để lại một sẹo nhỏ hoặc thậm chí coi như không 
để lại sẹo khi vết mổ đi qua rốn(7). Phẫu thuật nội 
soi  một  đường  rạch  (SILS  –  single  incision 
laparoscopic  surgery)  đã  được  phát  triển  ứng 
dụng trong nhiều bệnh lý ngoại khoa ở trẻ em, 
đặc  biệt  là  cắt  ruột  thừa  và  cắt  túi  mật(7).  Tuy 

82

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Hồi cứu lại tất cả  các  bệnh  nhân  được  thực 
hiện  SILS  điều  trị  nang  ống  mật  chủ  tại  bệnh 

viện Nhi Trung Ương từ tháng 9/2012 đến tháng 
5/2013.  Các  dữ  liệu  được  tập  hợp  và  phân  tích 
bao  gồm  đặc  điểm  bệnh  nhân,  biểu  hiện  lâm 
sàng,  đặc  điểm  nang  ống  mật  chủ,  diễn  biến 
trong và sau mổ, kết quả theo dõi sau ra viện. 
Về  kỹ  thuật  mổ,  chúng  tôi  sử  dụng  một 
đường rạch rốn hình chữ Z và đặt 2 trocar 5 mm 
và một trocar 3 mm ở các chỗ khác nhau trong 
phạm vi đường rạch da này. Trong mổ các mũi 
khâu treo vào thành bụng được sử dụng để kéo 

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

gan,  túi  mật  và  nang  ống  mật  chủ  lên  trên  về 
phía  thành  bụng  trước,  giúp  cho  việc  bộc  lộ 
phẫu  tích  cắt  nang.  Đầu  tiên  phẫu  tích  bộc  lộ 
ống cổ túi mật, cặp clip và cắt ống này, Sau đó 
phẫu tích nang ống mật chủ từ trước ra sau, bộc 
lộ và clip phần cuối của nang ống mật chủ trước 
khi hợp lưu với ống tụy, cắt đầu dưới nang ống 
mật  chủ  và  phẫu  tích  từ  dưới  lên  trên  cho  đến 
ống  gan  chung.  Quai  hỗng  tràng  Roux‐en‐Y 
được  tạo  ở  bên  ngoài  ổ  bụng  qua  đường  rạch 
rốn rồi đưa lại  vào  ổ  bụng  đi  qua  mạc  treo  đại 
tràng  ngang  tương  tự  như  phẫu  thuật  nội  soi 

thông  thường.  Lúc  này  cắt  nang  ống  mật  chủ 
phía trên ống cổ túi mật. Tiến hành nối ống gan 
chung  với  quai  Roux‐en‐Y  theo  kiểu  tận‐bên, 
khâu  vắt  một  lớp  chỉ  PDS  5.0.  Khi  đường  kính 
ống  gan  chung  nhỏ  dưới  5mm,  chúng  tôi  tạo 
hình  ống  gan  chung  để  miệng  nối  rộng  hơn 
bằng  cách  cắt  dọc  thành  trước  của  ống  gan 
chung khoảng 5‐7 mm rồi mới nối với ruột. Sau 
nối  xong  mới  cắt  túi  mật,  rửa  ổ  bụng,  đưa  các 
bệnh phẩm ra ngoài qua rốn và khâu lại da rốn. 
Tất cả các thao tác nội soi trong ổ bụng đều được 
thực  hiện  với  các  dụng  cụ  nội  soi  thẳng  và 
camera 300 thông thường. Ngoại trừ mấy ca đầu 
tiên  có  đặt  dẫn  lưu  dưới  gan  phải,  các  ca  sau 
chúng tôi đều không dùng dẫn lưu. 

Bệnh nhân thứ 2 được tạo hình ống mật này với 
ống  gan  chung  thành  một  miệng  nối,  vẫn  sử 
dụng SILS mà không cần đặt thêm trocar. Có 2 
bệnh nhân khác bị dị tật kèm theo là ruột quay 
dở dang được phẫu thuật chữa dị tật này bằng 
SILS trong cùng ca mổ. 

