Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khảo sát tỉ lệ gãy xương đốt sống và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi giảm mật độ xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.25 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

KHẢO SÁT TỈ LỆ GÃY XƯƠNG ĐỐT SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ  
LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI GIẢM MẬT ĐỘ XƯƠNG 
Nguyễn Thái Hòa***, Cao Thanh Ngọc**, Nguyễn Đình Khoa*  

TÓM TẮT 
Mục  tiêu:  Gãy xương đốt sống (GXĐS) ở người cao tuổi có giảm mật độ xương thường không có triệu 
chứng. Mục tiêu của nghiên cứu này là để khảo sát tỉ lệ gãy xương đốt sống ở người cao tuổi và tìm hiểu các yếu 
tố liên quan đến tình trạng gãy xương đốt sống.  
Đối  tượng  và  phương  pháp  nghiên  cứu:  Nghiên cứu  cắt ngang được thực hiện tại khoa nội cơ xương 
khớp bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian từ tháng 1 – 5/2013, khảo sát gãy xương đốt sống ngực và thắt 
lưng. Chẩn đoán gãy xương đốt sống bằng phương pháp Genant’s, mật độ xương được đo bằng DXA và tìm 
hiều các yếu tố liên quan đến gãy xương đốt sống.  
Kết quả: Có 96 bệnh nhân (BN) được đưa vào trong thời gian nghiên cứu. Độ tuổi trung bình là 73,4 ± 8, 
nữ chiếm 77,1%. 87,6% BN loãng xương, 12,4% BN thiếu xương. Tỉ lệ gãy xương đốt sống là 46,8%. Tuy 
nhiên gãy xương đốt sống tăng theo tuổi và cao nhất ở nhóm đối tượng trên 80 tuổi với 68%. Ngược lại chỉ số T 
Score giảm ở BN có gãy xương. Gãy bờ (68%) và gãy lún (62%) là hai kiểu gãy thường gặp nhất. Tần suất gãy 
xương tập trung vào vùng nối giữa ngực và thắt lưng (T12 và L1) với 28%. Có mối liên quan giữa tình trạng 
gãy xương đốt sống  với  giới  (OR=2,74,  1,03‐7,34,  p=0,039),tiền  sử  dùng  corticosteroid  (OR=8,05,  3,05‐21,2, 
p=0,000), tiền sử té ngã (OR=1,41), tiền sử gãy xương sau 50 tuổi (OR=2,63), số lần sinh con. Tuy nhiên chưa 
thấy được mối liên quan giữa nhẹ cân, hút thuốc lá, uống rượu, mãn kinh sớm với tình trạng gãy xương đốt 
sống  
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy rằng tỉ lệ GXĐS ở người cao tuổi có giảm mật độ xương là 
khá cao và có mối liên quan giữa giới, tuổi, chỉ số T Score, tiền sử dùng corticosteroid, tiền sử gãy xương, tiền sử 
té ngã, số lần sinh con với tình trạng gãy xương đốt sống. 
Từ khóa: Gãy xương đốt sống, cao tuổi, giảm mật độ xương 

ABSTRACT 


PREVALENCE AND RISK FACTORS OF RADIOGRAPHIC VERTEBRAL FRACTURE  
IN THE ELDERLY WITH LOW BONE MINERAL DENSITY 
Nguyen Thai Hoa, Cao Thanh Ngoc, Nguyen Dinh Khoa  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 472 ‐ 478 
Objectives:  Vertebral fracture (VE) in the  elderly  with  low  bone  mineral  density  usually  had  no  specific 
symptoms.  The  aim  of  study  was  estimated  the  prevalence  of  radiographic  vertebral  fracture  and  investigate 
factors associated with this condition in the elderly.  
Methods: This cross sectional study was conducted in the rheumatology department, Cho Ray hospital from 
1 – 5/2013. Thoracic and lumbar spine radiographs were obtained, and vertebral fractures were evaluated using 
Genant’s semiquantitative method. Bone mineral sensity (BMD) were measured by dual X ray absorptiometry 
(DXA) and identified risk factors for vertebral fractures.  
Results:  A  total  96  respondents  were  recruited.  The  mean  age  was  73.4  ±  8  years  old  with  females 
constituted 77.1%. 87.6% had osteoporosis and 12,4% had osteopenia. The prevalence of vertebral fracture was 
* Bệnh viện Chợ Rẫy ** Đại Học Y Dược TPHCM *** Bệnh viện Đại Học Y Dược Cần Thơ  
Tác giả liên lạc: Nguyễn Thái Hòa  
ĐT: 0908414060  Email:  

472

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

46.8%. However, the risk of fracture increased with advancing age, such that from the age 80+0.68% had at least 
one  VE.  In  constrast,  T  Score  reduced  in  the  fracture  patient.  The  most  common  type  of  fracture  were  wedge 
(68%) and compression (62%). Although fracture occurred in all vertebrae, most (28%) occurred at the T12‐L1. 
The model for vertebral fractures showed an association with sex (OR=2.74, 1.03‐7.34, p=0.039), corticosteroid 

intake (OR=8.05, 3.05‐21.2, p=0.000), fall history (OR=1.41), history of fracture after 50 years old (OR=2.63). 
There  was  no  significance  association  between  vertebral  farcture  and  smoking,  alcohol,  early  menopause, 
underweight.  
Conclusions: This study indicates that the prevalence of vertebral fractures is high in the elderly. Sex, age, 
T  Score,  corticosteroid  intake,  fall  history,  history  of  fracture  after  50  years  old  were  associated  with  vertebral 
fracture. 
Key words: Vertebral fracture, elderly, low bone mineral density 
.

