Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu của người cao tuổi tại vùng nông thôn khu vực phía Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.6 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

KHẢ NĂNG TIẾP CẬN DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHỎE  
BAN ĐẦU CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI VÙNG NÔNG THÔN  
KHU VỰC PHÍA NAM 
Nguyễn Thúy Ngọc*, Nguyễn Ngọc Duy* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Dân số người cao tuổi (NCT) tại Việt Nam được dự báo sẽ gia tăng nhanh chóng trong những 
thập niên sắp tới. Chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm thiểu các 
gánh nặng bệnh tật cho NCT. Tuy nhiên, hiện nay có rất ít nghiên cứu tìm hiểu về khả năng tiếp cận dịch vụ 
CSSKBĐ của NCT tại khu vực phía Nam. 
Mục tiêu: Xác định khả năng tiếp cận dịch vụ CSSKBĐ của NCT tại vùng nông thôn khu vực phía Nam. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến 
Tre vào năm 2013. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp 520 NCT dựa trên bộ câu hỏi thiết kế 
sẵn và phỏng vấn sâu các nhóm đối tượng là trưởng trạm và nhân viên trạm y tế xã. Số liệu được nhập bằng 
phần mềm Epidata 3.1 và phân tích bằng phần mềm SPSS 16; p <0,05 được chọn làm mức ý nghĩa thống kê. 
Kết quả: Có 27% NCT trên 80 tuổi và gần 70% là phụ nữ; 12,2% NCT mù chữ; 14,7% sống một mình; 
73,4% mắc ít nhất một bệnh mạn tính; 15,8% có hạn chế vận động và 79% gặp vấn đề về sức khỏe trong 4 tuần 
qua. Đối với việc sử dụng các dịch vụ CSSK, 34,3% NCT có đi khám sức khỏe tổng quát; 77,6% có khám theo dõi 
bệnh mạn tính, trong đó gần một nửa có theo dõi định kỳ hoặc theo lịch hẹn của bác sỹ; 30,7% đi khám khi có vấn 
đề về sức khỏe. Các yếu tố bao gồm trình độ học vấn, kiến thức về chăm sóc sức khỏe, thu nhập, bảo hiểm y tế, tự 
đánh giá tình trạng sức khỏe bản thân của NCT có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với việc sử dụng các loại 
dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Kết quả khảo sát trạm y tế cho thấy các dịch vụ CSSKBĐ cho NCT còn thiếu, chất 
lượng của các dịch vụ hiện có cũng không đáp ứng được một cách có hiệu quả do sự hạn chế về nguồn nhân lực, 
kinh phí, trang thiết bị và sự xuống cấp của một số cơ sở.  
Kết luận: Dịch vụ CSSKBĐ cho NCT thiếu cả về số lượng và chất lượng, ảnh hưởng không nhỏ đến khả 


năng tiếp cận của NCT. Một số yếu tố trong đó trình độ học vấn và tình trạng bảo hiểm y tế có mối liên quan 
mạnh với việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của NCT.  
Từ khóa: tiếp cận, dịch vụ CSSKBĐ, người cao tuổi, vùng nông thôn 

ABSTRACT 
ACCESS TO PRIMARY HEALTH CARE SERVICES BY OLDER PEOPLE IN RURAL AREAS 
OF SOUTHERN VIETNAM 
Nguyen Thuy Ngoc, Nguyen Ngoc Duy 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 500 – 506 
Background: The older population in Vietnam is projected to rapidly increase in the next decades. Primary 
health care (PHC) plays an important role in reducing disease burdens among older people. However, there have 
been few studies related on access to PHC services, especially by older people in southern Vietnam.  
Objectives: To measure the access to PHC services by older people and associated factors in rural areas of 
southern Vietnam. 
* Viện Y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: Ths.Bs. Nguyễn Thúy Ngọc 

500

ĐT: 0989876176 

Email:  

