Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
KHẢO SÁT TỈ LỆ GÃY XƯƠNG ĐỐT SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ
LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI GIẢM MẬT ĐỘ XƯƠNG
Nguyễn Thái Hòa***, Cao Thanh Ngọc**, Nguyễn Đình Khoa*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Gãy xương đốt sống (GXĐS) ở người cao tuổi có giảm mật độ xương thường không có triệu
chứng. Mục tiêu của nghiên cứu này là để khảo sát tỉ lệ gãy xương đốt sống ở người cao tuổi và tìm hiểu các yếu
tố liên quan đến tình trạng gãy xương đốt sống.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại khoa nội cơ xương
khớp bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian từ tháng 1 – 5/2013, khảo sát gãy xương đốt sống ngực và thắt
lưng. Chẩn đoán gãy xương đốt sống bằng phương pháp Genant’s, mật độ xương được đo bằng DXA và tìm
hiều các yếu tố liên quan đến gãy xương đốt sống.
Kết quả: Có 96 bệnh nhân (BN) được đưa vào trong thời gian nghiên cứu. Độ tuổi trung bình là 73,4 ± 8,
nữ chiếm 77,1%. 87,6% BN loãng xương, 12,4% BN thiếu xương. Tỉ lệ gãy xương đốt sống là 46,8%. Tuy
nhiên gãy xương đốt sống tăng theo tuổi và cao nhất ở nhóm đối tượng trên 80 tuổi với 68%. Ngược lại chỉ số T
Score giảm ở BN có gãy xương. Gãy bờ (68%) và gãy lún (62%) là hai kiểu gãy thường gặp nhất. Tần suất gãy
xương tập trung vào vùng nối giữa ngực và thắt lưng (T12 và L1) với 28%. Có mối liên quan giữa tình trạng
gãy xương đốt sống với giới (OR=2,74, 1,03‐7,34, p=0,039),tiền sử dùng corticosteroid (OR=8,05, 3,05‐21,2,
p=0,000), tiền sử té ngã (OR=1,41), tiền sử gãy xương sau 50 tuổi (OR=2,63), số lần sinh con. Tuy nhiên chưa
thấy được mối liên quan giữa nhẹ cân, hút thuốc lá, uống rượu, mãn kinh sớm với tình trạng gãy xương đốt
sống
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy rằng tỉ lệ GXĐS ở người cao tuổi có giảm mật độ xương là
khá cao và có mối liên quan giữa giới, tuổi, chỉ số T Score, tiền sử dùng corticosteroid, tiền sử gãy xương, tiền sử
té ngã, số lần sinh con với tình trạng gãy xương đốt sống.
Từ khóa: Gãy xương đốt sống, cao tuổi, giảm mật độ xương
ABSTRACT
PREVALENCE AND RISK FACTORS OF RADIOGRAPHIC VERTEBRAL FRACTURE
IN THE ELDERLY WITH LOW BONE MINERAL DENSITY
Nguyen Thai Hoa, Cao Thanh Ngoc, Nguyen Dinh Khoa
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 472 ‐ 478
Objectives: Vertebral fracture (VE) in the elderly with low bone mineral density usually had no specific
symptoms. The aim of study was estimated the prevalence of radiographic vertebral fracture and investigate
factors associated with this condition in the elderly.
Methods: This cross sectional study was conducted in the rheumatology department, Cho Ray hospital from
1 – 5/2013. Thoracic and lumbar spine radiographs were obtained, and vertebral fractures were evaluated using
Genant’s semiquantitative method. Bone mineral sensity (BMD) were measured by dual X ray absorptiometry
(DXA) and identified risk factors for vertebral fractures.
Results: A total 96 respondents were recruited. The mean age was 73.4 ± 8 years old with females
constituted 77.1%. 87.6% had osteoporosis and 12,4% had osteopenia. The prevalence of vertebral fracture was
* Bệnh viện Chợ Rẫy ** Đại Học Y Dược TPHCM *** Bệnh viện Đại Học Y Dược Cần Thơ
Tác giả liên lạc: Nguyễn Thái Hòa
ĐT: 0908414060 Email:
472
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
46.8%. However, the risk of fracture increased with advancing age, such that from the age 80+0.68% had at least
one VE. In constrast, T Score reduced in the fracture patient. The most common type of fracture were wedge
(68%) and compression (62%). Although fracture occurred in all vertebrae, most (28%) occurred at the T12‐L1.
