Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Gây mê hồi sức trong phẫu thuật vẹo cột sống các kết quả ban đầu tại Bệnh viện Nhi Đồng 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.7 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 

Nghiên cứu Y học

GÂY MÊ HỒI SỨC TRONG PHẪU THUẬT VẸO CỘT SỐNG 
 CÁC KẾT QUẢ BAN ĐẦU TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 
Phan Thị Minh Tâm*, Lại Thị Thùy Như** 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả ban đầu thực hiện gây mê hồi sức trong phẫu thuật vẹo cột sống tại bệnh viện 
Nhi Đồng 2, các kết quả đạt được và các vấn đề còn tồn tại.  
Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, mô tả có phân tích. 
Kết  quả: Từ tháng 06/2009 – 07/2011 chúng tôi thực hiện gây mê tổng quát trên 40 bệnh nhi bị vẹo cột 
sống từ 3 tới 15 tuổi ở trẻ nữ nhiều hơn nam (27 : 13). Với 67,5% bệnh nhi là vẹo cột sống vô căn và 22,5% là 
vẹo cột sống bẩm sinh, trong đó độ cong trung bình là 68o. phẫu thuật đường lưng là 82,5%, và phẫu thuật 
đường lưng + ngực là 10%. Thời gian gây mê trung bình là 5g30. Test thức tỉnh được dùng để đánh giá chức 
năng tủy sống. 31 bệnh nhi được dùng Cell saver để hạn chế truyền máu, chỉ có 4 bệnh nhi cần truyền thêm 
máu. Có 17 bệnh nhi cần thuốc vận mạch, 2 bệnh nhi cần thở máy 1 ngày sau mổ, 3 trường hợp bị tai biến là 1 
bệnh nhi bị liệt cơ tay (T), 1 tê 2 chi dưới, 1 tràn dịch màng phổi (T). Các trường hợp này đã được bình phục. 
Kết luận: Gây mê hồi sức đã góp phần mang lại thành công trong bước đầu trong phẫu thuật vẹo cột sống 
tại bệnh viện Nhi Đồng 2. Để đảm bảo an toàn cho bệnh nhi hơn nũa cần duy trì huấn luyện đào tạo một đội ngũ 
chuyên sâu về gây mê hồi sức và phẫu thuật cột sống. 
Từ khóa : gây mê vẹo cột sống, phẫu thuật cột sống, kỹ thuật tiết kiệm máu  

ABSTRACT 
ANESTHESIA FOR SCOLIOSIS SURGERY IN CHILDREN’S HOSPITAL 2: THE INITIAL RESULTS 
Phan Thi Minh Tam, Lai Thi Thuy Nhu  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2013: 467 ‐ 474 
Objectives: To evaluate the initial results of anesthesia for scoliosis surgery at Children’s Hospital 2. The 
results achieved and the problems still exist. 
Methods: Retrospective, descriptive and analytic study 


Results: From June 2009 to July 2011 we performed general anesthesia in 40 patients having scoliosis from 
3 to 15 years old in young female than male (27:13). With 67.5% of patients were idiopathic scoliosis and 22.5% 
were congenital scoliosis, in which the average curvature was 68o. Instrumentation posterior spinal fusion was 
82.5%  and  anterior  –  posterior  spinal  fusion  was  10%.  The  average  duration  of  anesthesia  was  5  hours  30 
minutes. Wake ‐ up test was used to assess spinal cord function. 31 patients were used Cell saver to restrict blood 
transfusions, only four patients needed more blood transfusions. There were 17 children needed inotropic drugs, 2 
children  required  mechanical  ventilation  in  the  first  postoperative  day,  3  cases  of  complications:  1  patient 
paralyzed the left arm, 1 numbness of the lower two and 1 left pleural effusion. These cases have been recovered. 
Conclusions:  Anesthetic  management  was  contributing  to  the  initial  success  of  scoliosis  surgery  in 
children’s hospital 2. To ensure more safety for patients, it’s necessary to maintain a trained staff of anesthesia 
and surgery for scoliosis. 
* Bệnh viện Nhi Đồng 2 
Tác giả liên lạc: BS Phan Thị Minh Tâm 

 ĐT: 0903363352 

 Email:  

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

467


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

Keywords: anesthesia for scoliosis, spine surgery, saving blood 

ĐẶT VẤN ĐỀ 


ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  

Gây mê cho bệnh nhi (BN) bị vẹo cột sống là 
những  thách  thức  và  khó  khăn  mà  người  gây 
mê phải đối mặt vì: phẫu thuật (PT) vẹo cột sống 
là  PT  có  nguy  cơ  rất  cao,  trong  đó  nhiều  biến 
chứng có thể xảy ra trong và sau PT. Chúng có 
thể  liên  quan  đến  thao  tác  PT,  tư  thế  bệnh  nhi, 
tình trạng trước mổ, kỹ thuật gây mê… và bệnh 
nhi là những người có thể có những tổn thương 
ở tim mạch, hô hấp do bệnh lý vẹo cột sống gây 
nên(1,7). Hiểu biết về bệnh lý vẹo cột sống và phối 
hợp tốt giữa PT viên và bác sĩ gây mê là cần thiết 
để đảm bảo sự thành công. 