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện  nay  xu  hướng  già  hóa  về  dân  số  nói 
chung đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cho xã hội 
nói  chung  và  ngành  y  tế  nói  riêng.  Theo  thống 
kê Ủy Ban Người Cao Tuổi Việt Nam đến năm 
2029 tỉ lệ người cao tuổi sẽ đạt 16,8% dân số.  
Một trong những hệ quả của lão là bộ xương 
cơ thể bị hao mòn theo thời gian dẫn đến tổn hại 
cấu trúc làm cho xương dễ gãy. Loãng xương là 
một  trong  những  bệnh  thường  hay  gặp  ở  phụ 
nữ sau mãn kinh và đàn ông sau 60 tuổi. Đây là 
bệnh  tiến  triển  âm  thầm  không  triệu  chứng 
nhưng đáng sợ vì hệ quả của nó là gãy xương 
Gãy  xương  đốt  sống  (GXĐS)  là  một  dạng 
phổ  biến  nhất  của  gãy  xương  do  loãng  xương, 
bệnh  thường  đi  kèm  với  các  triệu  chứng  như 
đau lưng mạn tính, nặng hơn là suy kiệt thể lực 
dẫn  đến  tàn  phế,  giảm  chất  lượng  sống.  Trong 
số  các  trường  hợp  GXĐS  chỉ  có  30%  BN  đến 
bệnh viện vì triệu chứng mà thôi. Cho nên việc 
xác  định  các  yếu  tố  liên  quan  đến  GXĐS  đóng 

một  vai  trò  rất  quan  trọng  nhằm  sàng  lọc  ra 
được  những  trường  hợp  có  nguy  cơ  cao  GXĐS 
từ  đó  có  thể  chẩn  đoán,  dự  phòng  và  điều  trị 
sớm  với  mục  tiêu  giảm  thiểu  những  di  chứng 
trầm  trọng  do  gãy  xương  gây  nên,  đặc  biệt  là 
trên những người cao tuổi.  
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về gãy xương 
đốt  sống  vẫn  còn  khá  ít  và  trong  đó  chưa  có 
nghiên cứu nào được thực hiện trên BN cao tuổi. 
Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi nhằm khảo sát 

Chấn Thương Chỉnh Hình 

tỉ lệ gãy xương đốt sống và các yếu tố liên quan 
trên những BN này.  

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
‐ Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích, 
thực hiện trên 96 BN cao tuổi đang nhập viện tại 
khoa nội cơ‐xương‐khớp bệnh viện Chợ Rẫy từ 
tháng  1‐5/2013,  và  được  chẩn  đoán  xác  định 
giảm mật độ xương. 
‐  Tiêu  chuẩn  loại  trừ:  BN  đang  có  các  bệnh 
nguy kịch hoặc không thể trả lời những câu hỏi. 
‐ Quy trình lấy mẫu:  
+ Bước 1: BN cao tuổi có giảm mật độ xương 
đang  nhập  viện  tại  khoa  cơ  xương  khớp  bệnh 
viện Chợ Rẫy. 
+ Bước 2: Giải thích với BN về lý do nghiên 
cứu,  nếu  được  sự  đồng  ý  chúng  tôi  cho  BN  ký 

vào giấy tình nguyện tham gia nghiên cứu. 
+  Bước  3:  Chụp  x  quang  đốt  sống  ngực  và 
đốt sống thắt lưng. 
+ Bước 4: Tiến hành phỏng vấn các đặc điểm 
về nhân khẩu xã hội, bệnh học, lối sống.  
‐  Số  liệu  được  trình  bày  dưới  dạng  trung 
bình ± độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ 
nhất, tần số, tỉ lệ phần trăm. Các phép kiểm Chi 
bình  phương,  Fisher’s  exact,  t‐test,  hồi  quy 
logistic  đa  biến.  P  <  0,05  được  xem  là  sự  khác 
biệt có ý nghĩa thống kê. Số liệu được xử lý bằng 
phần mềm SPSS 16.0. 