KẾT QUẢ 

BÀN LUẬN 

Có 34 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu, 27 
trẻ nữ và 7 trẻ nam, với tuổi trung vị là 12 tháng 
(dao động 1 tháng đến 7 tuổi). Các triệu chứng 

lâm sàng phổ biến nhất là đau bụng (50%), vàng 
da (41,2%), nôn (26,5%). Kích thước trung vị của 
nang  ống  mật  chủ  là  4,8  cm  (dao  động  2,3  cm‐ 
12,5  cm).  Nang  ống  mật  chủ  được  cắt  thành 
công  ở  tất  cả  các  trường  hợp.  Có  8  bệnh  nhân 
(23,5%) được thực hiện tạo hình ống gan chung 
khi  ống  này  đường  kính  nhỏ  hơn  5  mm.  Hai 
bệnh nhân có ống mật phụ bất thường của gan 
phải  đổ  vào  ống  cổ  túi  mật.  Trong  số  2  bệnh 
nhân  này,  một  bệnh  nhân  (2,9%  trên  tổng  số 
bệnh nhân) cần phải đặt thêm 3 trocar (chuyển 
về  phẫu  thuật  nội  soi  thông  thường)  để  thực 
hiện  miệng  nối  với  ống  mật  phụ  bất  thường. 

Phẫu thuật nội soi thông thường với 4 trocar 
là một bước tiến lớn trong điều trị nang ống mật 
chủ,  làm  giảm  sang  chấn  cuộc  mổ,  giảm  đau 
hơn,  giúp  bệnh  nhân  hồi  phục  nhanh  hơn  sau 
mổ  và  có  kết  quả  thẩm  mỹ  tốt  hơn  hẳn  so  với 
mổ  mở  kinh  điển  trước  kia.  Những  báo  cáo  so 
sánh kết quả lâu dài cho thấy phẫu thuật nội soi 
thông thường cho kết quả bằng hoặc thậm chí là 
tốt  hơn  so  với  mổ  mở  kinh  điển(4,1).  Tuy  vậy 
phẫu thuật nội soi thông thường 4 trocar vẫn để 
lại các sẹo nhỏ nhìn thấy được ở các vị trí khác 
nhau trên thành bụng bệnh nhân. 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

Nối  ống  gan  chung  hỗng  tràng  được  thực 

hiện ở 32 bệnh nhân, nối ống gan chung‐tá tràng 
‐  ở  2  bệnh  nhân.  Thời  gian  mổ  trung  vị  là  200 
phút (dao động 150 ‐ 450 phút). Trong khi  thời 
gian mổ trung bình của 10 bệnh nhân đầu tiên là 
290  phút,  với  24  bệnh  nhân  tiếp  theo  thời  gian 
này  là  198  phút.  Dẫn  lưu  ổ  bụng  được  đặt  ở  7 
bệnh nhân đầu tiên còn ở 27 bệnh nhân tiếp theo 
(79,4%) không đặt dẫn lưu.  Không  có  một  biến 
chứng  trong  và  sau  mổ  nào  và  tất  cả  các  bệnh 
nhân được ra viện với sức khỏe tốt với thời gian 
nằm  viện  sau  mổ  trung  bình  là  5,2  ngày  (dao 
động 4 ‐ 7 ngày). Kết quả thẩm mỹ sau mổ là rất 
tốt. Các bệnh nhân không đặt dẫn lưu sau khi ra 
viện  vài  tháng  đến  khám  lại  coi  như  không  có 
sẹo mổ. Với thời gian theo dõi 1 ‐ 8 tháng, một 
bệnh  nhân  bị  viêm  tắc  mật  do  hẹp  miệng  nối 
phải  phẫu  thuật  làm  lại  miệng  nối.  Các  bệnh 
nhân còn lại đều có sức khỏe ổn định, không có 
triệu chứng và  xét  nghiệm  chức  năng  gan  bình 
thường. 