Phương pháp 

Có nhiều nguyên nhân gây nên bệnh lý vẹo 
cột sống như: Vẹo cột sống (VCS) bẩm sinh, VCS 
do  chấn  thương,  VCS  vô  căn,  VCS  do  bệnh  lý 
thần kinh ‐ cơ, VCS do di chứng của sốt bại liệt 
hay  lao  cột  sống  (CS),  ngoài  ra  còn  có  1  số  hội 
chứng có kèm dị dạng CS(1,7). Đa số bệnh lý VCS 
hiện  nay  được  coi  là  vô  căn  vì  chưa  rõ  nguyên 
nhân gây dị dạng CS, và bệnh viện Nhi Đồng 2 
mới thực hiện GM – PT được những trường hợp 
VCS này.  
Độ nặng của VCS tùy thuộc vào góc hợp bởi 
đoạn  CS  bị  cong,  vẹo.  CS  càng  cong,  độ  cong 

càng lớn thì càng ảnh hưởng đến chức năng tim 
phổi và tăng nguy cơ chu phẫu(4). 
Nhằm  mục  đích  đánh  giá  các  kết  quả  đạt 
được  trong  gây  mê  hồi  sức  (GMHS)  các  BN  bị 
VCS tại bệnh viện Nhi Đồng 2 cũng như các khó 
khăn  còn  tồn  tại  để  từ  đó  đề  ra  được  những 
phương  thức  GMHS  phù  hợp  với  các  yêu  cầu 
của  PT  viên,  kỹ  thuật  GMHS  an  toàn  và  hiệu 
quả  cho  bệnh  VCS;  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên 
cứu  các  trường  hợp  GMHS  cho  PT  VCS  tại 
BVNĐ2. 

Mục tiêu nghiên cứu 

Hồi cứu, mô tả có phân tích tất cả các BN có 
chỉ định PT VCS. 

Dữ liệu nghiên cứu 
Tuổi, giới tính, cân nặng. 
Bệnh VCS: tình trạng CS, độ cong, chiều dài 
đoạn CS tổn thương. 
Tình  trạng  BN  trước  PT:  chức  năng  tim  – 
phổi. 
Tư thế BN 
Phương pháp GMHS, thuốc mê, thuốc giảm 
đau 
Kỹ thuật GMHS:  phương  tiện  theo  dõi,  test 
thức tỉnh, truyền máu hoàn hồi. 
Diến biến, thời gian GM 
Giai đoạn hồi tỉnh, hồi sức sau mổ. 

Tai biến, tác dụng phụ… 
Thu  thập  và  xử  lý  số  liệu  bằng  phần  mềm 
thống kê SPSS phiên bản 15.0 

KẾT QUẢ 
Từ tháng 06.2009 tới tháng 07.2011 tiến hành 
GMHS cho 40 BN từ 3 tới 15 tuổi tại bệnh viện 
Nhi Đồng 2 TP.HCM. Các số liệu thu thập được 
như sau: 
Bảng 1: Tuổi và cân nặng 
Tuổi

Số trường
hợp

< 3 tuổi
3 - 10 tuổi
> 10 tuổi
Tổng cộng

0
6
34
40

Cân nặng (kg)
Min
TB
Max
0

0
0
13,0 16,50
21,0
13,0 37,79
68,0
13,0 34,60
68,0

Tỉ lệ %
0,0
15,0
85,0
100,0

Nhận xét: Đa số BN > 10 tuổi, nhỏ nhất là 3 
tuổi và lớn nhất là 15 tuổi. 
Bảng 2: Giới tính 

Đánh giá kết quả ban đầu thực hiện gây mê 
hồi sức trong phẫu thuật vẹo cột sống tại Bệnh 
Viện Nhi Đồng 2: Các kết quả đạt được và  các 
vấn đề còn tồn tại.  

Giới tính
Nam
Nữ
Tổng cộng

Số trường hợp

13
27
40

Tỉ lệ %
32,5
67,5
100

Nhận xét: Số BN nữ > gấp đôi số BN nam 

468

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 
và lớn nhất 110o 

Bảng 3: Chẩn đoán 
Chẩn đoán
Vẹo CS do bệnh lý
bẩm sinh
Vẹo CS vô căn
Vẹo CS + Trật đốt
sống do chấn thương
Khác
Tổng cộng

Số trường hợp


Tỉ lệ %

9

22,5

27

67,5

3

7,5

1
40

2,5
100

Bảng 7: Tư thế mổ 
Tư thế
Sấp
Nghiêng
Hai tư thế
Ngửa
Tổng cộng

Nhận xét: Vẹo CS do bệnh lý bẩm sinh (bao 

gồm  tật  ½  đốt  sống)  Khác:  hội  chứng  Arnold 
Chiarie: 1 
Bảng 4: Đoạn cột sống 
Đoạn cột sống
Ngực
Lưng
Ngực + Lưng
Lưng + Cùng
Khác
Tổng cộng