The model for vertebral fractures showed an association with sex (OR=2.74, 1.03‐7.34, p=0.039), corticosteroid
intake (OR=8.05, 3.05‐21.2, p=0.000), fall history (OR=1.41), history of fracture after 50 years old (OR=2.63).
There was no significance association between vertebral farcture and smoking, alcohol, early menopause,
underweight.
Conclusions: This study indicates that the prevalence of vertebral fractures is high in the elderly. Sex, age,
T Score, corticosteroid intake, fall history, history of fracture after 50 years old were associated with vertebral
fracture.
Key words: Vertebral fracture, elderly, low bone mineral density
.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay xu hướng già hóa về dân số nói
chung đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cho xã hội
nói chung và ngành y tế nói riêng. Theo thống
kê Ủy Ban Người Cao Tuổi Việt Nam đến năm
2029 tỉ lệ người cao tuổi sẽ đạt 16,8% dân số.
Một trong những hệ quả của lão là bộ xương
cơ thể bị hao mòn theo thời gian dẫn đến tổn hại
cấu trúc làm cho xương dễ gãy. Loãng xương là
một trong những bệnh thường hay gặp ở phụ
nữ sau mãn kinh và đàn ông sau 60 tuổi. Đây là
bệnh tiến triển âm thầm không triệu chứng
nhưng đáng sợ vì hệ quả của nó là gãy xương
Gãy xương đốt sống (GXĐS) là một dạng
phổ biến nhất của gãy xương do loãng xương,
bệnh thường đi kèm với các triệu chứng như
đau lưng mạn tính, nặng hơn là suy kiệt thể lực
dẫn đến tàn phế, giảm chất lượng sống. Trong
số các trường hợp GXĐS chỉ có 30% BN đến
bệnh viện vì triệu chứng mà thôi. Cho nên việc
xác định các yếu tố liên quan đến GXĐS đóng
một vai trò rất quan trọng nhằm sàng lọc ra
được những trường hợp có nguy cơ cao GXĐS
từ đó có thể chẩn đoán, dự phòng và điều trị
sớm với mục tiêu giảm thiểu những di chứng
trầm trọng do gãy xương gây nên, đặc biệt là
trên những người cao tuổi.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về gãy xương
đốt sống vẫn còn khá ít và trong đó chưa có
nghiên cứu nào được thực hiện trên BN cao tuổi.
Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi nhằm khảo sát
Chấn Thương Chỉnh Hình
tỉ lệ gãy xương đốt sống và các yếu tố liên quan
trên những BN này.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
‐ Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích,
thực hiện trên 96 BN cao tuổi đang nhập viện tại
khoa nội cơ‐xương‐khớp bệnh viện Chợ Rẫy từ
tháng 1‐5/2013, và được chẩn đoán xác định
giảm mật độ xương.
‐ Tiêu chuẩn loại trừ: BN đang có các bệnh
nguy kịch hoặc không thể trả lời những câu hỏi.
‐ Quy trình lấy mẫu:
+ Bước 1: BN cao tuổi có giảm mật độ xương
đang nhập viện tại khoa cơ xương khớp bệnh
viện Chợ Rẫy.
+ Bước 2: Giải thích với BN về lý do nghiên
cứu, nếu được sự đồng ý chúng tôi cho BN ký
vào giấy tình nguyện tham gia nghiên cứu.
+ Bước 3: Chụp x quang đốt sống ngực và
đốt sống thắt lưng.
+ Bước 4: Tiến hành phỏng vấn các đặc điểm
về nhân khẩu xã hội, bệnh học, lối sống.
‐ Số liệu được trình bày dưới dạng trung
bình ± độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ
nhất, tần số, tỉ lệ phần trăm. Các phép kiểm Chi
bình phương, Fisher’s exact, t‐test, hồi quy
logistic đa biến. P < 0,05 được xem là sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Số liệu được xử lý bằng
phần mềm SPSS 16.0.
KẾT QUẢ
473
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
Trong 5 tháng thực hiện, có 96 BN gồm 74
nữ và 22 nam. Đặc điểm các đối tượng nghiên
cứu được mô tả trong bảng 1. Tuổi trung bình là
73,4 ± 8, trong các yếu tố liên quan tiền sử dùng
corticosteroid chiếm tỉ lệ cao nhất với 32,4% và
thấp nhất là uống rượu chỉ với 7,6%.