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học


 
Methods: A cross‐sectional study was conducted at Giong Trom district, Ben Tre province in 2013. The 
study included a quantitative survey with structured questionnaire on 520 elderly and a qualitative interview on 
the heads and healthcare staff of four commune health stations. Epidata 3.1 software was used for data entry and 
SPSS16 was applied for data analysis. p <0.05 was considered as a statistical significance.  
Result: The propotion of older people in the age of 80 and above was 27%. Nearly 70% of older people were 
female,  12.2%  were  illiteracy,  14.7%  were  living  alone,  73.4%  had  suffered  from  at  least  one  chronic  disease, 
15.8%  had  somelimitations  in  their  daily  activities,and  79%  had  health  troubles  within  the  last  four  weeks.In 
terms of the utilisation of health care services, 34.3% of older people had general examination, 77.6% had chronic 
disease  follow‐up  examination  of  those  nearly  half  used  the  examination  regularly,  and  30.7%used  health 
examination services when having health troubles. Factors including educational levels, knowledge on health care, 
income,  health  insurance,  self‐evaluated  health  status  of  older  people  were  significantly  associated  with  the 
utilisation of health care services. Results from commune health station surveys showed that PHC services for 
older peole were inadequate and the quality of available services were low as a result of limitations of personnel, 
infrastructure and financial resources at several commune health stations.  
Conclusion: PHC services for older peole were inadequate in terms of both quantity and quality. That might 
influence  the  access  to  health  care  services  by  older  people.  Some  associated  factors  were  found  in  which 
educational  levels  and  health insurance  status  had  strongly  significant  associations  with  the  use  of health  care 
services by older peole.  
Keywords: access, primary health care, older people, rural areas 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Dân số người cao tuổi (NCT) tại Việt Nam 
ngày càng gia tăng nhanh chóng trong những 
thập  niên  gần  đây.  Tỷ  lệ  NCT  (từ  60  tuổi  trở 
lên)  chỉ  vào  khoảng  7,3%  vào  năm  1990  đã 
tăng  lên  8,4%  vào  năm  2010  và  ước  tính  lên 
đến  18,3%  vào  năm 2030(6).  Việc  di  chuyển  số 
người trong độ tuổi lao động từ nông thôn ra 
thành thị  đã  làm  tăng  tỷ  lệ  NCT  sống  ở  vùng 

nông thôn và NCT sống neo đơn. Bên cạnh đó, 
trên  2/3  số  NCT  sống  tại  các  khu  vực  nông 
thôn có trình độ học vấn thấp, điều kiện sống 
còn  nhiều  thiếu  thốn,  và  mắc  các  bệnh  mạn 
tính như tim mạch, tăng huyết áp, các bệnh về 
mắt,  cơ  xương  khớp  cũng  như  các  bệnh  phổi 
mạn  tính(1,3).  Điều  này  làm  cho  nhóm hóm 
đối  tượng  này  chính  là  những  nhóm  dễ  bị  tổn 
thương hơn so với các nhóm tuổi khác. Theo số 
liệu của Ủy Ban Nhân dân tỉnh Bến Tre, sự phân 
bố  tuổi  và  giới  của  NCT  trong  nghiên  cứu  này 
đại diện cho dân số NCT chung của tỉnh. Ngoài 
hai yếu tố tuổi và giới, một số đặc điểm khác của 
NCT  trong  nghiên  cứu  được  phân  bố  như  sau: 
83% NCT có trình độ học vấn từ cấp 1 trở xuống; 
gần 100% là người Kinh; 48% đã mất vợ/chồng; 
khoảng  32%  sống  một  mình  hoặc  sống  với 
vợ/chồng  hoặc  sống  với  cháu.  Hơn  50%  NCT 
vẫn  đang  làm  việc  và  gần  40%  có  thu  nhập  từ 
công việc đang làm. Tỷ lệ NCT có thẻ bảo hiểm y 
tế là 84% trong đó 2/3 là thẻ bảo hiểm y tế miễn 
phí được cấp cho NCT.  

Tình  trạng  sức  khỏe  của  đối  tượng  tham 
gia nghiên cứu 
Tỷ lệ NCT mắc ít nhất một bệnh mạn tính là 
73%, bị hạn chế trong một số hoạt động là 16% 
và có các vấn đề về sức khỏe trong 4 tuần qua là 
gần  80%.  Khi  được  hỏi  về  tình  trạng  sức  khỏe 
của  bản  thân,  23%  NCT  tự  đánh  giá  sức  khỏe 


Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

bản  thân  tốt  hoặc  rất  tốt;  46%  là  trung  bình  và 
31% là kém hoặc rất kém.  