Số trường hợp
11
2
25
1
1
40

Tỉ lệ %
27,5
5,0
62,5
2,5
2,5
100

Tỉ lệ %
18,18
3,03

3,03
3,03
6,06
6,06
12,12
3,03
6,06
6,06
15,15
6,06
6,06
6,06
100

> 1000
Tổng cộng

Tỉ lệ %
12,5
87,5
100

Số trường hợp
23
9
4
4
40

Tỉ lệ %

57,5
22,5
10,0
10,0
100,0

Bảng 10: Truyền máu trong mổ 
Truyền máu
Không truyền máu
Chỉ dùng cell saver

Số trường hợp
6
31

Tỉ lệ %
15,0
77,5

Chỉ truyền, các chế phẩm máu

1

2,5

Cell saver + chế phẩm máu
Tổng cộng

2
40


5,0
100

Số trường hợp
32
8
40

Tỉ lệ %
80
20
100

Bảng 12:Thay đổi Hemoglobin sau mổ 
Thay đổi Hemoglobin
Không
≤ 4g/dL

Số trường hợp
13
23

Tỉ lệ %
32,5
57,5

> 4g/dL
Tổng cộng


4
40

10,0
100

Bảng 13: Thay đổi Hematocrit sau mổ 
Thay đổi Hematocrit
Không

Tỉ lệ %
52,5
45,0
2,5
100

≤ 5%

Số trường hợp
8
16

Tỉ lệ %
20
40

> 5%
Tổng cộng

16

40

40
100

Số trường hợp

Tỉ lệ %

Bảng 14: Thời gian gây mê 

Độ  cong  CS  trung  bình  là  68 ,  nhỏ  nhất  42  
o

Số trường hợp
5
35
40

Thay đổi huyết động
<10% giá trị ban đầu
10 - 20% giá trị ban đầu
Tổng cộng

Bảng 6: Độ cong 
Số trường hợp
21
18
1
40


HA ĐM
Không

Tổng cộng

Bảng 11: Test thức tỉnh có làm thay đổi huyết động 
học 

Nhận xét: Độ dài đốt sống PT tương ứng với 
các BN VCS từ ngực đến lưng 
Độ cong
< 600
600 - 1000

Tỉ lệ %
82,5
5
10
2,5
100

Bảng 8: Đo HA động mạch xâm lấn 

Sử dụng vận mạch
Không
Trong mổ
Sau mổ
Cả trong và sau mổ
Tổng cộng


Bảng 5: Độ dài cột sống 
Số trường hợp
6
1
1
1
2
2
4
1
2
2
5
2
2
2
33

Số trường hợp
33
2
4
1
40

Bảng 9: Sử dụng thuốc vận mạch 

Nhận  xét:  Khác:  1  (Hội  chứng  Arnold‐
Chiari) 

Độ dài đốt sống PT
1
2
3
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Tổng cộng

Nghiên cứu Y học

o

Thời gian gây mê

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

469


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013


Nghiên cứu Y học 
Thời gian gây mê
≤ 3 giờ
3-5 giờ
> 5 giờ
Tổng cộng

Số trường hợp
3
12
25
40

Tỉ lệ %
7,5
30,0
62,5
100

Thời gian GM ngắn nhất là 2g30 và dài nhất 
là 9g30 
Bảng 15: Biến chứng 
Biến chứng
Không

Tổng cộng

Số trường hợp
37
3

40

Tỉ lệ %
92,5
7,5
100

Tê 2 chi dưới và  teo  cơ:  1,  Liệt  cánh  tay  (T) 
sức cơ 4/5: 1, Tràn dịch màng phổi (T): 1 

BÀN LUẬN 
Chọn lựa BN và thời điểm PT bệnh VCS ở 
trẻ em 
VCS  là  biến  dạng  quay  –  bên  của  đoạn  cột 
sống  thắt  lưng  (TL)  –  ngực  (N),  độ  nặng  của 
VCS phụ thuộc vào góc hợp bởi đoạn cột sống bị 
cong.  Khi  góc  này  >  10o  là  có  bất  thường  ở  cột 
sống, nếu < 60o ít gây ảnh hưởng đến chức năng 
hô hấp. Tần suất dị dạng cột sống ở Bắc Mỹ là 1 
– 2%  (9) còn ở Việt Nam chưa có thống kê chính 
xác. Tuy có nhiều nguyên nhân gây VCS, nhưng 
VCS vô căn là thường gặp nhiều nhất trong các 
loại  dị  dạng  cột  sống.  Trẻ  bị  VCS  thường  có  1 
giai  đoạn  ổn  định,  độ  cong  cột  sống  được  duy 
trì,  có  thể  điều  trị  bảo  tồn  không  cần  PT(2).  Tuy 
nhiên 1 số nhỏ các trường hợp chiếm 0,2 – 0,5% 
VCS  có  diễn  tiến  xấu  làm  cột  sống  cong  nhiều 
hơn gây mất thẩm mỹ, đau lưng và ảnh hưởng 
tới chức năng tim phổi(9), và các trường hợp này 
cần được PT cột sống.  

Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  việc  chọn 
lựa các BN VCS để mổ là các BN có cột sống bị 
cong nhiều, độ cong trung bình là 68o, trong đó 
có 21 VCS <60o (52,5%) 18 VCS 60 – 100o (45%) và 
1 VCS > 100o (2,5%). Độ cong nhỏ nhất là 42o và 
lớn nhất là 110o, có ảnh hưởng ít nhiều tới chức 
năng tim, phổi. 
Thời  điểm  PT  cho  BN  hiện  nay  còn  nhiều 
bàn  cãi,  thông  thường  VCS  sẽ  có  3  giai  đoạn 
bùng phát liên quan tới các giai đoạn phát triển 

470

của trẻ em.  
‐ Trẻ nhỏ < 3t: khi phát hiện VCS trong thời 
điểm  này  thường  kết  hợp  với  chậm  phát  triển 
tâm – vận, thoát vị bẹn, trật khớp háng bẩm sinh 
và tim bẩm sinh… 
‐ Trẻ lớn 3 – 10t: VCS trong lứa tuổi này có 
thể điều trị bảo tồn. 
‐  Trẻ  thiếu  niên  >10t:  VCS  vô  căn  là  thể 
thường  gặp  nhất  và  ờ  trẻ  gái  nhiều  hơn.  Triệu 
chứng sẽ rầm rộ ở giai đoạn tiền kinh nguyệt và 
tuổi xương.  
Nếu độ cong cột sống càng nhiều, VCS >100o  
sẽ gây nên các tổn thương tim mạch và hô hấp. 
Nếu  chậm  trễ  PT  thì  càng  ảnh  hưởng  tới  tim  – 
phổi đồng thời BN càng chịu nhiều nguy cơ chu 
phẫu hơn(4). 
Số BN VCS trong nghiên cúu này được PT: < 

3t  không  có  trường  hợp  nào,    từ  3  –  10t  là  6 
trường  hợp  và  >  10t  là  34  trường  hợp,  tỉ  lệ  nữ 
nhiều hơn nam 27 nữ : 13 nam. Có 2 BN cần thở 
máy 1 ngày sau mổ đều có đoạn CS chỉnh hình > 
10 đốt sống, thời gian mổ > 6g và 1 BN có thêm 
di  chứng  hở  van  tim.  Điều  này  cũng  phù  hợp 
với các dữ liệu trong y văn. 

Chuẩn bị tiền phẫu 
Mục  đích  của  chuẩn  bị  tiền  phẫu  cho  BN 
VCS là giúp đánh giá BN toàn diện, hướng dẫn 
BN hợp tác trong và sau mổ, và hạn chế tối đa 
các biến chứng có thể xảy ra chu phẫu. Cần khảo 
sát  tình  trạng  VCS,  có  ảnh  hưởng  đến  các  cơ 
quan chức năng chưa? Làm các xét nghiệm tim, 
phổi, các biện pháp giúp cái thiện tình trạng BN, 
tâm lý, và dự trù lượng máu cần thiết. 
Tại  BVNĐ  2  chúng  tôi  chuẩn  bị  BN  trước 
mổ:  Chụp  XQ  cột  sống,  khám  tim  mạch  và  các 
XN  liên  quan;  đánh  giá  chức  năng  hô  hấp,  tuy 
nhiên còn hạn chế đo chức năng hô hấp cho BN 
tuổi nhỏ. Xét nghiêm chức năng gan – thận, ion 
đồ,  huyết  đồ  và  chức  năng  đông  máu  toàn  bộ. 
Nhưng  chưa  lập  được  quy  trình  tiết  kiệm  máu 
truyền cho BN trước mổ.  
Đánh  giá  chức  năng  hô  hấp:  Khi  VCS  tiến 
triển  làm  cột  sống  càng  cong  nhiều  hơn  sẽ  gây 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 
hẹp  khoang  ngực,  thể  tích  phổi  và  độ  đàn  của 
phổi sẽ tỷ lệ nghịch với độ cong này. Khi VCS > 
65o chức năng hô hấp sẽ bị ảnh hưởng. Hậu quả 
là  gây  bệnh  phổi  hạn  chế,  dung  tích  sống  bình 
thường  là  60ml/kg  sẽ  bị  giảm  nhiều  <60%.  Đối 
với  VCS  do  bệnh  lý  thần  kinh  –  cơ  thì  tổn 
thương phổi còn nặng nề hơn.  
Đánh  giá  chức  năng  tim  mạch:  25%  VCS  bị 
sa van 2 lá, nếu VCS > 70o có thể bị cao áp phổi 
khi  vận  động  gắng  sức,  nếu  VCS  >  110o  cao  áp 
phổi  có  thể  xảy  ra  khi  nghỉ  ngơi.  Lý  do  cao  áp 
phổi  không  chỉ  do  tăng  kháng  lực  mạch  máu 
phổi  (lồng  ngực  bị  méo  gây  chèn  ép  phổi)  mà 
còn do tần suất co mạch máu phổi thiếu O2(4,8). 
BN có các di chứng về tim – phổi trước mổ 
thì  nguy  cơ  có  nhiều  biến  chứng  trong  và  sau 
mổ  hơn.  Một  số  nghiên  cứu  cho  rằng  các  tổn 
thương này hồi phục rất ít hoặc rất chậm sau đó 
hàng tháng hay tới hàng năm(11). 

