Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Dịch và thuốc vận mạch trong hồi sức sốc nhiễm khuẩn tại khoa hồi sức Bệnh viện Nhi Đồng 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.79 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

DỊCH VÀ THUỐC VẬN MẠCH TRONG HỒI SỨC  
SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI KHOA HỒI SỨC BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 
Phùng Nguyễn Thế Nguyên*  

TÓM TẮT 
Mục  tiêu:  Sốc nhiễm khuẩn trong nước thường gặp và hiện có tỷ lệ tử vong cao. Hồi sức bằng dịch và 
thuốc vận mạch, thuốc tăng co bóp cơ tim là nền tảng của hồi sức sốc. Đề tài này nhằm khảo sát tình hình hồi sức 
bằng dịch và vận mạch ở trẻ sốc nhiễm khuẩn tại khoa hồi sức của một trong những bệnh viện Nhi đầu ngành 
trong cả nước. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiền cứu trên 83 trẻ sốc nhiễm khuẩn từ 10/2008 đến 4/2011. 
Kết quả: 96,4% dùng dung dịch điện giải ngay từ đầu để hồi sức, trong đó 44,6% chỉ dùng đơn thuần điện 
giải và 51,8% dùng dung dịch keo sau đó. Lượng dịch chống sốc 20 ml/kg được dùng trong 94% trường hợp. 
44,6% trường hợp dịch này được dùng ≤ 20 phút. Tổng dịch trong giờ đầu ≥ 40 ml/kg trong 49,4% trường hợp. 
Lượng dịch trung bình trong giờ đầu là 34,8 ± 15,4 ml/kg. Những trường hợp chỉ dùng đơn thuần dịch keo có tỷ 
lệ tử vong thấp và không có mối liên quan giữa tổng lượng dịch giờ đầu với tử vong. 69,1% dùng từ 2 thuốc vận 
mạch và thuốc tăng co bóp cơ tim trở lên, trong đó 35% dùng 3 thuốc. Tỷ lệ dùng dobutamin cao trong nghiên 
cứu. Tỷ lệ sốc kháng catecholamin là 36,1% và liều thuốc epinephrin và norepinephrin còn thấp. Tử vong cao khi 
sốc kháng catecholamin và phải dùng từ 3 thuốc vận mạch trở lên 
Kết luận: Sử dụng dịch truyền và thuốc vận mạch, thuốc tăng co bóp cơ tim trong hồi sức sốc nhiễm khuẩn 
còn chưa thích hợp. Cần nhiểu khóa huấn luyện, cập nhật thông tin, thống nhất và cần theo dõi huyết động để bù 
dịch và dùng thuốc co mạch, thuốc tăng sức co bóp cơ tim hiệu quả. 
Từ khóa: Sốc nhiễm khuẩn, thuốc vận mạch, tăng co bóp, dịch truyền. 

ABSTRACT 
FLUID RESUSCITATION AND VASOPRESSOR THERAPY OF PEDIATRIC SEPTIC SHOCK  
IN PEDIATRIC INTENSITIVE CARE UNIT, CHILDREN’S HOSPITAL 1 
Phung Nguyen The Nguyen* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 240 ‐ 244 


Objectives: Septic shock is common severe infection and currently has a high mortality rate in our country. 
The  resuscitation  with  fluids,  vasopressors  and  inotropes  is  essential  in  treatment  of  septic  shock.  This  study 
investigates reality of resuscitations with fluids and vasopressors in pediatric septic shock in intensive care unit of 
one of the leading pediatric hospitals in our country.  
Methods: Prospective described in 83 children with septic shock from October 2008 to April 2011. 
Results: 96.4% cases were used electrolyte solutions at the first step in resuscitation, in which only 44.6% 
pure electrolyte solutions and 51.8% colloid solutions after that. Amount of fluid 20 ml/kg was used in 94% of 
cases;  44.6%  of  this  fluid  was  given  ≤  20  minutes.  Total  amount  of  fluid  ≥  40  ml/kg  in  the  first  hour  of 
resuscitation  was  seen  in  49.4%  of  cases.  A  mean  fluid  used  in  the  first  hour  was  34.8  ±  15.4  ml/kg.  The 
mortality rate was low in cases given pure colloid solutions but there were no correlation between the first hour 
fluid  with  death.  69.1%  cases  were  used  more  than  2  vasopressor  and  inotropes,  in  which  35%  cases  given  3 
drugs. The proportion of catecholamin resistant shock was 36.1% and dose of epinephrine and norepinephrine 
* Đại Học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: TS. BS Phùng Nguyễn Thế Nguyên, ĐT: 0989043858, Email:  