SILS  qua  rốn  là  một  xu  hướng  mới  trong 
phát  triển  của  phẫu  thuật  nội  soi,  hướng  tới 
phẫu thuật cho bệnh nhân mà không để lại sẹo 
do sử dụng rốn, vốn là sẹo tự nhiên, làm đường 

83


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

vào duy nhất cho các trocar. Tuy nhiên thực hiện 
SILS là khó khăn hơn so với phẫu thuật nội soi 
thông thường vì các vấn đề như thay đổi tư thế 
làm việc theo hướng bất lợi hơn cho phẫu thuật 
viên,  sự  va  chạm  giữa  các  dụng  cụ  phẫu  thuật 
với nhau hoặc va chạm giữa các dụng cụ phẫu 
thuật với camera, các thao tác phẫu thuật là khó 
hơn, dụng cụ thường xuyên chéo nhau và nhiều 
khi  phẫu  thuật  viên  phải  làm  việc  với  môi 
trường  hình  học  không  gian  mới,  mất  nguyên 
tắc tam giác truyền thống; khả năng tiếp cận với 
các tạng/cơ quan cũng bị hạn chế hơn. Do đó chỉ 
định  ứng  dụng  của  SILS  cũng  hạn  chế  hơn  so 
với phẫu thuật nội soi thông thường, chủ yếu là 
các  phẫu  thuật  tương  đối  đơn  giản  như  cắt  túi 
mật và cắt ruột thừa(7). 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cùng  với  nghiên 
cứu  của  Diao  M(2)  đã  cho  thấy  SILS  có  thể  áp 
dụng an toàn và hiệu quả trong các phẫu thuật 
phức tạp có độ khó cao như nang ống mật chủ ở 
trẻ  em.  Tỷ  lệ  chuyển  mổ  nội  soi  thông  thường 
trong  nghiên  cứu  này  là  2,9%.  Chỉ  có  1  bệnh 
nhân  (2,9%)  bị  biến  chứng  hẹp  miệng  nối  sau 
mổ. Cả 2 trường hợp này đều xảy ra ở trong thời 
gian  chúng  tôi  mới  bắt  đầu  triển  khai  SILS. 
Chúng tôi chia sẻ quan điểm với Li L rằng thực 
hiện  SILS  điều  trị  nang  ống  mật  chủ  đòi  hỏi 

phẫu  thuật  viên  phải  có  kinh  nghiệm  và  thuần 
thục  trong  phẫu  thuật  nội  soi  thông  thường(2). 
Trong SILS cắt nang ống mật chủ, chúng tôi đã 
sử  dụng  các  mũi  khâu  treo  nang  ống  mật  chủ 
vào thành bụng trước, giúp bộc lộ chỗ phẫu tích 
giữa nang ống mật chủ và tá tràng, tụy. Các mũi 
khâu treo này có vai trò thay thế cho trocar thứ 4 
của  phẫu  thuật  nội  soi  thông  thường.  Kinh 
nghiệm  của  chúng  tôi  cho  thấy  khâu  nối  ống 
gan chung với ruột trong SILS là khó khăn nhất, 
do  kìm  kẹp  kim  nằm  gần  như  vuông  góc  với 
mép  khâu.  Thêm  nữa  tạo  nút  buộc  chỉ  trong 
SILS  cũng  khó  khăn  hơn  nhiều  so  với  phẫu 
thuật nội soi thông thường. Tuy vậy các thao tác 
này  sẽ  dần  quen  với  phẫu  thuật  viên.  Kết  quả 
của chúng tôi cho thấy với các phẫu thuật viên 
đã  có  kinh  nghiệm  trong  phẫu  thuật  nội  soi 
thông thường điều trị nang ống mật chủ, SILS có 