Phẫu  thuật  VCS:  Thách  thức  cho  BS 
GMHS? 
Ngoài  những  nguyên  tắc  cơ  bàn  trong  gây 
mê nhi thì khi GM trong PT chỉnh hình VCS cần 
lưu ý một số điểm sau: 

Phương pháp PT 
Đường  mổ  có  thể  là  đường  lưng  (BN  nằm 

sấp),  hay  đường  ngực  (BN  nằm  nghiêng  ),  hay 
cả hai (thay đổi tư thế BN trong mổ). Cần chuẩn 
bị phương tiện dụng cụ và nhân sự để thực hiện 
đồng  bộ.  Thời  gian  PT  là  rất  dài,  trong  nghiên 
cứu này thời gian PT > 5g là 25 BN chiếm 62,5%, 
từ 3 – 5g là 12 BN (30%) và < 3g có 3 BN chiếm 
7,5%. Gây mê cần lưu ý khi PT đè ép lên ngực, 
khi  bẻ  thanh  dọc  chỉnh  hình  CS  có  thể  ảnh 
hưởng huyết động học và cản trở việc làm đầy 
tim. Ở trẻ bị gù vẹo nhiều có nguy cơ thuyên tắc 
khí nhiều hơn ở giai đoạn này.  
Trong  nghiên  cứu  này  đa  số  PT  là  hàn 
xương  lối  sau  (đường  lưng)  33  BN  (82,5%),  2 
trường  hợp  hàn  xương  lối  trước  (đường  ngực: 
5%), và 4 trường hợp đi 2 đường (10%). Mỗi khi 
PT  viên  ép  ngực  nhiều  hay  lúc  bẻ  thanh  dọc 
chỉnh  hình  CS,  BN  thường  bị  mạch  chậm,  tụt 

Nghiên cứu Y học

huyết áp.  

Tư thế BN 
BN  thường  được  đặt  ở  tư  thế  nằm  sấp  khi 
PT VCS, cần lưu ý bảo vệ các nơi tỳ, chú ý 2 tay 
không áp sát  thân  cũng  không  dang  quá  90o  vì 
dễ gây tổn thương thần kinh. Không được chèn 
ép bụng vì sẽ cản trở thông khí và hồi lưu tĩnh 
mạch. Đặt đầu ở vị trí trung gian, áp lực phân bố 
đều ở trán và mặt, tránh chèn ép 2 mắt. Mất thị 

lực  sau  mổ  là  1  biến  chứng  không  thường  gặp 
nhưng  gây  tàn  phế  cho  BN.  Tần  suất  có  thể  là 
0,2%  thường  gặp  trên  người  lớn,  nhưng  không 
phải không gặp trên trẻ lớn. Bệnh nguyên chưa 
rõ ràng nhưng có liên quan đến thiếu máu thần 
kinh thị giác. Thời gian mổ kéo dài và mất máu 
lượng  lớn  không  kiểm  soát  được  là  các  yếu  tố 
nguy  cơ  cho  tai  biến  này  (5).  BN  phải  nằm  sấp 
trong 1 thời gian dài nên cần cố định chắc chắn 
ống  nội  khí  quản,  vì  tuột  ống  trong  mổ  sẽ  là  1 
thảm họa(6). 
Cần  phải  có  1  khung  đặc  biệt  để  kê  tư  thế 
BN, nhưng hiện nay tại BVNĐ2, chúng tôi chưa 
có  được  khung  này.  Trong  thời  gian  đầu  tiến 
hành  mổ  VCS,  đầu  BN  thường  được  đặt 
nghiêng, nên có 1 trường hợp bị trật CS cổ  sau 
mổ, gây tê liệt cánh tay (T) và đã được phục hồi. 
Thời gian mổ trong trường hợp này là 9g. 

Tổn thương tủy sống  
Có  thể  xảy  ra  trong  PT  chỉnh  hình  VCS, 
đây  là  biến  chứng  đáng  quan  ngại.  Theo  hiệp 
hội  nghiên  cứu  VCS  ở  Mỹ  và  hội  dị  tật  cột 
sống ở châu Âu cho biết tần suất nguy cơ tổn 
thương  tủy  là  0,75%  (1975)  và  giảm  dần  còn 
0,3% sau này.  
Bệnh  nguyên:  có  4  cơ  chế  chính  gây  tổn 
thương tủy là dập tủy do thao tác PT, do bắt ốc 
chân  răng,  khi  chỉnh  độ  cong  cột  sống  bằng 
thanh dọc và giảm máu nuôi tủy. 