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

241


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

was low. The catecholamin resistant shock had a high mortality rate and who needed more than 3 vasopressors. 
Conclusions: The treatments with fluids, vasopressors and inotropes in septic shock resuscitation were still 
inappropriate. Then we need more training courses, updates and unified, in addition to hemodynamic monitor for 
fluid, vasopressor and inotrope applying effectively. 
Key words: Septic shock, vasopressor, inotrope, fluid resuscitation. 
10/2008 đến tháng 4/2011. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sốc  nhiễm  khuẩn  (SNK)  là  một  hội  chứng 
thường  gặp,  tỷ  lệ  tử  vong  cao.  Trong  những 
năm đầu thế kỷ 21, tỷ lệ tử vong trong nước vẫn 
còn rất cao từ 60‐80%(1). Điều trị bao gồm kháng 
sinh, loại bỏ ổ nhiễm khuẩn và hồi sức tích cực. 
Sử dụng dịch và thuốc vận mạch, tăng co bóp cơ 
tim hợp lý là những yếu tố chính quyết định hồi 
sức  thành  công.  Có  rất  nhiều  hướng  dẫn  hiện 
nay về sử dụng các chất này ở người lớn và trẻ 
em  trong  hồi  sức  sốc,  tuy  vậy  đa  phần  nghiên 
cứu  ở  nước  ngoài.  Mặc  dầu  được  dùng  và 
nghiên  cứu  nhiều  nhưng  đến  nay  vẫn  chưa  có 
một hướng dẫn hoàn hảo, điều trị vẫn phải tùy 
thuộc vào từng bệnh nhi cụ thể. Đầu  thế  kỷ  21 
này  có  nhiều  phân  tích  gộp  và  nghiên  cứu  mù 
đôi  với  cỡ  mẫu  lớn  về  dùng  dịch  và  vận  mạch 
trong hồi sức, cũng như nhiều khuyến cáo được 
đưa ra.  
Khoa  Hồi  sức  bệnh  viện  Nhi  Đồng  1  áp 
dụng hướng dẫn sử trí trẻ sốc của Chương trình 
toàn cầu điều trị nhiễm khuẩn nặng và SNK và 
ngày  càng  hoàn  thiện(7).  Trong  khuôn  khổ  đó, 
nghiên  cứu  này  nhằm  đánh  giá  lại  tình  hình 
dùng dịch và thuốc vận mạch trong hồi sức trẻ 
sốc từ năm 2008 đến năm 2011. 

Mục tiêu nghiên cứu 
 Sốc nhiễm khuẩn trong nước thường gặp và 
hiện có tỷ lệ tử vong cao. Hồi sức bằng dịch và 

thuốc vận mạch, thuốc tăng co bóp cơ tim là nền 
tảng của hồi sức sốc. Đề tài này nhằm khảo sát 
tình  hình  hồi  sức  bằng  dịch  và  vận  mạch  ở  trẻ 
sốc nhiễm khuẩn tại khoa hồi sức của một trong 
những bệnh viện Nhi đầu ngành trong cả nước. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả có phân tích trên 83 trẻ SNK từ tháng 

242

Tiêu chí chọn bệnh  
Chọn tất cả trẻ nhập khoa Cấp Cứu ‐ Hồi sức 
bệnh viện Nhi Đồng 1 trong thời gian từ 10/2008 
đến  4/2011  được  chẩn  đoán  SNK  (bao  gồm  rối 
loạn  chức  năng  tuần  hoàn  +  tình  trạng  nhiễm 
khuẩn)  theo  tiêu  chuẩn  về  chẩn  đoán  SNK  đã 
thống nhất của Hội thảo Quốc tế về NKH năm 
2002 (8). 

Tiêu chí loại trừ  
Loại tất cả trẻ < 2 tháng, trẻ nhiễm HIV, trẻ 
có  bệnh  tim  bẩm  sinh  tím  hay  có  bệnh  lý  bẩm 
sinh ảnh hưởng trên tiên lượng như bại não, bất 
thường bẩm sinh thần kinh cơ, nội tiết. Trẻ có rối 
loạn  chức  năng  các  cơ  quan  trước  khi  nhiễm 
khuẩn huyết như suy gan, suy thận trước đó. 