Có 84 (87,6%) BN loãng xương (biểu đồ 1) và
45 (46,8%) BN gãy xương đốt sống (biểu đồ 2),
trong đó gặp nhiều nhất là gãy cùng lúc cả đốt
sống ngực và thắt lưng với 48%.
Trong bảng 2: gãy bờ và gãy lõm là hai loại
gãy xương đốt sống thường gặp nhất ở người
cao tuổi có giảm mật độ xương. Phần lớn các
trường hợp GXĐS rơi vào vị trí vùng chuyển
tiếp giữa ngực và thắt lưng, có đến 14 lượt gãy ở
T12 và 12 lượt gãy ở L1.
Về mối liên quan giữa tình trạng gãy xương
đốt sống với các yếu tố được thể hiện trong bảng
3 và 4. Ở nhóm GXĐS có tuổi cao hơn, sinh con
nhiều hơn và chỉ số T Score thấp hơn so với
nhóm không GX. Về giới cũng nhận thấy nguy
cơ gãy xương ở nữ cao hơn nam gấp 2,74 lần
(OR=2,74; 1,03‐7,34; p=0,044).
Tuổi, năm (TB ± ĐLC)
Giới
Nam
Nữ
Tần suất (%)
Gãy bờ
Gãy lún
Gãy lỏm
68
62
30
Bảng 3: Mối liên quan giữa tuổi, chỉ số T Score, số
lần sinh con với tình trạng gãy xương đốt sống
Biến số
GX
Không GX
P
0,001
Tuổi
76 ± 7,5
71 ± 7,7
T score CXĐ
-3,5 ± 1
-2,7 ± 1,2
0,000
T score CSTL
-4 ± 0,9
-3,1 ± 1,3
0,000
Số con
6,7 ± 3,4
5,3 ± 2,7
0,021
Bảng 4: Mối liên quan giữa giới, chỉ số nhân trắc,
bệnh học, lối sống với tình trạng GXĐS
Biến số
Có
Không
P
Giới
Nữ (53,1%)
Nam (29,2%)
0,04
TS
corticosteroid
24 (79,4%)
21 (32,4%)
0,000
TS té ngã
15 (69,2%)
30 (40,5%)
0,011
0,006
13 (75%)
32 (41,2%)
Nhẹ cân
12 (60,9%)
33 (43,9%)
0,15
73,4 ± 8
Mãn kinh sớm
9 (54,5%)
37 (46,2%)
0,703
22 (22,9)
Hút thuốc lá
2 (25%)
43 (50,5%)
0,128
74 (77,1)
Uống rượu
1 (25%)
44 (49,5%)
0,274
BÀN LUẬN
Có
32,4
TS té ngã
Không
Có
67.6
22,9
TS gãy xương
Không
Có
77,1
19
Nhẹ cân
Không
Có
81
21,9
Hút thuốc lá
Không
Có
78,1
11,4
Uống rượu
Không
Có
88,6
7,6
Không
92,4
Có
15,9
Không
84,1
Những bệnh nhân có tiền sử dùng
corticosteroid nguy cơ GXĐS cao gấp 8,05 lần
(OR=8,05;3,05‐21,2;p=0,000). Cũng ghi nhận
474
Đặc điểm
TS gãy xương
TS dùng corticosteroid
Mãn kinh sớm
Bảng 2: Đặc điểm gãy xương đốt sống
Tần số (%) N=96
Bảng 1: Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
được mối liên quan giữa BN có tiền sử té ngã,
tiền sử đã gãy xương, số lần sinh con với GXĐS.
Tuy nhiên chưa thấy được mối liên quan giữa
tình trạng mãn kinh sớm, hút thuốc lá, uống
rượu.
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng
tôi cao hơn so với các nghiên cứu khác về loãng
xương(2,16), điều này có thể do sự khác biệt về nơi
lấy mẫu và cách chọn mẫu. Về giới, tỉ lệ BN nữ
trong nghiên cứu cao hơn hẳn so với nam (tỉ lệ
nữ/nam là 3,3/1). Theo y văn, nữ giới có tần suất
mắc bệnh cao hơn nam giới, các nghiên cứu
khác cũng có kết quả tương tự(2,16).