Phương pháp theo dõi chức năng tủy sống: 
hiện  có  nhiều  cách  để  theo  dõi  chức  năng  tủy 
sống  trong  mổ.  Test  thức  tỉnh  (wake  up  ‐  test) 
dùng  lời  nói  đánh  giá,  ankle  –  clonus  test, 
somatosensory – evoked potentials (SEP), motor 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

471


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

–  evoked  potentials  (MEP)…  là  dùng  máy  kích 
thích điện để đánh giá đáp ứng vận động – cảm 
giác  của  BN.  Ở  BVNĐ2  chúng  tôi  chỉ  áp  dụng 
test thức tỉnh. 
Test  thức  tỉnh:  BN  được  dặn  dò  trước  khi 
gây mê, sẽ có 1 giai đoạn kêu BN dậy, xác định 
độ tỉnh mê bằng nói BN nắm tay BS, sau đó nói 
BN cử động 2 chi dưới… Đây là 1 giai đoạn khó 
khăn  cho  cả  BN  và  BS.  BN  thường  lo  lắng  khi 
nghe giải thích về test này trước mổ vì sợ đau, sợ 
nhớ lại sau mổ. Đối với ê kíp PT thì lúc BN thức 
tỉnh trong mổ có thể gây tuột ống nội khí quản, 
di chuyển dụng cụ chỉnh hình, chấn thương tâm 
lý, thuyên tắc khí và thiếu máu cơ  tim.  Do  vậy 
đối với VCS gây gù vẹo nhiều phải đổ đầy nước 

phẫu trường trong giai đoạn này.  
Trong  nghiên  cứu  này  khi  thực  hiện  test 
thức  tỉnh,  chúng  tôi  phải  cho  thêm  Fentanyl, 
chuẩn bị sẵn Propofol để sẵn sàng cho BN ngủ 
lại  nhanh  khi  cần.  Có  ghi  nhận  mạch  và  huyết 
áp  tăng  trong  giai  đoạn  này  nhưng  không  quá 
20% giá trị ban đầu.  

Hạ thân nhiệt 
Đặc biệt cần lưu ý trong mổ VCS vì thời gian 
mổ  rất  lâu  kèm  mất  máu  nhiều.  Thân  nhiệt  hạ 
càng làm tăng chảy máu vì giảm chức năng tiểu 
cầu,  chức  năng  đông  máu  giảm  và  chậm  co 
mạch.  Cần  giữ  nhiệt  độ  phòng  mổ  khoảng  24o, 
BN  được  nằm  trên  nệm  ấm,  phun  khí  ấm  cho 
BN. Đây là các trang thiết bị đắt tiền, chúng tôi 
chỉ mới trang bị được máy phun khí ấm. 
Hạn chế mất máu trong mổ 
Lượng máu mất trong mổ tương ứng với số 
đoạn cột sống can thiệp, ở trẻ VCS vô căn lượng 
máu  mất  có  thể  là  750  –  1500  ml  hay  60  –  150 
ml/đốt sống. Trẻ VCS bại não là 1300 – 2200 ml 
tương  ứng  100  –  190  ml/đốt  sống.  Và  trẻ  VCS 
bệnh lý thần kinh – cơ là 2500 – 4000 ml tương 
ứng 200 – 280 ml/đốt sống. 
Có nhiều biện pháp giúp hạn chế chảy máu 
trong  mổ  như:  hạ  HA  chỉ  huy,  pha  loãng  máu 
đồng  thể  tích,  truyền  máu  tự  thân  (lấy  máu 
trước  mổ  3  –4  tuần  để  truyền  lại  trong  mổ), 


472

dùng thuốc ức chế tiêu  sợi  huyết  (Aminocapric 
acid,  Aprotinine),  Tranexamic  acid  không  có 
hiệu quả; truyền máu hoàn hồi (cell saver). Việc 
tăng  lượng  hồng  cầu  trước  mổ  cũng  được  đề 
nghị bằng cách cho BN Erythropoietin, viên sắt, 
vitamin  C…  Qua  kết  quả  của  1  số  nghiên  cứu 
cho  rằng  truyền  máu  tự  thân  và  dùng  thuốc 
trước mổ là hiệu quả hơn. 
Trong nghiên cứu chúng tôi sử dụng truyền 
máu hoàn hồi 31 trường hợp chiếm 77,5%, trong 
đó  có  2  BN  cần  truyền  thêm  máu  sau  mổ.  2 
trường hợp (5%) vừa truyền máu hoàn hồi vừa 
truyền máu thêm trong mổ: 1 BN PT 10 đốt sống 
độ cong 85o, 1 BN 12 đốt sống độ cong 70o, thời 
gian  mổ  đều  >  6g,  mỗi  BN  được  truyền  125ml 
HC  lắng.  Đây  là  những  BN  mổ  trên  nhiều  đốt 
sống bị vẹo nhiều, 1 BN bị hở van tim kèm theo. 
Với phương tiện này đã giúp hạn chế được việc 
truyền  máu  đồng  nhóm  rất  nhiều.  Nhưng 
phương  pháp  này  vẫn  còn  hạn  chế  ở  BN  nhỏ 
nhẹ  cân,  vì  cần  thu  thập  đủ  1  lượng  máu  cho 
máy  hoạt  động  rồi  mới  truyền  trả  lại  được. 
Lượng Hemoglobine sau mổ không thay đổi 13 
trường hợp (32,5%), giảm ≤ 4g/dl 23 trường hợp 
(57,5%), chỉ có 4 trường hợp giảm > 4g/dl (10%). 
Chúng  tôi  nhận  thấy  lượng  máu  mất  trong  mổ 
tương ứng với chiều dài đốt sống can thiệp, thời 
gian và kỹ thuật mổ.  