Phương pháp tiến hành 

Tất  cả  các  trẻ  đều  được  hỏi  bệnh  sử,  khám 
lâm sàng, thực hiện xét nghiệm và điều trị theo 
phác đồ hiện nay của bệnh viện. 
Dữ  liệu  được  thu  thập  bằng  bệnh  án  mẫu 
thống nhất. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 
18.  So  sánh  trung  bình  của  các  biến  số  định 
lượng  giữa  các  nhóm  bằng  phép  kiểm  Mann 
whitney  test.  So  sánh  tỉ  lệ  của  các  biến  số  định 
tính  bằng  phép  kiểm  Chi  bình  phương  (χ2)  có 
hiệu  chỉnh  Fisher  exact  test.  Sự  khác  biệt  có  ý 
nghĩa khi p < 0,05. 

KẾT QUẢ  
Trong thời gian từ 10/2008 đến 4/2011 có 83 
trẻ thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu. 
Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu. 
Đặc điểm
Tuổi (tháng)
Giới tính (nam)
Vị trí nhiễm khuẩn (%)

Kết quả
30,9 ± 38,2
49,4%

Tiêu hóa

43,4

Chuyên Đề Ngoại Nhi  



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
Đặc điểm
Hô hấp
Máu
Da, mô mềm
Phúc mạc
Màng não
Lâm sàng

Kết quả
36,1
10,8
4,8
3,6
1,2

Sốc mất bù (%)
Rối loạn tri giác
Suy hô hấp
Rối loạn đông máu
Suy gan
Suy thận
Tỷ lệ tử vong
Cận lâm sàng

92,8%
63,9%
61,4%

53,7%
47%
42,2%
47%

Bạch cầu (/mm3)
Neutrophil (%)
CRP (mg/l)

17,696 ±15,448
62%
77 ± 79,2
N
37
26
11
43
32
10
1
3
1
2

%
44,6
31,3
13,3
51,8
37,4

12
1,2
3,6
1,2
2,4

Bảng 3. Lượng dịch dùng. 
Biến
Lượng dịch cho liều đầu tiên
10 ml/kg
20 ml/kg
30 ml/kg
Thời gian cho dịch đầu tiên
≤ 20 phút
30 phút
60 phút
Tổng dịch giờ đầu
≥ 40 ml/kg
20-30 ml/kg
≤ 20 ml/kg

N

%

1
78
4

1,2

94
4,8

37
11
35

44,6
13,2
42,2

41
7
35

49,4
8,4
42,2

±  15,4  ml/kg.  Tổng  dịch  điều  trị  86,4  ±  41,1 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

là 10 ml/kg. 
Bảng 4. Liên quan tử vong và dịch truyền. 
Loại dịch
Điện giải
Keo+
Tổng dịch giờ
đầu

≥ 40 ml/kg
< 40 ml/kg

Tử

Sống

p

11 (29,7%)
28 (60,9%)

26 (70,3%)
18 (30,1%)

0,008

19 (46,3%)
20 (53,7%)

22 (52,4%)
22(47,6%)

1,00

Số lượng thuốc vận mạch
1
2
3
4

Loại sốc
Đáp ứng dopamin
Kháng dopamin
Kháng cathecholamin
Liều dopamin tối đa (n = 65)
Thời gian dùng dopamin
Liều dobutamin tối đa (n= 55)
Thời gian dùng dobutamin
Liều norepinephrin tối đa (n =31)
Thời gian dùng norepinephrin
Liều epinephrin tối đa (n =6)
Thời gian dùng epinephrin

Tổng dịch trung bình trong giờ đầu tiên: 34,8 
ml/kg. 

Chỉ có 1 trường hợp dịch trong giờ đầu tiên 

Bảng 5. Thuốc vận mạch và tăng sức co bóp cơ tim. 