84

thể  thực  hiện  được  tương  đối  nhanh  (với  thời 
gian  mổ  tương  đương  với  phẫu  thuật  nội  soi 
thông  thường  4  trocar)  chỉ  sau  khoảng  10  ca. 
Không  những  thế,  phẫu  thuật  viên  vẫn  có  thể 
dùng SILS thực hiện tạo hình miệng nối ống gan 
chung  khi  có  các  bất  thường  đường  mật,  hoặc 
chữa dị tật ruột quay dở dang kèm theo như đã 
thấy trong loạt bệnh nhân của nghiên cứu này. 
SILS thường đòi hỏi phải có port đặc biệt và 

một  số  dụng  cụ  chuyên  dụng  bẻ  cong  hoặc  có 
khớp  uốn  cong  được  khá  đắt  tiền.  Nghiên  cứu 
của  chúng  tôi  đã  sử  dụng  hoàn  toàn  các  trocar 
và  dụng  cụ  nội  soi  thông  thường  nên  có  hiệu 
quả  kinh  tế,  không  gây  tốn  kém  thêm  so  với 
phẫu thuật nội soi thông thường. Tuy vậy chúng 
tôi cũng thấy rằng khi không dùng port chuyên 
dụng  sẽ  có  nguy  cơ  rò  khí  qua  chân  trocar  cao 
hơn, mất thời gian hơn khi đặt và cố định trocar, 
nhất là khi phải đưa ruột ra ngoài tạo quai Roux‐
en‐Y, và có thể có nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ 
cao  hơn.  Một  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  này 
đã  bị  nhiễm  trùng  rốn  ở  mức  độ  nhẹ.  Mặc  dù 
vậy,  kết  quả  thẩm  mỹ  ở  cả  bệnh  nhân  này  sau 
đó cũng vẫn tốt vì bản thân rốn vốn là một sẹo 
tự nhiên của cơ thể. 

KẾT LUẬN 
SILS  với  dụng  cụ  phẫu  thuật  nội  soi  thông 
thường  có  thể  thực  hiện  được  an  toàn  và  hiệu 
quả với kết quả thẩm mỹ tốt hơn phẫu thuật nội 
soi  thông  thường  trong  điều  trị  nang  ống  mật 
chủ ở các trung tâm có kinh nghiệm. SILS có thể 
sẽ trở thành lựa chọn mới qui chuẩn trong phẫu 
thuật nội soi điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.


3.

Diao  M,  Li  L,  Cheng  W  (2011).  Laparoscopic  versus  Open 
Roux‐en‐Y  hepatojejunostomy  for  children  with  choledochal 
cysts: intermediate‐term follow‐up results. Surg Endosc, 25(5), 
pp 1567‐1573.  
Diao  M,  Li  L,  Cheng  W  (2012).  Single‐incision  laparoscopic 
Roux‐en‐Y  hepaticojejunostomy  using  conventional 
instruments  for  children  with  choledochal  cysts.  Surg 
Endosc,26(6):pp.1784‐1790.  
Farello  GA,  Cerofolini  A,  Rebonato  M,  Bergamaschi  G, 
Ferrari  C,  Chiappetta  A  (1995).  Congenital  choledochal  cyst: 
video‐guided  laparoscopic  treatment.  Surg  Laparosc 
Endosc,5(5): pp 354‐358. 

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
4.

5.

6.

Liem  NT,  Pham  HD,  Vu  HM  (2011).  Is  the  laparoscopic 
operation  as  safe  as  open  operation  for  choledochal  cyst  in 
children? J Laparoendosc Adv Surg Tech A,21(4): pp 367‐370. 
Liem NT, Son TN, Hoan MV (2012). Early and intermediate 

outcomes  of  laparoscopic  surgery  for  choledochal  cyst  with 
400 patients. J Laparoendosc Adv Surg Tech A.22(6): pp 599‐
603. 
Liem NT, Son TN (2010). Laparoscopic repair for choledochal 
cyst: lessons learned from 190 cases. J Pediatr Surg,45(3): pp 
540‐544. 
 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

7.

Nghiên cứu Y học

Saldaña  LJ,  Targarona  EM  (2013).  Single‐Incision  Pediatric 
Endosurgery:A Systematic Review. J Laparoendosc Adv Surg 
Tech A, 6. 23(5): pp 467‐80. 

 
Ngày nhận bài  

 

 

01/07/2013. 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 

11/07/2013. 


Ngày bài báo được đăng: 

15–09‐2013 

 

85



×