Hạn chế vận động (N=518)


82

436
Không
Các loại vận động bị hạn chế (N=82)

15,8
84,2

Đi lại

75

91,5
54,9

Tắm rửa

45

Đi vệ sinh


35

42,7

Mặc/cởi quần áo

27

32,9

Ăn uống

23

28,0

Mức độ hạn chế (N=81)
Nhẹ

20

24,4

Vừa

51

62,2


10
12,2
Nặng
Vấn đề sức khỏe trong 4 tuần qua (N=518)
409
79,0

109
21,0
Không
Các triệu chứng gặp phải (N=409)
255
62,3
Nhức đầu
193
47,2
Đau lưng/đau khớp
185
45,2
Mệt mỏi
121
29,6
Ho
66
16,1
Sốt
56
13,7
Khó thở
98

23,9
Khác
Mức độ triệu chứng (N=407)
201
49,1
Nhẹ
155
37,9
Vừa

503


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Biến số
Nặng

Kết quả
n
52

%
12,7

Kiến  thức  về  chăm  sóc  sức  khỏe  của  đối 
tượng tham gia nghiên cứu 

Bảng 3:Kiến thức về chăm sóc sức khỏe của NCT  
Biến số
Có kiến thức
Không có kiến thức
Tổng

Kết quả
n
179
339
518

%
34,6
65,4
100

Trong  nghiên  cứu  này,  NCT  có  kiến  thức 
được định nghĩa là khi biết ít nhất một phương 
pháp nâng cao sức khỏe hoặc phòng ngừa bệnh 
mạn tính. Chỉ có 1/3 NCT biết một số loại thực 
phẩm  tốt  cho  việc  phòng  ngừa  bệnh  mạn  tính 
như cao huyết áp, đái tháo đường hoặc biết cách 
nâng cao sức khỏe như tập dưỡng sinh.  

Thực  trạng  tiếp  cận  dịch  vụ  CSSKBĐ  của 
NCT 
Kết quả khảo sát trạm y tế cho thấy các dịch 
vụ  CSSKBĐ  dành  cho  NCT  theo  như  quy  định 
tại Luật Người cao tuổi còn thiếu cả về số lượng 

và  chất  lượng.  Khám  chữa  bệnh  là  hoạt  động 
chủ yếu của các trạm y tế. Tuy nhiên, không có 
hoạt động khám chữa bệnh nào dành riêng cho 
NCT  và  chỉ  có  một  trong  số  bốn  trạm  y  tế  có 
dành ưu tiên cho NCT khi khám chữa bệnh tại 
trạm. Vấn đề truyền thông và giáo dục sức khỏe 
cũng như hướng dẫn các kỹ năng chăm sóc sức 
khỏe, phòng ngừa bệnh tật có được tiến hành tại 
các  trạm  y  tế  nhưng  không  thường  xuyên.  Các 
hoạt động khác như chăm sóc sức khỏe tại nhà, 
quản lý và theo dõi hồ sơ sức khỏe và khám sức 
khỏe  định  kỳ  không  được  triển  khai  thực  hiện. 
Nguyên  nhân  chính  của  việc  thiếu  về  số  lượng 
và kém về chất lượng của các dịch vụ này là do 
các trạm y tế bị hạn chế về nguồn nhân lực cũng 
như kinh phí hoạt động; họ không có nhân viên 
chuyên  trách,  không  đủ  thuốc,  trang  thiết  bị, 
không  được  cấp  kinh  phí  để  triển  khai  hoạt 
động. Ngoài ra, nhiều nhân viên y tế không thấy 
được  trách  nhiệm  của  họ  trong  việc  tiến  hành 

504

các  hoạt  động  CSSKBĐ  cho  NCT;  một  số  thậm 
chí còn không biết về Luật Người cao tuổi. 
Bảng 4:Tình hình sử dụng dịch vụ CSSKBĐ của 
NCT  
Kết quả
n
%