Bảng 2. Loại dịch dùng trong hồi sức. 
Loại dịch
Điện giải
LR
NS
Điện giải- keo
Điện giải + Gelatin
Điện giải + Hes
Điện giải + dextran
Keo

Gelatin
Hes

Nghiên cứu Y học

N

%

25
25
29
4

30,1
30,1
35,0
4,8

22
31
30

25,6
37,3
36,1
10,7 ± 2,9
µg/kg/phút
76,7 ± 67,7 giờ
10,1 ± 3,2

µg/kg/phút
83,5 ± 63,2 giờ
1,3 ± 1,5
µg/kg/phút
60 ± 54,8 giờ
0,4 ± 0,3
µg/kg/phút
43,8 ± 46,4 giờ

Bảng 6. Liên quan tử vong và thuốc vận mạch. 
Số lượng
thuốc vận
mạch

1
2
3
4

Loại sốc
Đáp ứng dopamin
Kháng dopamin
Kháng
catecholamin

Tử
6 (24%)
10(40%)
19 (65,5%)
4 (100%)


Sống
19 (76%)
15 (60%)
10 (34,5%)
0

1 (4,5%)
16 (51,6%)

1 (95,5%)
15 (48,4%)

22 (73,3%)

8 (26,7%)

p
0,003

0,0001

BÀN LUẬN 
Dịch 
80 trẻ (96,4%) được dùng đầu tiên là dung 
dịch điện giải, chỉ có 3 trẻ dùng dung dịch keo 

243



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

ngay  từ  đầu.  Trong  đó  37  trẻ  chỉ  dùng  đơn 
thuần điện giải, 43 trẻ sau đó được dùng dung 
dịch keo.  
Các  nghiên  cứu  cho  thấy  không  có  sự  khác 
biệt  về  tử  vong  giữa  dung  dịch  điện  giải  hay 
dung  dịch  keo  trong  hồi  sức.  Chúng  tôi  không 
có trường hợp nào dung albumin để chống sốc. 
Dung  dịch  keo  được  dùng  nhiều  là  gelatin,  kế 
đến là Hes 200/0,5.  
Năm 2012 khuyến cáo của chương trình toàn 
cầu  không  dùng  Hes  có  trọng  lượng  phân  tử  > 
200.000 dalton(7).  
Chúng  tôi  không  nhận  thấy  tỷ  lệ  suy  thận 
khác biệt giữa 2 nhóm dùng dung dịch điện giải 
và  dung  dịch  keo.  Những  trẻ  được  dùng  dung 
dịch keo tỷ lệ tử vong cao hơn trẻ dùng điện giải 
đơn thuần. Tại bệnh viện Nhi Đồng 1 điện giải 
được dùng đầu tiên, sau 1‐2 liều mà bệnh nhân 
không cải thiện, dung dịch keo được dùng nhằm 
trành  nguy  cơ  quá  nhiều  dịch  và  nhanh  chống 
đưa  bệnh  nhân  ra  khỏi  sốc.  Vì  vậy,  những  trẻ 
được  dùng  dung  dịch  keo  thêm  vào  thường 
nặng,  sốc  kéo  dài  cho  nên  tỷ  lệ  tử  vong  cao  ở 
nhóm này. 
Lượng dịch trong giờ đầu tiên trung bình là 
34,8  ±  15,4  ml/kg,  cao  nhất  là  70  ml/kg.  Lượng 

dịch  này  ít  hơn  theo  khuyến  cáo  của  chương 
trình toàn cầu hướng dẫn điều trị nhiễm khuẩn 
huyết và sốc nhiễm khuẩn. Tuy vậy, theo chứng 
tôi  bằng  nhiều  khóa  huấn  luyện,  cập  nhật  kiến 
thức, các bác sĩ đã mạnh dạn hơn trong việc bồi 
hoàn dịch ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn. Trước 
đây  tại  bệnh  viện  Nhi  đồng  2  năm  2000‐2002 
trong giờ đầu tiên 90% có lượng dịch trong giờ 
đầu tiên là 20 ml/kg. Tại Viện Nhi Trung ương, 
năm 2003‐2005, lượng dịch trung bình cho nhóm 
sốc lạnh là 23,2 ± 20,3 ml/kg(1). Tại bệnh viện Nhi 
Đồng 1, năm 2002‐2008, lượng dịch trung bình là 
28,5 ± 17,2 ml/kg(2). Mặc dù lượng dịch còn thấp 
hơn  khuyến  cáo  nhưng  tổng  lượng  dịch  trong 
giờ  đầu  tiên  đã  tăng  lên.  Theo  nhiều  tác  giả 
trung  bình  lượng  dịch  trong  giờ  đầu  là  40‐60 
ml/kg(4,5).  Bù  dịch  nhanh  này  không  làm  tăng 
nguy  cơ  phù  phổi.  Chúng  tôi  cần  huấn  luyện 