Trong số các yếu tố được khảo sát tiền sử
dùng corticosteroid chiếm tỉ lệ cao nhất (32,4%),
corticosteroid ảnh hưởng lên xương bè nhiều
hơn vỏ xương như: xương đốt sống, xương sườn
và đầu xương dài. Cho đến nay không có liều an
toàn đối với nguy cơ loãng xương cũng như gãy
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
xương cho dù dùng liều 5mg hay đường khí
dung, do đó nguy mất xương và gãy xương tăng
theo liều(17), các tài liệu(1,2) cho rằng tiền sử
corticosteroid là một yếu tố nguy cơ quan trọng
của GXĐS.
tính giả cao hơn(12) điều này lý giải nghiên cứu
chúng tôi tỉ lệ gãy xương cao hơn do nghiên cứu
của A.W.L KWOK(6) dùng phương pháp định
lượng thường được dùng nhiều trong các
nghiên cứu vể dịch tể học.
Bảng 5: So sánh tỉ lệ GXĐS giữa các nghiên cứu
Kết quả của chúng tôi cho thấy gãy bờ (68%)
và gãy lún (62%) là hai dạng gãy xương đốt
sống thường gặp nhất ở người cao tuổi có giảm
mật độ xương và thấp nhất là gãy lõm (30%), tác
giả Hồ Phạm Thục Lan (3) với nghiên cứu khảo
sát quy mô gãy xương đốt sống ở người Việt
Nam 2011 tại Thành Phố Hồ Chí Minh bằng
phương pháp định lượng cũng cho kết quả
tương tự.
Tác giả
GXĐS
chung
Minh Châu(15)
(6)
A.W.L KWOK
GXĐS
ngực
GXĐS
lưng
37,6 %
27,3 %
52,5 %
43 %
48,8 %
46,8 %
28 %
24 %
33,3 %
(19)
Hongwei Wang
Chúng tôi
Kết quả nghiên cứu dịch tể học về gãy
xương đốt sống ở người cao tuổi tại hai bệnh
viện trường đại học ở Trùng Khánh – Trung
Quốc năm 2012 của tác giả Hongwei Wang và cs
(19) cho thấy tỷ lệ gãy xương đốt sống thắt lưng là
48,8%, gãy đốt sống ngực là 43% cao hơn nghiên
cứu của chúng tôi do thời gian thực hiện tới 10
năm (2001 đến 2011) và lấy tất cả những bệnh
nhân gãy xương do chấn thương chứ không
riêng cho bệnh nhân cao tuổi gãy xương do
loãng xương. Nghiên cứu Trần Hoàng Minh
Châu (15) năm 2009 thực hiện tại Quận Gò Vấp
cho thấy tỉ lệ gãy xương đốt sống là 33% thấp
hơn chúng tôi vì thực hiện ở người trên 50 tuổi,
tuổi trung bình 63,2.
Nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ gãy xương
gần tương đương với Nhật Bản (37,6%) nhưng
cao hơn so với ba nước Hong Kong (18%),
Indonesia (20%), Thailand (24,5%) khi so sánh tỉ
lệ gãy xương đốt sống của bốn nước năm 2012
của tác giả A.W.L KWOK và cs(6). Cho đến nay
chưa có một “tiêu chuẩn vàng” nào để xác định
là gãy xương đốt sống cả vì vậy mà số liệu về
tần suất lưu hành và tỉ lệ mới mắc của người cao
tuổi dao động khá lớn. Mức dao động lớn này
không những phụ thuộc vào sự khác biệt giữa
các vùng địa lý, các vùng kinh tế sinh thái khác
nhau mà còn phụ thuộc định nghĩa thế nào là
gãy xương đốt sống. Hiện nay chẩn đoán gãy
xương đốt sống có thể bằng phương pháp định
lượng và phương pháp bán định lượng tuy
nhiên phương pháp bán định lượng tỷ lệ dương
Chấn Thương Chỉnh Hình
Tần suất gãy đốt sống tập trung cao nhất ở
vùng nối ngực – thắt lưng. Đốt sống T12 và L1 bị
gãy nhiều nhất khi có đến 14 và 12 lượt gãy. Đây
là nơi chuyển tiếp từ cột sống ngực có độ còng
(Cyphosis) và cột sống lưng có độ ưỡn
(Lordosis), cột sống ngực cứng nhắc do có
khung sườn và cột sống thắt lưng có độ cử động
tự do. Hơn nữa khi có một lực tác động vào thì
lực này thường rơi vào vùng T12 và L1(11).