KẾT QUẢ  

473


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

Trong  5  tháng  thực  hiện,  có  96  BN  gồm  74 
nữ  và  22  nam.  Đặc  điểm  các  đối  tượng  nghiên 
cứu được mô tả trong bảng 1. Tuổi trung bình là 
73,4 ± 8, trong các yếu tố liên quan tiền sử dùng 
corticosteroid  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  với  32,4%  và 
thấp nhất là uống rượu chỉ với 7,6%.  
Có 84 (87,6%) BN loãng xương (biểu đồ 1) và 
45  (46,8%)  BN  gãy  xương  đốt  sống  (biểu  đồ  2), 

trong đó gặp nhiều nhất là gãy cùng lúc cả đốt 
sống ngực và thắt lưng với 48%. 
Trong bảng 2: gãy bờ và gãy lõm là hai loại 
gãy  xương  đốt  sống  thường  gặp  nhất  ở  người 
cao  tuổi  có  giảm  mật  độ  xương.  Phần  lớn  các 
trường  hợp  GXĐS  rơi  vào  vị  trí  vùng  chuyển 
tiếp giữa ngực và thắt lưng, có đến 14 lượt gãy ở 
T12 và 12 lượt gãy ở L1.  
Về mối liên quan giữa tình trạng gãy xương 
đốt sống với các yếu tố được thể hiện trong bảng 
3 và 4. Ở nhóm GXĐS có tuổi cao hơn, sinh con 
nhiều  hơn  và  chỉ  số  T  Score  thấp  hơn  so  với 
nhóm không GX. Về giới cũng nhận thấy nguy 
cơ  gãy  xương  ở  nữ  cao  hơn  nam  gấp  2,74  lần 
(OR=2,74; 1,03‐7,34; p=0,044).  

Tuổi, năm (TB ± ĐLC)
Giới

Nam
Nữ

Tần suất (%)

Gãy bờ
Gãy lún
Gãy lỏm

68
62

30

Bảng 3: Mối liên quan giữa tuổi, chỉ số T Score, số 
lần sinh con với tình trạng gãy xương đốt sống 
Biến số

GX

Không GX

P
0,001

Tuổi

76 ± 7,5

71 ± 7,7

T score CXĐ

-3,5 ± 1

-2,7 ± 1,2

0,000

T score CSTL

-4 ± 0,9


-3,1 ± 1,3

0,000

Số con

6,7 ± 3,4

5,3 ± 2,7

0,021

Bảng 4: Mối liên quan giữa giới, chỉ số nhân trắc, 
bệnh học, lối sống với tình trạng GXĐS  
Biến số



Không

P

Giới

Nữ (53,1%)

Nam (29,2%)

0,04


TS
corticosteroid

24 (79,4%)

21 (32,4%)

0,000

TS té ngã

15 (69,2%)

30 (40,5%)

0,011
0,006

13 (75%)

32 (41,2%)

Nhẹ cân

12 (60,9%)

33 (43,9%)

0,15


73,4 ± 8

Mãn kinh sớm

9 (54,5%)

37 (46,2%)

0,703

22 (22,9)

Hút thuốc lá

2 (25%)

43 (50,5%)

0,128

74 (77,1)

Uống rượu

1 (25%)

44 (49,5%)

0,274


BÀN LUẬN 



32,4

TS té ngã

Không


67.6
22,9

TS gãy xương

Không


77,1
19

Nhẹ cân

Không


81
21,9


Hút thuốc lá

Không


78,1
11,4

Uống rượu

Không


88,6
7,6

Không

92,4



15,9

Không

84,1

Những  bệnh  nhân  có  tiền  sử  dùng 

corticosteroid  nguy  cơ  GXĐS  cao  gấp  8,05  lần 
(OR=8,05;3,05‐21,2;p=0,000).  Cũng  ghi  nhận 

474

Đặc điểm

TS gãy xương

TS dùng corticosteroid

Mãn kinh sớm

Bảng 2: Đặc điểm gãy xương đốt sống  

Tần số (%) N=96

Bảng 1: Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
Đặc điểm

được  mối  liên  quan  giữa  BN  có  tiền  sử  té  ngã, 
tiền sử đã gãy xương, số lần sinh con với GXĐS. 
Tuy  nhiên  chưa  thấy  được  mối  liên  quan  giữa 
tình  trạng  mãn  kinh  sớm,  hút  thuốc  lá,  uống 
rượu.  

Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng 
tôi cao hơn so với các nghiên cứu khác về loãng 
xương(2,16), điều này có thể do sự khác biệt về nơi 
lấy mẫu và cách chọn mẫu. Về giới, tỉ lệ BN nữ 

trong nghiên cứu cao hơn hẳn so với nam (tỉ lệ 
nữ/nam là 3,3/1). Theo y văn, nữ giới có tần suất 
mắc  bệnh  cao  hơn  nam  giới,  các  nghiên  cứu 
khác cũng có kết quả tương tự(2,16).  
Trong  số  các  yếu  tố  được  khảo  sát  tiền  sử 
dùng corticosteroid chiếm tỉ lệ cao nhất (32,4%), 
corticosteroid  ảnh  hưởng  lên  xương  bè  nhiều 
hơn vỏ xương như: xương đốt sống, xương sườn 
và đầu xương dài. Cho đến nay không có liều an 
toàn đối với nguy cơ loãng xương cũng như gãy 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

xương  cho  dù  dùng  liều  5mg  hay  đường  khí 
dung, do đó nguy mất xương và gãy xương tăng 
theo  liều(17),  các  tài  liệu(1,2)  cho  rằng  tiền  sử 
corticosteroid là một yếu tố nguy cơ quan trọng 
của GXĐS.  

tính  giả  cao  hơn(12)  điều  này  lý  giải  nghiên  cứu 
chúng tôi tỉ lệ gãy xương cao hơn do nghiên cứu 
của  A.W.L  KWOK(6)  dùng  phương  pháp  định 
lượng  thường  được  dùng  nhiều  trong  các 
 
nghiên cứu vể dịch tể học.  