Khám sức khỏe định kỳ (N=516)
177
34,3

339
65,7
Không
Khám theo dõi bệnh mạn tính (N=379)
294
77,6

85
22,4
Không
Khám theo dõi bệnh mạn tính định kỳ (N=380)
187
49,2

193
50,8
Không
Khám khi có vấn đề về sức khỏe (N=409)
159
30,7

250
48,3
Không
Biến số


Khi phỏng vấn NCT về tình hình sử dụng 
dịch vụ CSSKBĐ, kết quả cho thấy có khoảng 
1/3  số  NCT  đi  khám  sức  khỏe  ít  nhất  1  lần 
trong  vòng  1  năm  qua.  Trong  số  NCT  mắc 
bệnh mạn tính có 77,6% sử dụng dịch vụ khám 
theo dõi bệnh mạn tính và gần một nửa trong 
số  này  sử  dụng  dịch  vụ  khám  theo  dõi  bệnh 
mạn tính định kỳ hoặc theo lịch hẹn của bác sĩ. 
Trong số NCT có vấn đề về sức khỏe như nhức 
đầu, chóng mặt, đau lưng…trong vòng 4 tuần 
qua  thì  chỉ  có  30,7%  đến  cơ  sở  y  tế  để  khám 
bệnh. Cơ sở y tế họ đến khám chủ yếu là bệnh 
viện đa khoa tỉnh và huyện.  

Các yếu tố liên quan đến khả năng tiếp cận 
dịch vụ CSSKBĐ của NCT  
Việc thiếu các dịch vụ CSSKBĐ cho NCT cả 
về số lượng và chất lượng của trạm y tế xã được 
xem như là rào cản chính cho NCT tiếp cận với 
các  dịch  vụ.  Khi  được  hỏi  về  mong  muốn  của 
bản  thân  trong  việc  chăm  sóc  sức  khỏe,  nhiều 
NCT  đã  trả  lời  rằng  họ  muốn  được  khám  sức 
khỏe định kỳ ít nhất một lần trong một năm; một 
số người mong được nhân viên y tế hướng dẫn, 
tư vấn về cách chăm sóc sức khỏe; môt số muốn 
được  khám  chữa  bệnh  tại  nhà;  một  số  muốn 
được  khám  và  phát  thuốc  miễn  phí…Bên  cạnh 
đó, một số NCT nói rằng họ sẽ không sử dụng 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
dịch vụ khám chữa bệnh tại trạm y tế mà sẽ tới 
các  cơ  sở  y  tế  khác  vì  họ  không  tin  tưởng  vào 
chất lượng dịch vụ. 
Các yếu tố trình độ học vấn và thu nhập của 
NCT  có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  với 
việc  sử  dụng  các  dịch  vụ  khám  sức  khỏe  tổng 
quát  và  khám  khi  có  các  vấn  đề  về  sức  khỏe. 
Nhóm  NCT  không  đi  học  có  tỷ  lệ  sử  dụng  các 
dịch vụ khám sức khỏe tổng quát thấp hơn hẳn 
(26,2%) so với nhóm đã học xong cấp 1 (44,2%) 
và nhóm có trình độ từ cấp 2 trở lên (45.5%) (p 
<0,001).  Tương  tự,  nhóm  NCT  không  đi  học  đi 
khám khi có vấn đề về sức khỏe cũng thấp hơn 
so  với  2  nhóm  còn  lại  (p  <0,05).  Đối  với  yếu  tố 
thu nhập, khi xét 2 nhóm có thu nhập và không 
có thu nhập nói chung thì tỷ lệ NCT có thu nhập 
sử  dụng  các  dịch  vụ  nêu  trên  thấp  hơn  so  với 
nhóm  không  có  thu  nhập.  Tuy  nhiên,  khi  xét 
theo nguồn thu nhập thì tỷ lệ NCT có thu nhập 
từ  lương  hưu  sử  dụng  dịch  vụ  khám  sức  khỏe 
tổng  quát  cao  gần  gấp  đôi  nhóm  không  có  thu 
nhập và ngược lại tỷ lệ NCT có thu nhập từ công 
việc đang làm ít sử dụng dịch vụ hơn nhóm còn 