Nghiên cứu của Hongwei Wang(19) cũng cho kết
quả tương tự. Tác giả Hồ Phạm Thục Lan khi
khảo sát xương đốt sống ở người Việt Nam thấy
rằng chiều cao đốt sống từ T10 đến L5 có
khuynh hướng giảm dần theo thời gian nên ở
người cao tuổi tỉ lệ gãy đốt sống lưng cao hơn so
với gãy đốt sống ngực.
Mối liên quan giữa các yếu tố chỉ số nhân
trắc, bệnh học, lối sống với tình trạng gãy
xương đốt sống
Tuổi
Là yếu tố nguy cơ cao của gãy xương đốt
sống(6,7). Kết quả chúng tôi cho thấy tuổi trung
bình của nhóm gãy xương 76 (SD=7,5) cao hơn
nhóm không gãy xương 71 (SD=7,7) (p=0,001). Tỉ
lệ gãy xương tăng theo tuổi bất kể giới tính,
vùng địa dư, chủng tộc và thật vậy trong nghiên
cứu này tỉ lệ gãy xương đốt sống ở nhóm trên 80
tuổi chiếm cao nhất là 68% và sự khác biệt có ý
nghĩa giữa các nhóm tuổi. Các tác giả Hồ Phạm
475
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Thục Lan(8,3), Hongwei Wang(19) đều có cùng
nhận xét.
Giới
Nữ có 39 trường hợp gãy xương đốt sống
chiếm tỉ lệ 53,1% trong khi nam giới là 6 trường
hợp chiếm 29,2%. Trong nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy tỉ lệ gãy xương đốt sống ở nữ cao
hơn so với nam giới, cụ thể nữ có nguy cơ gãy
xương đốt sống cao gấp 2,74 lần so với nam
(p=0,044). Nhiều nghiên cứu cho thấy giới nữ,
đặc biệt là sau mãn kinh tỉ lệ gãy xương cao hơn
nam(15,8), có thể do tình trạng thiếu hụt Estrogen
sau tuổi mãn kinh(8) dẫn đến mất cân bằng giữa
hai quá trình tạo xương và hủy xương, thiếu
Estrogen xương trở nên xốp, dòn và dễ gãy.
Ngoài ra khung xương của nữ nhỏ hơn [14], phải
sinh con, cho con bú, ít vận động nên nguy cơ dễ
gãy xương hơn (12).
Nhẹ cân
Tỉ lệ gãy xương đốt sống ở những bệnh
nhân nhẹ cân (60,9%) cao hơn bệnh nhân không
nhẹ cân (43,9%), tuy nhiên sự khác biệt này chưa
có ý nghĩa (p=0,15). Mặc dù các tài liệu đều cho
rằng mô gầy và mô mỡ là một yếu tố nguy cơ
quan trọng đối với mật độ xương. Mô mỡ
chuyển hóa tạo ra Estradiol kích thích quá trình
tạo xương và ức chế quá trình hủy xương mà
phụ nữ loãng xương và người cao tuổi lại có ít
mô mỡ nên tăng nguy cơ gãy xương. Nam giới
mật độ xương liên quan tới mô gầy do
Testostrone kích thích mô cơ và mô xương.
Người có khối lượng mỡ nhiều và BMI cao, có
mật độ phân bố mỡ ở các vùng cơ thể nhiều
nhất là vùng hông, chúng có vai trò là chiếc gối
đệm bảo vệ xương đặc biệt là đầu trên xương
đùi làm giảm hoặc triệt tiêu lực va chạm nên
giảm nguy cơ gãy xương khi té ngã và ngược lại
người có BMI thấp tăng nguy cơ gãy xương(12).
Thật vậy, trong một nghiên cứu của Viện Dinh
Dưỡng nguy cơ gãy xương tăng 4,8 lần đối với
người nhẹ cân(10).