Bảng 5: So sánh tỉ lệ GXĐS giữa các nghiên cứu 

Kết quả của chúng tôi cho thấy gãy bờ (68%) 
và  gãy  lún  (62%)  là  hai  dạng  gãy  xương  đốt 
sống thường gặp nhất ở người cao tuổi có giảm 
mật độ xương và thấp nhất là gãy lõm (30%), tác 
giả Hồ  Phạm Thục Lan  (3)  với  nghiên  cứu  khảo 
sát  quy  mô  gãy  xương  đốt  sống  ở  người  Việt 
Nam  2011  tại  Thành  Phố  Hồ  Chí  Minh  bằng 
phương  pháp  định  lượng  cũng  cho  kết  quả 
tương tự.  

Tác giả

GXĐS
chung

Minh Châu(15)
(6)

A.W.L KWOK

GXĐS
ngực

GXĐS
lưng

37,6 %


27,3 %

52,5 %

43 %

48,8 %

46,8 %

28 %

24 %

33,3 %

(19)

Hongwei Wang
Chúng tôi

Kết  quả  nghiên  cứu  dịch  tể  học  về  gãy 
xương  đốt  sống  ở  người  cao  tuổi  tại  hai  bệnh 
viện  trường  đại  học  ở  Trùng  Khánh  –  Trung 
Quốc năm 2012 của tác giả Hongwei Wang và cs 
(19) cho thấy tỷ lệ gãy xương đốt sống thắt lưng là 
48,8%, gãy đốt sống ngực là 43% cao hơn nghiên 
cứu của chúng tôi do thời gian thực hiện tới 10 
năm  (2001  đến  2011)  và  lấy  tất  cả  những  bệnh 

nhân  gãy  xương  do  chấn  thương  chứ  không 
riêng  cho  bệnh  nhân  cao  tuổi  gãy  xương  do 
loãng  xương.  Nghiên  cứu  Trần  Hoàng  Minh 
Châu  (15)  năm  2009  thực  hiện  tại  Quận  Gò  Vấp 
cho  thấy  tỉ  lệ  gãy  xương  đốt  sống  là  33%  thấp 
hơn chúng tôi vì thực hiện ở người trên 50 tuổi, 
tuổi trung bình 63,2.  
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  tỉ  lệ  gãy  xương 
gần  tương  đương  với  Nhật  Bản  (37,6%)  nhưng 
cao  hơn  so  với  ba  nước  Hong  Kong  (18%), 
Indonesia (20%), Thailand (24,5%) khi so sánh tỉ 
lệ gãy xương đốt sống của bốn  nước  năm  2012 
của tác giả A.W.L KWOK và cs(6). Cho đến  nay 
chưa có một “tiêu chuẩn vàng” nào để xác định 
là  gãy  xương  đốt  sống  cả  vì  vậy  mà  số  liệu  về 
tần suất lưu hành và tỉ lệ mới mắc của người cao 
tuổi  dao  động  khá  lớn.  Mức  dao  động  lớn  này 
không  những  phụ  thuộc  vào  sự  khác  biệt  giữa 
các vùng địa lý, các vùng kinh tế sinh thái khác 
nhau  mà  còn  phụ  thuộc  định  nghĩa  thế  nào  là 
gãy  xương  đốt  sống.  Hiện  nay  chẩn  đoán  gãy 
xương đốt sống có thể bằng phương pháp định 
lượng  và  phương  pháp  bán  định  lượng  tuy 
nhiên phương pháp bán định lượng tỷ lệ dương 

Chấn Thương Chỉnh Hình 

Tần suất gãy đốt sống tập trung cao nhất ở 
vùng nối ngực – thắt lưng. Đốt sống T12 và L1 bị 
gãy nhiều nhất khi có đến 14 và 12 lượt gãy. Đây 

là nơi chuyển tiếp từ cột sống ngực có độ còng 
(Cyphosis)  và  cột  sống  lưng  có  độ  ưỡn 
(Lordosis),  cột  sống  ngực  cứng  nhắc  do  có 
khung sườn và cột sống thắt lưng có độ cử động 
tự do. Hơn nữa khi có một lực tác động vào thì 
lực  này  thường  rơi  vào  vùng  T12  và  L1(11). 
Nghiên cứu của Hongwei Wang(19) cũng cho kết 
quả  tương  tự.  Tác  giả  Hồ  Phạm  Thục  Lan  khi 
khảo sát xương đốt sống ở người Việt Nam thấy 
rằng  chiều  cao  đốt  sống  từ  T10  đến  L5  có 
khuynh  hướng  giảm  dần  theo  thời  gian  nên  ở 
người cao tuổi tỉ lệ gãy đốt sống lưng cao hơn so 
với gãy đốt sống ngực. 