lại. Điều này có thể lý giải rằng đối tượng NCT 
có  thu  nhập  từ  lương  hưu  là  những  người  đã 
từng làm việc cho các đơn vị nhà nước, thường 
có nhận thức về tầm quan trọng của việc khám 
sức khỏe tổng quát cao hơn các đối tượng khác; 
NCT  có  thu  nhập  từ  công  việc  đang  làm  ít  đi 
khám bệnh hơn có thể do họ cảm thấy sức khỏe 
tốt  hơn  hoặc  họ  không  có  thời  gian  để  đi  kiểm 
tra sức khỏe. Tổng thu nhập hàng tháng cũng có 
mối  liên  quan  với  sử  dụng  dịch  vụ  trong  đó 
NCT có thu nhập ≥ 3 triệu đồng sử dụng dịch vụ 
cao hơn so với các nhóm có thu nhập khác. Điều 
này dễ lý giải khi người giàu có hoặc khá giả sẽ 
có  nhiều  cơ  hội  để  sử  dụng  dịch  vụ  sức  khỏe 
hơn so với người nghèo, và họ cũng thường có 
trình độ học vấn và nhận thức về chăm sóc sức 
khỏe tốt hơn. 
Bên cạnh các yếu tố về trình độ học vấn và 
thu nhập, yếu tố tự đánh giá tình trạng sức khỏe 
của  bản  thân  cũng  có  mối  liên  quan  có ý  nghĩa 
thống  kê  với  việc  khám  sức  khỏe  tổng  quát  và 

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 

việc  khám  theo  dõi  các  bệnh  mãn  tính  định  kỳ 
hoặc theo lịch hẹn của bác sỹ. Trên 40% NCT tự 
đánh giá sức khỏe của mình kém có sử dụng hai 
loại  dịch  vụ  nêu  trên,  cao  hơn  hơn  10%  so  với 
nhóm tự đánh giá sức khỏe bình thường hoặc tốt 
(p <0,01). Sự khác biệt này có thể là do nhóm tự 

đánh giá sức khỏe của mình kém là nhóm đang 
có  bệnh  mạn  tính  nên  họ  sẽ  thường  xuyên  đi 
khám và theo dõi tình hình bệnh tật hơn là các 
nhóm còn lại. 
Trong nghiên cứu này, các yếu tố có mối liên 
quan  đến  việc  sử  dụng  dịch  vụ  khám  theo  dõi 
bệnh mạn tính định kỳ là yếu tố có kiến thức về 
nâng  cao  sức  khỏe,  phòng  ngừa  bệnh  tật  và  có 
thẻ bảo hiểm y tế. Tỷ lệ sử dụng dịch vụ này là 
59,5% ở nhóm NCT có kiến thức so với 39,5% ở 
nhóm  không  có  kiến  thức  (p  <0,05);  gần  81%  ở 
nhóm có thẻ bảo hiểm y tế so với khoảng 56% ở 
nhóm  không  có  (p  <0,001).  Yếu  tố  có  kiến  thức 
và có thẻ bảo hiểm y tế có thể được xem như là 
một yếu tố thúc đẩy NCT sử dụng dịch vụ khám 
theo dõi bệnh mãn tính định kỳ.  
Khi  có  các  vấn  đề  về  sức  khỏe,  yếu  tố  tự 
đánh  giá  mức  độ  của  triệu  chứng  (nặng,  vừa, 
nhẹ)  có  mối  liên  quan  mạnh  với  việc  đi  khám 
bệnh hay để các triệu chứng tự qua đi. Tỷ lệ đi 
khám khi có các vấn đề về sức khỏe ở nhóm tự 
đánh giá mức độ của vấn đề là nhẹ là 24,4%; vừa 
là 50,3% và nặng là 61,5%. Sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê với p <0,001. 

KẾT LUẬN 
Các dịch vụ CSSKBĐ cho NCT tại trạm y tế 
thiếu  cả  về  số  lượng  và  chất  lượng,  ảnh  hưởng 
tới khả năng tiếp cận của NCT; trình độ học vấn 
và kiến thức về chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa 

bệnh  tật  có  mối  liên  quan  với  việc  sử  dụng  các 
dịch vụ khám sức khỏe tổng quát và khám theo 
dõi bệnh mạn tính định kỳ; nhóm NCT có lương 
hưu  hoặc  thu  nhập  trên  3  triệu/tháng  có  khả 
năng sử dụng dịch vụ khám sức khỏe tổng quát 
cao hơn các nhóm khác; nhóm NCT tự đánh giá 
sức khỏe bản thân kém có khả năng đi khám sức 
khỏe tổng quát và khám theo dõi bệnh mạn tính 

505


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
định kỳ cao hơn các nhóm khác; tỷ lệ nhóm NCT 
đi khám bệnh khi có vấn đề về sức khỏe ở nhóm 
tự đánh giá mức độ của vấn đề là vừa và nặng 
cao hơn ở nhóm chỉ cảm thấy ở mức độ nhẹ; tình 
trạng có kiến thức về chăm sóc sức khỏe, phòng 
ngừa bệnh tật và tình trạng có bảo hiểm y tế có 
mối liên quan chặt chẽ với việc sử dụng dịch vụ 
khám theo dõi bệnh mạn tính định kỳ. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Hoi LV, Chuc NTK, Lindholm L (2010). Health‐related quality 

of  life  and  its  determinants,  among  older  people  in  rural 
Vietnam. BMC Public Health, 10.354‐367. 

2.

IFA  (2008).  Vietnam  summary  report:  Looking  after  and 
increasing the role of aging in Vietnam. ‐fiv.org. 
Accessed on 3 November 2012 

3.

Ninh  HT,  Nhat  PD,  et  al.  (2010).  Health  and  nutritional  status 
and related factors of elderly people in urban and rural areas in 
Southern provinces in 2010. Bulletin on Social Determinants of 
Health, 2, 48‐56. 

4.

Tam  DTM,  Nhat  PD,  et  al.  (2010).  Utilization  of  healthcare 
services  in  urban  and  rural  areas  in  Can  Tho  city  and  Hau 
Giang  provinces,  2010.  Bulletin  on  Social  Determinants  of 
Health. 2, 48‐56 

5.

Thuan, NTB, Lofgren C, Lindholm L, Chuc NTK (2008). Choice 
of  healthcare  provider  following  reform  in  Vietnam.  BMC 
Health 
Services 
Research, 

8. 
/>162.pdf. Accessed on April 15, 2012. 

6.

UN  (2010).  On‐line  database:  Detailed  indicators. 
Accessed  on 
Apil 15, 2012. 

7.

VEA 
(2009). 
Elderly 
Law. 
Elderly 
Journal. 
/>zone=4&ID=3845. Accessed on April 21, 2012. 

8.

WHO (2008). World Health Report 2008: Primary Health Care: 
Now More Than Ever. Geneve. Pp 56‐78. 

KIẾN NGHỊ 
Chính  phủ  nên  xem  xét  và  đưa  hoạt  động 
CSSKBĐ  cho  NCT  trở  thành  một  chương  trình 
mục tiêu y tế quốc gia. Chính quyền địa phương 
cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để 
tạo điều kiện cho các trạm y tế triển khai các dịch 

vụ CSSKBĐ cho NCT, đồng thời dành ngân sách 
riêng cho các hoạt động này hàng năm. Ngoài ra, 
việc  nâng  cao  nhận  thức  cho  nhà  quản  lý  và 
nhân viên y tế về trách nhiệm thực hiện các hoạt 
động  CSSKBĐ  cho  NCT  cần  được  thực  hiện 
sớm.  Trong  các  nghiên  cứu  tiếp  theo,  cần  tập 
trung  hơn  vào  nhóm  NCT  thuộc  các  dân  tộc 
thiểu số vì đây là nhóm có trình độ học vấn thấp 
nhất  và  nghèo  nhất  ở  Việt  Nam.  Bên  cạnh  đó, 
những  rào  cản  về  ngôn  ngữ  và  văn  hóa  khiến 
cho  các  nhóm  dân  tộc  thiểu  số  trở  thành  nhóm 
dễ  bị  tổn  thương  và  cần  được  quan  tâm  hơn 
trong việc chăm sóc sức khỏe.  

 
Ngày nhận bài báo:
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:  
 

15/5/2014
21/6/2014
14/11/2014 

 

506

Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 




×