Chỉ số T Score
Các nghiên cứu đều cho thấy mật độ khoáng
476
xương thấp đều liên quan đến nguy cơ gãy
xương,(1,15), những người phụ nữ có mật độ
xương thấp đo bất kỳ ở xương nào là yếu tố
nguy cơ độc lập đối với một ca gãy đốt sống
mới. Kết quả của chúng tôi cho thấy có mối liên
quan có ý nghĩa giữa chỉ số T Score với tình
trạng gãy xương đốt sống, cụ thể T Score trung
bình đo tại vùng cột sống thắt lưng và cổ xương
đùi ở nhóm gãy xương đều thấp hơn nhóm
không gãy xương (p=0,000).
Tiền sử dùng corticosteroid
Tỉ lệ BN có tiền sử dùng corticosteroid cao
nhất với 32,4% và có mối liên quan với tình
trạng gãy xương đốt sống (p=0,000). Những BN
dùng corticosteroid nguy cơ gãy xương đốt sống
tăng gấp 8,05 lần (OR = 8,05; 3,05 – 21,2;
P=0,000). Kết quả này phù hơp với y văn,
corticosteroid ảnh hưởng lên xương bè, tốc độ
mất xương rất nhanh: đến 20% khối lượng
xương trong năm đầu(1), do tác động bè xương
nhiều hơn vỏ xương do đó gãy xương nhiều
nhất là xương đốt sống, xương sườn và đầu
xương dài.
Tiền sử té ngã
Kết quả của chúng tôi có 22,9 % BN có tiền
sử té ngã, và đây cũng là một yếu tố liên quan
với tình trạng gãy xương đốt sống. Tỉ lệ GXĐS
ở BN có tiền sử té ngã (69,2%) cao hơn BN
không có tiền sử té ngã (40,5%) (p = 0,011). Ở
người cao tuổi còn có nhiều nguy cơ té ngã do
sức cơ giảm nên đi không vững, kiểm soát tư
thế kém, thường kèm theo các bệnh lý kết hợp:
tụt huyết áp, loạn nhịp tim, Parkinson, giảm
thị lực(4)… Sự thiếu hụt về thần kinh được tìm
thấy trong khoảng 24,7%‐52,2% các trường
hợp GXĐS(9), Hongwei Wang (19) ghi nhận là
18,7% ở người cao tuổi.
Tiền sử gãy xương
Đứng thứ ba (19%) sau tiền sử dùng
corticosteroid và tiền sử té ngã. Có mối liên
quan giữa tiền sử gãy xương với tình trạng
gãy xương đốt sống, Cụ thể tỉ lệ GXĐS ở bệnh
nhân có tiền sử gãy xương (75%) cao hơn BN
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
không có tiền sử gãy xương (41,2%) (p=0,006).
Tác giả A. W. L. Kwok(7) cũng cho kết luận
tương tự nghiên cứu chúng tôi.
Hút thuốc lá
Thuốc lá là yếu tố nguy cơ cho các bệnh lý
hô hấp và tim mạch, ngoài ra nó ảnh hưởng đến
nhiều bệnh lý trong đó có cả loãng xương và gãy
xương(5). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
không có mối liên quan giữa hút thuốc lá và tình
trạng gãy xương đốt sống (p=0,128).
A.W.L.Kowk (6) cũng ghi nhận như thế. Kết quả
chúng tôi tương tự tác giả Minh Châu(15) đều cho
thấy chưa có mối liên quan có ý nghĩa giữa hút
thuốc lá và gãy xương. Điều này có thể lý giải do
các đối tượng hút thuốc lá là nam giới, chiếm tỉ
lệ rất thấp và ít gãy xương hơn nữ. Đồng thời
những BN cao tuổi, thường kèm các bệnh lý
phối hợp như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối
loạn lipid máu... nên thường được các bác sĩ tư
vấn bỏ thuốc lá.
Uống rượu
Cũng như hút thuốc lá chúng tôi chưa tìm
thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa uống rượu
và nguy cơ gãy xương (p=0,274), tác giả
A.W.L.Kowk(6) cũng cho kết luận tương tự. Điều
này có thể lý giải tuy một số người có thói quen
uống rượu nhưng số lượng rất ít, chủ yếu là
nam mà nghiên cứu chúng tôi đa phần là nữ
giới (771,%) và người cao tuổi thường ý thức
được vấn đề sức khỏe bản thân vì uống rượu
không tốt cho sức khỏe.