244

hơn  nữa  các  bác  sĩ  tại  đơn  vị  cũng  như  tại  các 
tuyến cơ sở trong bù dịch bệnh nhân sốc, nhằm 
nhanh chống đưa bệnh nhân ra khỏi sốc. 34 trẻ 
được chống sốc 20 ml/kg/giờ đầu tiên theo phác 
đồ cũ được khuyến cáo. Rõ ràng có sự thay đổi 
tích  cực  hơn  trong  bù  dịch  chống  sốc  ở  trẻ  sốc 
nhiễm khuẩn. 
Tỷ  lệ  tử  vong  giữa  nhóm  trẻ  có  tổng  dịch 
giờ  đầu  tiên  ≥  40  ml/kg  và  <  40  ml/kg  không 

khác biệt.  
Có thể do các trẻ SNK nặng, nhập viện trong 
tình trạng trễ, sốc mất bù (100%) và tổn thương 
nhiều cơ quan.  
Nên tỷ lệ tử vong không khác biệt. Claudio 
F.  Oliveira  năm  2002‐2003  nghiên  cứu  dịch 
truyền  trong  hồi  sức  75  trẻ  sốc  nhiễm  khuẩn  ở 
khoa săn sóc tăng cường, tại Brazil tác giả nhận 
thấy  tỷ  lệ  tử  vong  của  những  trẻ  hồi  sức  bằng 
dịch trong giờ đầu tiên < 20 ml/kg là 73%, từ 20‐
40 ml/kg là 52% và > 40 ml/kg là 33%.  
Các  nghiên  cứu  cho  thấy  các  tác  giả  chẩn 
đoán  sớm  khi  mạch  nhanh  không  giải  thích 
được,  dịch  đã  được  cho.  Không  chờ  đến  khi 
huyết áp giảm. Do vậy trong nghiên cứu trẻ nào 
đáp ứng sớm với bù dịch điện giải thì cải thiện 
tử vong. 

Vận mạch 
Tỷ lệ trẻ dùng từ 2 thuốc vận mạch trở lên là 
75%.  Chúng  tôi  dùng  dopamin  là  thuốc  vận 
mạch đầu  tiên  trong  sốc  nhiễm  khuẩn.  Nếu  trẻ 
không  đáp  ứng  trẻ  được  thêm  dobutamin  hay 
norepinephrin  hay  epinephrin  tùy  theo  nhận 
định của bác sĩ. Tuy nhiên các bác sĩ thường theo 
phác đồ cũ thêm dobutamin vào khi không đáp 
ứng  với  dopamin.  37,3%  phối  hợp 
norepinephrin trong điều trị so với 6,4% từ năm 
2002‐2008. Theo Hướng dẫn của SSC năm 2012, 
nếu  dùng  dopamin  ban  đầu  trong  điều  trị,  khi 

không  đáp  ứng  với  dopamin  thì  thêm 
epinephrin  cho  sốc  lạnh  và  norepinephrin  cho 
sốc  ấm.  Như  vậy  mặc  dù  cải  thiện  tình  trạng 
dùng  vận  mạch  trong  điều  trị  thì  tỷ  lệ  dùng 
dobutamin  phối  hợp  khi  không  đáp  ứng 
dopamin  còn  cao.  Chúng  tôi  thiếu  các  phương 

Chuyên Đề Ngoại Nhi  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
tiện  do  cung  lượng  tim  tại  chỗ  trong  đánh  giá 
huyết  động,  do  vậy  chưa  thể  khẳng  định  cách 
dùng nào là hoàn hảo. Trong tương lai với việc 
dùng  các  phương  tiện  theo  dõi  huyết  động 
không  xâm  lấn  sẽ  giúp  điều  trị  bệnh  nhi  sốc 
nhiễm khuẩn tốt hơn. Tỷ lệ dùng từ 3 thuốc vận 
mạch  trong  nghiên  cứu  chúng  tôi  cao  hơn  của 
Trần Minh Điển (26,5%)(9).Tỷ lệ tử vong cao khi 
dùng từ 3 loại thuốc vận mạch trở lên cũng như 
kháng  catecholamin.  Do  vậy  thời  điểm  dùng 
vận mạch, nhất là chỉ định sớm thích hợp giúp 
cải thiện tử vong.  
Trong  nghiên  của  Trần  Minh  Điển  liều 
dopamin  trung  bình  là  10  μg/kg/phút, 
norepinephirn là 0,5 μg/kg/phút và epinephrin 
là  0,45  μg/kg/phút(9).  Norepinephrin  trong 
nghiên cứu của chúng tôi dùng liều cao hơn (6). 
Tuy  nhiên  nhiều  tác  giả  sử  dụng 
norepinephrin  với  liều  cao  hơn  nhằm  duy  trì 

huyết  áp.  Liều  cao  của  norepinephrin  có  thể 
cho  an  toàn  qua  đường  truyền  ngoại  biên. 
Khác  với  người  lớn  trẻ  em  có  cung  lượng  tim 
thấp  (3), kháng lực mạch máu cao, do đó thước 
được  dùng  nhiều  có  thể  là  để  tác  dụng 
inotrope,  vì  vậy  SSC  năm  2012  khuyến  cáo 
dùng  dopamin  hay  epinephrin  liều  β  để  tăng 
sức  co  bóp  cơ  tim(7).  Tuy  nhiên  cần  lưu  ý  là 
diễn  tiến  huyết  động  này  thay  đổi  theo  bệnh 
và phải theo dõi để thay đổi thuốc thích hợp(6). 
Mặc  dù  vậy,  khi  không  có  các  thăm  dò  để  đo 
cung lượng tim và kháng lực mạch máu ngoại 
biên thì việc điều trị còn rất lâu mới đạt được 
độ chính xác tuyệt đối. 

Nghiên cứu Y học

KẾT LUẬN 
Sử  dụng  dịch  và  thuốc  vận  mạch,  tăng  co 
bóp  cơ  tim  trong  hồi  sức  ở  trẻ  sốc  nhiễm 
khuẩn còn chưa thích hợp, cần nhiều hơn nữa 
nghiên  cứu,  các  khóa  huấn  luyện,  cập  nhật 
kiến  thức,  thông  tin  cũng  như  những  hướng 
dẫn thống nhất từ bệnh viện. Cần các can thiệp 
theo  dõi  huyết  động  để  việc  theo  dõi  điều  trị 
phù hợp hơn nhằm cải thiện tử vong hiện nay 
của bệnh lý này. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.
5.

6.

7.

8.

9.

Aneja  R,  Carcillo  J  (2011).  Differences  between  adult  and 
pediatric septic shock. Minerva Anestesiol 77(10): pp 986‐992. 
Carcillo  JA,  Davis  AL.  Zaritsk  yA  (1991).  Role  of  early  fluid 
resuscitation  in  pediatric  septic  shock.  JAMA  266(9):pp  1242‐
1245. 
Carcillo  JA  (2002).  Clinical  practice  parameters  for 
hemodynamic  support  of  pediatric  and  neonatal  patients  in 
septic shock. Crit Care Med 30(6): pp 1365–1378. 
Ceneviva  G,  Paschall  A,  Maffeiet  F  (1998).  Hemodyneamic 
support in fluid‐refractory pediatric septic shock. pp 102. 
Dellinger  RP,  Levy  MM,  Rhodeset  A  (2013).  Surviving  Sepsis 
Campaign: International Guidelines for Management of Severe 
Sepsis  and  Septic  Shock:  2012.  Critical  care  medicine  41(2): 
pp580‐637. 
Goldstein  B,  Giroir  B.  Randolph  A  (2005).  International 

pediatric sepsis consensus conference: definitions for sepsis and 
organ dysfunction in pediatrics. Pediatr Crit Care Med 6(1): 2‐8. 
Marshall  JC,  Maier  RV,  Jimenezet  M  (2004).  Source  control  in 
the management of severe sepsis and septic shock: an evidence‐
based review. Crit Care Med 32 (11 Suppl): S513‐526. 
Phạm  Văn  Quang,  Bạch  Văn  Cam,  Trần  Hữu  Minh  Quân 
(2010). Điều trị ban đầu sốc nhiễm khuẩn trẻ em tại khoa Cấp 
Cứu  bệnh  viện  Nhi  đồng  1.  Y  Học  Thành  phố  Hồ  Chí  Minh 
14(1): tr15 ‐22. 
Trần Minh Điển (2010). Nghiên cứu kết quả điều trị và một số 
yếu tố tiên lượng tử vong trong sốc nhiễm khuẩn trẻ em. Luận 
án tiến sỹ y học. Đại Học Y Hà Nội. Hà Nội. 

 

Ngày nhận bài  

 

 

 10/08/2013. 

Ngày phản biện nhận xét bài báo 

19/08/2013. 

Ngày bài báo được đăng: 

15–09‐2013 


 

 

Chuyên Đề Ngoại Nhi 

245



×