Như vậy do tính chất phức tạp của PT, các 
tai biến nghiêm trọng liên quan đến tư thế mổ, 
tổn  thương  tủy  sống,  mất  máu  lượng  lớn,  hạ 
thân  nhiệt  và  thời  gian  mổ  kéo  dài…  thì  gây 
mê cho BN VCS quả là thách thức cho BSGM, 
nhất  là  trên  BN  có  các  di  chứng  tim  –  phổi 
trước mổ. Do đó bước đầu chúng tôi chưa thể 
thực  hiện  những  trường  hợp  VCS  do  bệnh  lý 
thần kinh – cơ.  

Kỹ thuật gây mê trong phẫu  thuật vẹo  cột 
sống 
PT  VCS  có  thể  gây  ra  những  tai  biến  tổn 
thương  tủy  sống,  mất  máu  lượng  lớn,  nên  kỹ 
thuật gây mê phải phù hợp để có thể thực hiện 
test  thức  tỉnh,  hay  các  test  đánh  giá  chức  năng 
vận động – cảm giác thần kinh. Đối với các BN 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 
VCS có các di chứng về hô hấp – tim mạch trước 
đó thì phải có 1 kế hoạch gây mê, chăm sóc sau 
mổ thích hợp. BN cần được theo dõi thường quy 
như ECG, HA, EtCO2, SpO2… BN cần được theo 
dõi HA động mạch xâm lấn, ít nhất 1 đường TM 
ngoại  vi  nòng  lớn,  đo  thân  nhiệt,  nước  tiểu, 
đường TM trung tâm cho những trường hợp có 
tổn thương ở tim hay khó chích tĩnh mạch...  

Trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi  thực  hiện 
GM  cân  bằng  cho  tất  cả  BN  với  Propofol, 
Fentanyl,  Rocuronium,  và  Isoflurane.  Thời  gian 
chờ  làm  test  thức  tỉnh  cho  BN  trung  bình  là  30 
phút. Desflurane có thể giúp BN hồi tỉnh nhanh 
hơn, nhưng chúng tôi chưa có thuốc này.  
Chúng tôi ghi nhận  trong  giai  đoạn  xiết  ốc, 
chỉnh  CS  bằng  thanh  dọc  có  13  BN  (32,5%)  bị 
mạch chậm, tụt HA cần được điều trị thuốc vận 
mạch. Đây là những BN VCS > 60o, chỉ 1BN VCS 
50o, có đoạn CS mổ dài từ 7 – 12 đốt sống.  

Giai đoạn hậu phẫu 
Việc quyết định rút nội khí quản hay duy trì 
thở máy sau mổ dựa trên BN có di chứng về hô 
hấp – tim mạch trước đó không, diễn tiến cuộc 
mổ  cũng  góp  phần  vào.  Vì  có  1  sự  giảm  dung 
tích  sống  40%  tức  thì  và  thoáng  qua  trong  hấu 
hết  BN  sau  mổ  VCS(8).  Trong  nghiên  cứu  này 
chúng tôi rút nội khí quản trung bình 1g sau mổ, 
chỉ có 2 TH thở máy 1 ngày vì có chiều dài CS 
mổ trên 10 đôt sống, thời gian mổ > 6g và 1 BN 
có hở van tim. 
Giảm đau sau mổ 
PT  VCS  gây  đau  nhiều  nên  sử  dụng 
Morphin 20 – 40 mcg/kg/H truyền  liên tục, từng 
liều  hay  qua  PCA  thường  được  chọn  lựa.  Tê 
ngoài  màng  cứng  được  đặt  cuối  cuộc  mổ  với  1 
hay 2 catheter duy trì giảm đau sau mổ. Thuốc 
giảm  đau  kháng  viêm  không  Steroid  (NSAIDs) 

ngăn cản quá trình lành xương, tần suất kết hợp 
xương kém sau PT VCS. Nên NASIDs chỉ được 
cho với sự thận trọng cao sau khi đã bàn bạc kỹ 
lưỡng, và chỉ cho 3 – 5 ngày sau mổ(3). Sử dụng 
Ketamine liều thấp 0,05 – 0,2mg/kg/H phối hợp 
với  Morphine  để  giảm  đau  sau  mổ  VCS  còn 

Nghiên cứu Y học

nhiều bàn cãi, nhưng rõ ràng có giảm được liều 
Morphine.  Thực  tế  có  thể  truyền  TM  Ketamine 
5mcg/kg/1’  tới  cuối  cuộc  mổ  còn  2mcg/kg/1’  vì 
Ketamine chống tăng cảm đau. 
Tất  cả  BN  chúng  tôi  được  giảm  đau  bằng 
Morphine 20 – 40 mcg/kg X 2 ngày sau mổ, sau 
đó giảm liều dần và sử dụng Paracetamol. 

Tác dụng phụ ‐ tai biến 
Do kỹ thuật mổ và dụng cụ: Những tai biến 
trong và sau mổ đều có thể xảy ra, nên cần phải 
hiểu rõ để xử lý kịp thời. Y văn có báo cáo nhiều 
TH tai biến nặng như mất thị lực sau mổ, thuyên 
tắc khí trong mổ, yếu – liệt chi sau mổ… gây tàn 
phế cho BN. Do đó phải nắm vững kỹ thuật mổ, 
đánh giá BN, có phương pháp GM phù hợp cho 
từng  BN  và  tiên  lượng  1  số  tình  huống  có  thể 
xảy ra để có thể giải quyết tốt. 
Chúng tôi có 3 TH có tai biến trong đó 1 TH 
bị  yếu  2  chi  dưới  và  teo  cơ  4/5,  1  TH  yếu  liệt 
cánh  tay  trái  sau  đó  hồi  phục  lại  và  1  TH  tràn 

dịch màng phổi trái. 
Do  gây  mê:  Mất  máu  lượng  lớn,  hạ  thân 
nhiệt, liệt ruột, đau sau mổ, xẹp phổi, chảy máu 
sau  mổ…  là  những  tai  biến  liên  quan  đến  GM. 
Cần  duy  trì  huyết  động  ổn  định  suốt  cuộc  mổ, 
bảo vệ BN…sử dụng thuốc mê, thuốc giảm đau 
phù hợp từng thời điểm mổ, truyền đủ dịch và 
bù máu kịp thời sẽ hạn chế phần lớn các tai biến 
này. 
Trong nghiên cứu, chúng tôi có 17 TH thay 
đổi  huyết  động  học  phải  sử  dụng  vận  mạch 
trong mổ có 9 TH, 4 TH cả trong và sau mổ và 4 
TH chỉ sau mổ. 
Như vậy, qua 40 TH PT VCS với 1 số tai biến 
xảy ra được xử lý kịp thời trong và sau mổ, bước 
đầu  chúng  tôi  đã  GMHS  an  toàn  cho  các  TH 
này. Tuy nhiên, việc huấn luyện, đào tạo BS và 
điều dưỡng cho công tác này vẫn phải tiếp tục. 

KẾT LUẬN 
Trong thời gian 2 năm BVNĐ2 đã thực hiện 
PT cho hơn 40 trường hợp VCS vô căn, kết quả 
rất  đáng  khích  lệ.  Các  phương  pháp  GMHS  áp 
dụng  góp  phần  mang  lại  thành  công  này.  Tuy 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

473



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

nhiên  đây  chỉ  là  bước  đầu  để  chúng  tôi  có  thể 
thực hiện những ca khó hơn như VCS do bệnh 
lý  thần  kinh  –  cơ,  để  góp  phần  cải  thiện  chất 
lượng  cuộc  sống  cho  các  trẻ  em  kém  may  mắn 
này. Việc xây dựng 1 ê  kíp  chuyên  nghiệp  hơn 
trong  PT,  GMHS  cần  được  tiếp  tục.  Cũng  như 
việc  trang  bị  thêm  các  phương  tiện  dụng  cụ 
thích hợp sẽ tạo điều kiện đễ phát triển kỹ thuật 
này.  

4.

5.
6.

7.

8.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.


474

Aaron LZ, Myron Y (2006). Anesthesia for orthopedic surgery. 
In: Motoyama EK, Davis PJ. Smith’s Anesthesia for infants and 
children. 7th Edition, Mosby Elsevier: 737 – 769.   
Ascani  E,  Bartolozzi  P,  Logroscino  CA  et  al  (1986).  Natural 
history of untreated idiopathic scoliosis after skeletal maturity. 
Spine 11: 784‐789 
Glassman SD, Rose SM et al (1998). The effect of postoperative 
nonsteroid anti – inflammatory drug administration on spinal 
fusion. Spine 23: 834 ‐ 838. 
 

9.

10.

11.

Kafer ER, (1980). Respiratory and  cardiovascular  functions  in 
scoliosis  and  the  principles  of  anesthetic  management. 
Anesthesiology 52: 339‐351. 
Lee  LA,  Lam  AM  (2001).  Unilateral  blindness  after  prone 
lumbar spine surgery. Anesthesiology 95: 793‐795. 
Martin  JT  (1997).  The  ventral  decubitus  (prone)  position.  In 
Martin JT, Warner MA, editors. Positioning in anesthesia and 
surgery. Philadelphia, WB Saunders: 155‐195. 
Niall Wilton, Brian A (2009). Orthopedic and spine surgery. In: 
Coté, Lerman, Todres. A practice of anesthesia for infants and 
children. 4th Edition, Saunders Elsevier: 633 – 656. 

Schur  MS,  Brown  JT  el  al  (1984).  Postoperative  pulmonary 
function  in  chldren.  Comparision  of  scoliosis  with  peripheral 
surgery. Am Rev Respir Dis 130: 46‐51. 
Weinstein SL et al (2003). Health and function of patients with 
untreated idiopathic scoliosis: A 50‐year natural history study. 
JAMA 289: 559‐567. 
Weistein SL, Zavala DC (1981). Idiopathic scoliosis: Long‐term 
follow‐up  and  prognosis  in  untreated  patients.  J  Bone  Joint 
Surg Am 63: 702‐712. 
Yuan N, Faire JA et al (2005). The effect of scoliosis surgery on 
lung  function  in  the  immediate  postoperative  period.  Spine; 
30: 2182‐2185. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 



×