Mãn kinh sớm
Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy tỉ lệ
gãy xương đốt sống ở phụ nữ mãn kinh sớm cao
hơn so với phụ nữ mãn kinh bình thường nhưng
chưa ghi nhận được mối liên quan giữa mãn
kinh sớm và tình trạng gãy xương đốt sống (p =
0,703). Mặc dù nhiều nghiên cứu cho rằng mãn
kinh sớm là yếu tố nguy cơ của gãy xương,
những người mãn kinh sau 45 tuổi ít có nguy cơ
gãy xương đốt sống (13). Sau mãn kinh nồng độ
Estrogen giảm, kích thích hoạt động hủy cốt bào,
tăng quá trình hủy xương gây mất xương
Chấn Thương Chỉnh Hình
Nghiên cứu Y học
khoảng 20% ‐30% ở xương xốp và 5% ‐ 10% ở
xương đặc trong giai đoạn đầu của thời kỳ sau
mãn kinh, ngoài ra do tăng hủy xương nên tăng
nồng độ canxi trong máu, giảm tiết PTH và
giảm calcitriol làm giảm hấp thu canxi tại ruột
nên xương thiếu nguyên liệu, dễ gãy xương
hơn(12).
Số lần sinh con
Do đối tượng nghiên cứu là người cao tuổi,
sống đa số ở nông thôn nên sinh con nhiều
(trung bình là 6, cao nhất lên đến 14 người). Số
con trung bình của nhóm có gãy xương (6,7 ±
3,4) cao hơn nhóm không gãy xương (5,3 ± 2,7)
và sự khác biệt có ý nghĩa (p=0,021). Người phụ
nữ trong lúc mang thai có tập quán ăn kiêng,
sau sinh ít vận động, nằm trong buồng tối
không có ánh sáng mặt trời, ăn thiếu chất, thiếu
canxi cũng là một yếu tố nguy cơ loãng xương
và gãy xương. Nghiên cứu của Vũ Thị Thanh
Thủy(18) cũng cho rằng sinh trên 4 lần cũng là
một yếu tố nguy cơ liên quan đến xẹp lún đốt
sống.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 96 BN cao tuổi đến khám tại
phòng khám Nội Cơ‐xương‐khớp bệnh viện
Chợ Rẫy chúng tôi rút ra được kết luận sau
Tỉ lệ loãng xương
Tỉ lệ loãng xương ở bệnh nhân cao tuổi có
giảm mật độ xương là 87,6% và tỉ lệ gãy xương
đốt sống: 46,8%
Đặc điểm gãy xương đốt sống
Gãy hai vị trí ngực và thắt lưng: 48%.
Kiểu GXĐS thường gặp nhất: gãy bờ (68%)
và gãy lún (62%).
Đốt sống thường bị gãy: T12 và L1 chiếm
31% các trường hợp gãy xương.
Các yếu tố liên quan đến GXĐS
Tuổi
Tuổi càng cao tỉ lệ GXĐS càng tăng,
các nhóm tuổi 60‐69, 70‐79 và trên 80 tuổi có
tỉ lệ GXĐS lần lượt là 33%; 48%; 68%.
477
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Giới
Tỉ lệ GXĐS ở nữ giới (53,1%) cao hơn nam
giới (29,2%).
Chỉ số T Score
Bệnh nhân gãy xương đốt sống có chỉ số T
Score trung bình đo tại vùng cột sống thắt lưng
và đo tại cổ xương thấp hơn bệnh nhân không
gãy xương
Tiền sử dùng corticosteroid
Tỉ lệ GXĐS ở BN có tiền sử dùng
corticosteroid (79,4%) cao hơn BN không có tiền
sử dùng corticosteroid (32,4%).
Tiền sử té ngã
Tỉ lệ GXĐS ở BN có tiền sử té ngã (69,2%)
cao hơn BN không có tiền sử té ngã (40,5%).
Tiền sử gãy xương
Tỉ lệ GXĐS ở BN có tiền sử gãy xương (75%)
cao hơn BN không có tiền sử gãy xương (41,2%).
Số lần sinh con
BN GXĐS có số con trung bình (6,7) cao hơn
BN không GXĐS (5,3).