Mối liên quan giữa các yếu tố chỉ số nhân 
trắc, bệnh học, lối sống  với tình  trạng  gãy 
xương đốt sống 
Tuổi 
Là  yếu  tố  nguy  cơ  cao  của  gãy  xương  đốt 
sống(6,7).  Kết  quả  chúng  tôi  cho  thấy  tuổi  trung 
bình  của  nhóm  gãy  xương  76  (SD=7,5)  cao  hơn 
nhóm không gãy xương 71 (SD=7,7) (p=0,001). Tỉ 
lệ  gãy  xương  tăng  theo  tuổi  bất  kể  giới  tính, 
vùng địa dư, chủng tộc và thật vậy trong nghiên 
cứu này tỉ lệ gãy xương đốt sống ở nhóm trên 80 
tuổi chiếm cao nhất là 68% và sự khác biệt có ý 
nghĩa giữa các nhóm tuổi. Các tác giả Hồ Phạm 

475



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Thục  Lan(8,3),  Hongwei  Wang(19)  đều  có  cùng 
nhận xét. 

Giới 
Nữ  có  39  trường  hợp  gãy  xương  đốt  sống 
chiếm tỉ lệ 53,1% trong khi nam giới là 6 trường 
hợp chiếm 29,2%. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi  cho  thấy  tỉ  lệ  gãy  xương  đốt  sống  ở  nữ  cao 
hơn so với nam giới, cụ thể nữ  có nguy cơ gãy 
xương  đốt  sống  cao  gấp  2,74  lần  so  với  nam 
(p=0,044).  Nhiều  nghiên  cứu  cho  thấy  giới  nữ, 
đặc biệt là sau mãn kinh tỉ lệ gãy xương cao hơn 
nam(15,8), có thể do tình trạng thiếu hụt Estrogen 
sau tuổi mãn kinh(8) dẫn đến mất cân bằng giữa 
hai  quá  trình  tạo  xương  và  hủy  xương,  thiếu 
Estrogen  xương  trở  nên  xốp,  dòn  và  dễ  gãy. 
Ngoài ra khung xương của nữ nhỏ hơn  [14], phải 
sinh con, cho con bú, ít vận động nên nguy cơ dễ 
gãy xương hơn (12). 
Nhẹ cân 
Tỉ  lệ  gãy  xương  đốt  sống  ở  những  bệnh 
nhân nhẹ cân (60,9%) cao hơn bệnh nhân không 
nhẹ cân (43,9%), tuy nhiên sự khác biệt này chưa 
có ý nghĩa (p=0,15). Mặc dù các tài liệu đều cho 
rằng  mô  gầy  và  mô  mỡ  là  một  yếu  tố  nguy  cơ 

quan  trọng  đối  với  mật  độ  xương.  Mô  mỡ 
chuyển hóa tạo ra Estradiol kích thích quá trình 
tạo  xương  và  ức  chế  quá  trình  hủy  xương  mà 
phụ nữ  loãng xương và người cao tuổi lại có ít 
mô mỡ nên tăng nguy cơ gãy xương. Nam giới 
mật  độ  xương  liên  quan  tới  mô  gầy  do 
Testostrone  kích  thích  mô  cơ  và  mô  xương. 
Người  có  khối  lượng  mỡ  nhiều  và  BMI  cao,  có 
mật  độ  phân  bố  mỡ  ở  các  vùng  cơ  thể  nhiều 
nhất là vùng hông, chúng có vai trò là chiếc gối 
đệm  bảo  vệ  xương  đặc  biệt  là  đầu  trên  xương 
đùi  làm  giảm  hoặc  triệt  tiêu  lực  va  chạm  nên 
giảm nguy cơ gãy xương khi té ngã và ngược lại 
người  có  BMI  thấp  tăng  nguy  cơ  gãy  xương(12). 
Thật vậy, trong một nghiên cứu  của  Viện  Dinh 
Dưỡng nguy cơ gãy xương tăng 4,8 lần đối với 
người nhẹ cân(10). 
Chỉ số T Score 
Các nghiên cứu đều cho thấy mật độ khoáng 

476

xương  thấp  đều  liên  quan  đến  nguy  cơ  gãy 
xương,(1,15),  những  người  phụ  nữ  có  mật  độ 
xương  thấp  đo  bất  kỳ  ở  xương  nào  là  yếu  tố 
nguy  cơ  độc  lập  đối  với  một  ca  gãy  đốt  sống 
mới. Kết quả của chúng tôi cho thấy có mối liên 
quan  có  ý  nghĩa  giữa  chỉ  số  T  Score  với  tình 
trạng gãy xương đốt sống, cụ thể T Score trung 
bình đo tại vùng cột sống thắt lưng và cổ xương 

đùi  ở  nhóm  gãy  xương  đều  thấp  hơn  nhóm 
không gãy xương (p=0,000). 

Tiền sử dùng corticosteroid 
Tỉ  lệ  BN  có  tiền  sử  dùng  corticosteroid  cao 
nhất  với  32,4%  và  có  mối  liên  quan  với  tình 
trạng gãy xương đốt sống (p=0,000). Những BN 
dùng corticosteroid nguy cơ gãy xương đốt sống 
tăng  gấp  8,05  lần  (OR  =  8,05;  3,05  –  21,2; 
P=0,000).  Kết  quả  này  phù  hơp  với  y  văn, 
corticosteroid  ảnh  hưởng  lên  xương  bè,  tốc  độ 
mất  xương  rất  nhanh:  đến  20%  khối  lượng 
xương  trong  năm  đầu(1),  do  tác  động  bè  xương 
nhiều  hơn  vỏ  xương  do  đó  gãy  xương  nhiều 
nhất  là  xương  đốt  sống,  xương  sườn  và  đầu 
xương dài. 
Tiền sử té ngã 
Kết quả của chúng tôi có 22,9 % BN có tiền 
sử té ngã, và đây cũng là một yếu tố liên quan 
với tình trạng gãy xương đốt sống. Tỉ lệ GXĐS 
ở  BN  có  tiền  sử  té  ngã  (69,2%)  cao  hơn  BN 
không có  tiền  sử  té  ngã  (40,5%)  (p  =  0,011).  Ở 
người cao tuổi còn có nhiều nguy cơ té ngã do 
sức  cơ  giảm  nên  đi  không  vững,  kiểm  soát  tư 
thế kém, thường kèm theo các bệnh lý kết hợp: 
tụt  huyết  áp,  loạn  nhịp  tim,  Parkinson,  giảm 
thị lực(4)… Sự thiếu hụt về thần kinh được tìm 
thấy  trong  khoảng  24,7%‐52,2%  các  trường 
hợp  GXĐS(9),  Hongwei  Wang  (19)  ghi  nhận  là 
18,7% ở người cao tuổi. 

Tiền sử gãy xương 
Đứng  thứ  ba  (19%)  sau  tiền  sử  dùng 
corticosteroid  và  tiền  sử  té  ngã.  Có  mối  liên 
quan  giữa  tiền  sử  gãy  xương  với  tình  trạng 
gãy xương đốt sống, Cụ thể tỉ lệ GXĐS ở bệnh 
nhân  có  tiền  sử  gãy  xương  (75%)  cao  hơn  BN 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
không có tiền sử gãy xương (41,2%) (p=0,006). 
Tác  giả  A.  W.  L.  Kwok(7)  cũng  cho  kết  luận 
tương tự nghiên cứu chúng tôi. 

Hút thuốc lá 
Thuốc  lá  là  yếu  tố  nguy  cơ  cho  các  bệnh  lý 
hô hấp và tim mạch, ngoài ra nó ảnh hưởng đến 
nhiều bệnh lý trong đó có cả loãng xương và gãy 
xương(5).  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cho  thấy 
không có mối liên quan giữa hút thuốc lá và tình 
trạng  gãy  xương  đốt  sống  (p=0,128). 
A.W.L.Kowk  (6) cũng ghi nhận như thế. Kết quả 
chúng tôi tương tự tác giả Minh Châu(15) đều cho 
thấy chưa có mối liên quan có ý nghĩa giữa hút 
thuốc lá và gãy xương. Điều này có thể lý giải do 
các đối tượng hút thuốc lá là nam giới, chiếm tỉ 
lệ  rất  thấp  và  ít  gãy  xương  hơn  nữ.  Đồng  thời 
những  BN  cao  tuổi,  thường  kèm  các  bệnh  lý 
phối hợp như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối 

loạn lipid máu... nên thường được các bác sĩ tư 
vấn bỏ thuốc lá. 
Uống rượu 
Cũng  như  hút  thuốc  lá  chúng  tôi  chưa  tìm 
thấy  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  giữa  uống  rượu 
và  nguy  cơ  gãy  xương  (p=0,274),  tác  giả 
A.W.L.Kowk(6) cũng cho kết luận tương tự. Điều 
này có thể lý giải tuy một số người có thói quen 
uống  rượu  nhưng  số  lượng  rất  ít,  chủ  yếu  là 
nam  mà  nghiên  cứu  chúng  tôi  đa  phần  là  nữ 
giới  (771,%)  và  người  cao  tuổi  thường  ý  thức 
được  vấn  đề  sức  khỏe  bản  thân  vì  uống  rượu 
không tốt cho sức khỏe. 
Mãn kinh sớm 
Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy tỉ lệ 
gãy xương đốt sống ở phụ nữ mãn kinh sớm cao 
hơn so với phụ nữ mãn kinh bình thường nhưng 
chưa  ghi  nhận  được  mối  liên  quan  giữa  mãn 
kinh sớm và tình trạng gãy xương đốt sống (p = 
0,703). Mặc dù nhiều nghiên cứu cho rằng mãn 
kinh  sớm  là  yếu  tố  nguy  cơ  của  gãy  xương, 
những người mãn kinh sau 45 tuổi ít có nguy cơ 
gãy  xương  đốt  sống  (13).  Sau  mãn  kinh  nồng  độ 
Estrogen giảm, kích thích hoạt động hủy cốt bào, 
tăng  quá  trình  hủy  xương  gây  mất  xương 

Chấn Thương Chỉnh Hình 

Nghiên cứu Y học


khoảng  20%  ‐30%  ở  xương  xốp  và  5%  ‐  10%  ở 
xương đặc trong giai đoạn đầu của thời kỳ sau 
mãn kinh, ngoài ra do tăng hủy xương nên tăng 
nồng  độ  canxi  trong  máu,  giảm  tiết  PTH  và 
giảm  calcitriol  làm  giảm  hấp  thu  canxi  tại  ruột 
nên  xương  thiếu  nguyên  liệu,  dễ  gãy  xương 
hơn(12). 

Số lần sinh con 
Do đối tượng nghiên cứu là người cao tuổi, 
sống  đa  số  ở  nông  thôn  nên  sinh  con  nhiều 
(trung bình là 6, cao nhất lên đến 14 người). Số 
con  trung  bình  của  nhóm  có  gãy  xương  (6,7  ± 
3,4) cao hơn nhóm không gãy xương (5,3 ± 2,7) 
và sự khác biệt có ý nghĩa (p=0,021). Người phụ 
nữ  trong  lúc  mang  thai  có  tập  quán  ăn  kiêng, 
sau  sinh  ít  vận  động,  nằm  trong  buồng  tối 
không có ánh sáng mặt trời, ăn thiếu chất, thiếu 
canxi  cũng  là  một  yếu  tố  nguy  cơ  loãng  xương 
và  gãy  xương.  Nghiên  cứu  của  Vũ  Thị  Thanh 
Thủy(18)  cũng  cho  rằng  sinh  trên  4  lần  cũng  là 
một  yếu  tố  nguy  cơ  liên  quan  đến  xẹp  lún  đốt 
sống. 

KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 96 BN cao tuổi đến khám tại 
phòng  khám  Nội  Cơ‐xương‐khớp  bệnh  viện 
Chợ Rẫy chúng tôi rút ra được kết luận sau 

Tỉ lệ loãng xương 

Tỉ  lệ  loãng  xương  ở  bệnh  nhân  cao  tuổi  có 
giảm mật độ xương là 87,6% và tỉ lệ gãy xương 
đốt sống: 46,8% 

Đặc điểm gãy xương đốt sống 
Gãy hai vị trí ngực và thắt lưng: 48%. 
Kiểu  GXĐS  thường  gặp  nhất:  gãy  bờ  (68%) 
và gãy lún (62%). 
Đốt  sống  thường  bị  gãy:  T12  và  L1  chiếm 
31% các trường hợp gãy xương. 

Các yếu tố liên quan đến GXĐS 
Tuổi 

Tuổi  càng  cao  tỉ  lệ  GXĐS  càng  tăng, 
các nhóm tuổi 60‐69, 70‐79 và trên 80 tuổi có 
tỉ lệ GXĐS lần lượt là 33%; 48%; 68%. 
477


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Giới 
Tỉ  lệ  GXĐS  ở  nữ  giới  (53,1%)  cao  hơn  nam 
giới (29,2%).  
Chỉ số T Score 
Bệnh  nhân  gãy  xương  đốt  sống  có  chỉ  số  T 
Score trung bình đo tại vùng cột sống thắt lưng 

và  đo  tại  cổ  xương  thấp  hơn  bệnh  nhân  không 
gãy xương 
Tiền sử dùng corticosteroid 
Tỉ  lệ  GXĐS  ở  BN  có  tiền  sử  dùng 
corticosteroid (79,4%) cao hơn BN không có tiền 
sử dùng corticosteroid (32,4%). 
Tiền sử té ngã 
Tỉ  lệ  GXĐS  ở  BN  có  tiền  sử  té  ngã  (69,2%) 
cao hơn BN không có tiền sử té ngã (40,5%). 
Tiền sử gãy xương 
Tỉ lệ GXĐS ở BN có tiền sử gãy xương (75%) 
cao hơn BN không có tiền sử gãy xương (41,2%). 
Số lần sinh con 
BN GXĐS có số con trung bình (6,7) cao hơn 
BN không GXĐS (5,3). 

8.

9.
10.

11.

12.

13.

14.

15.


16.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

3.
4.
5.
6.

7.

478

Bartl R. (2009), Osteoporosis: Dianogsis, Prevention, Therapy, 
Springer‐Berlin. 
Bùi  Văn  Đức,  Nguyễn  Văn  Tín  (2009),  ʺKhảo  sát  tỉ  lệ  loãng 
xương và các yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân bằng hoặc trên 
50 tuổi tại bệnh viện đa khoa khu vực Cái Nước ‐ Cà Mauʺ. Y 
học thực hành, 687(11), tr. 57‐60. 
Hồ Phạm Thục Lan (2011),  ʺQuy  mô  gãy  xương  đốt  sống  ở 
người Việtʺ. Thời sự y học, 63, tr.11‐16. 
Jerry  L.  (2004),  ʺVertebral  Compression  Fractures  in  the 
Elderlyʺ. American Family Physician, 69(1), 111‐116. 
Kanis  JA,  Johnell  O  (2005),  ʺSmoking  and  fracture  riskʺ. 
Osteoporisis Int, 16, 155‐162 
Kwok.  AWL,  Leung  JCS,  Chan  AYH  (2012),  ʺPrevalence  of 
vertebral  fracture  in  Asian  men  and  women:  Comparison 

between Hong Kong, Thailand, Indonesia and Japanʺ. Public 
Health. 
Kwok  AWL,  Gong  JS  (2013),  ʺPrevalence  and  risk  factors  of 
 

17.

18.

19.

radiographic  vertebral  fractures  in  elderly  Chinese  men  and 
women:  results  of  Mr.  OS  (Hong  Kong)  and  Ms.  OS  (Hong 
Kong) studiesʺ. Osteoporisis Int, 24, 877‐885 
Lan  TH,  Nguyen  DN  (2009),  ʺPrevalence  and  risk  factors  of 
radiographic  vertebral  fracture  in  postmenopausal 
Vietnamese womenʺ. Bone, 45, 213‐217. 
Leucht P, Fischer K (2009), ʺEpidemiology of traumatic spine 
fracturesʺ. Injury, 40(2), 166‐238 
Nguyễn Thi Kim Hưng (2003), ʺCanxi và dinh dưỡng phòng 
ngừa  loãng  xươngʺ.  Kỷ  yếu  các  báo  cáo  khoa  học  hội  nghị 
chuyên đề loãng xương và bệnh cột sống, TPHCM, tr. 21‐24. 
Nguyễn  Trọng  Tín  (2008),  ʺTình  hình  chấn  thương  cột  sống 
ngực ‐ thắt lưng tại bệnh viện chấn thương chỉnh hìnhʺ. Hội 
nghị  khoa  học  thường  niên  lần  thứ  XV  ‐  Hôi  chấn  thương 
chỉnh hình Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.269 – 275 
Nguyễn  Văn  Tuấn,  Nguyễn  Đình  Nguyên  (2007),  Loãng 
xương ‐ Nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị, phòng ngừa. Nhà 
xuất bản y học 
Paganini A, Atchison A (2005), ʺMenstrual and reproductive 

factors and fracture risk: the Leisure World Cohort Studyʺ. J 
Womens Health, 14(9), 808‐819 
Riggs  LB,  Melton  LJ  (2006),  ʺPopulation  ‐  Based  Analysis  of 
the  Relationship  of  Whole  Bone  Strength  Indices  and  Fall 
Related Loads to Age ‐ and Sex ‐ Specific Patterns of Hip and 
Wrist Fracturesʺ. J Bone Miner Res, 21, 315‐323. 
Trần Hoàng Minh Châu (2009), ʺTỷ lệ gãy xương và các yếu 
tố nguy cơ gãy xương liên quan với loãng xương ở người trên 
50 tuổi quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh sau 5 năm theo 
dõiʺ. luận văn chuyên khoa 2 – Đại học y dược thành phố Hồ 
Chí Minh. 
Trần Thị Uyên Linh (2011), ʺTỉ lệ loãng xương và các yếu tố 
nguy cơ ở phụ nữ mãn kinh và nam giới bằng hoặc trên 50 
tuổi  điều  trị  tại  khoa  Lão  bệnh  viện  Nhân  Dân  Gia  Địnhʺ. 
luận  văn  thạc  sĩ  y  học  –  Đại  học  y  dược  thành  phố  Hồ  Chí 
Minh. 
Van  TP,  Laan  RF  (2003),  ʺBone  density  threshold  and  other 
predicttors  of  vertebral  fracture  in  patients  receiving  oral 
glucocorticoids therapyʺ. Arthritis Rheum, 48, 3224‐3233. 
Vũ Thị Thanh Thủy, Trần Ngọc Ân (2003), ʺĐánh giá nguy cơ 
loãng xương sau mãn kinh ở Việt Namʺ. Tạp chí y học, tr. 75‐
82. 
Wang  H,  Li  C,  Xiang  Q  (2012),  ʺEpidemiology  of  spinal 
fractures  among  the  elderly  in  Chongqing,  Chinaʺ.  J  Care 
Injury 

 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 


Chuyên Đề Ngoại Khoa 



×