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
478
Bartl R. (2009), Osteoporosis: Dianogsis, Prevention, Therapy,
Springer‐Berlin.
Bùi Văn Đức, Nguyễn Văn Tín (2009), ʺKhảo sát tỉ lệ loãng
xương và các yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân bằng hoặc trên
50 tuổi tại bệnh viện đa khoa khu vực Cái Nước ‐ Cà Mauʺ. Y
học thực hành, 687(11), tr. 57‐60.
Hồ Phạm Thục Lan (2011), ʺQuy mô gãy xương đốt sống ở
người Việtʺ. Thời sự y học, 63, tr.11‐16.
Jerry L. (2004), ʺVertebral Compression Fractures in the
Elderlyʺ. American Family Physician, 69(1), 111‐116.
Kanis JA, Johnell O (2005), ʺSmoking and fracture riskʺ.
Osteoporisis Int, 16, 155‐162
Kwok. AWL, Leung JCS, Chan AYH (2012), ʺPrevalence of
vertebral fracture in Asian men and women: Comparison
between Hong Kong, Thailand, Indonesia and Japanʺ. Public
Health.
Kwok AWL, Gong JS (2013), ʺPrevalence and risk factors of
17.
18.
19.
radiographic vertebral fractures in elderly Chinese men and
women: results of Mr. OS (Hong Kong) and Ms. OS (Hong
Kong) studiesʺ. Osteoporisis Int, 24, 877‐885
Lan TH, Nguyen DN (2009), ʺPrevalence and risk factors of
radiographic vertebral fracture in postmenopausal
Vietnamese womenʺ. Bone, 45, 213‐217.
Leucht P, Fischer K (2009), ʺEpidemiology of traumatic spine
fracturesʺ. Injury, 40(2), 166‐238
Nguyễn Thi Kim Hưng (2003), ʺCanxi và dinh dưỡng phòng
ngừa loãng xươngʺ. Kỷ yếu các báo cáo khoa học hội nghị
chuyên đề loãng xương và bệnh cột sống, TPHCM, tr. 21‐24.
Nguyễn Trọng Tín (2008), ʺTình hình chấn thương cột sống
ngực ‐ thắt lưng tại bệnh viện chấn thương chỉnh hìnhʺ. Hội
nghị khoa học thường niên lần thứ XV ‐ Hôi chấn thương
chỉnh hình Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.269 – 275
Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Đình Nguyên (2007), Loãng
xương ‐ Nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị, phòng ngừa. Nhà
xuất bản y học
Paganini A, Atchison A (2005), ʺMenstrual and reproductive
factors and fracture risk: the Leisure World Cohort Studyʺ. J
Womens Health, 14(9), 808‐819
Riggs LB, Melton LJ (2006), ʺPopulation ‐ Based Analysis of
the Relationship of Whole Bone Strength Indices and Fall
Related Loads to Age ‐ and Sex ‐ Specific Patterns of Hip and
Wrist Fracturesʺ. J Bone Miner Res, 21, 315‐323.
Trần Hoàng Minh Châu (2009), ʺTỷ lệ gãy xương và các yếu
tố nguy cơ gãy xương liên quan với loãng xương ở người trên
50 tuổi quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh sau 5 năm theo
dõiʺ. luận văn chuyên khoa 2 – Đại học y dược thành phố Hồ
Chí Minh.
Trần Thị Uyên Linh (2011), ʺTỉ lệ loãng xương và các yếu tố
nguy cơ ở phụ nữ mãn kinh và nam giới bằng hoặc trên 50
tuổi điều trị tại khoa Lão bệnh viện Nhân Dân Gia Địnhʺ.
luận văn thạc sĩ y học – Đại học y dược thành phố Hồ Chí
Minh.
Van TP, Laan RF (2003), ʺBone density threshold and other
predicttors of vertebral fracture in patients receiving oral
glucocorticoids therapyʺ. Arthritis Rheum, 48, 3224‐3233.
Vũ Thị Thanh Thủy, Trần Ngọc Ân (2003), ʺĐánh giá nguy cơ
loãng xương sau mãn kinh ở Việt Namʺ. Tạp chí y học, tr. 75‐
82.
Wang H, Li C, Xiang Q (2012), ʺEpidemiology of spinal
fractures among the elderly in Chongqing, Chinaʺ. J Care
Injury
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa