Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
GIÁ TRỊ CỦA GLYCOSYLATED HEMOGLOBIN A1C (HbA1C)
TRONG SÀNG LỌC ĐÁI THÁO ĐƯỜNG Ở THAI PHỤ 3 THÁNG CUỐI
Lê Xuân Trường*, Lâm Thùy Như*, Nguyễn Thị Vân Trang**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đái tháo đường thai kỳ là sự giảm dung nạp đường huyết bất lợi cho thai phụ gây nên nhiều
hậu quả nghiêm trọng cho sản phụ và thai nhi. Vì thế việc tầm soát đái tháo đường cho thai phụ là rất cần thiết.
Ở Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu nào dùng A1C kết hợp nghiệm pháp dung nạp đường huyết
dùng cho việc xét nghiệm sàng lọc chẩn đoán đái tháo đường cho thai phụ ba tháng cuối thai kỳ. Đó là lý do
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, phân tích. Nghiên cứu được thực hiện trên thai
phụ ba tháng cuối tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 7/2011 đến tháng 09/2012
(n=1417).
Kết quả: Trong nghiên cứu của chúng tôi gồm 294 người bình thường và 1123 thai phụ ba tháng cuối.
Theo OGTT‐TCM và OGTT‐TCC, thì tuổi mẹ trung bình của nhóm thai phụ có ĐTĐTTK cao hơn nhóm thai
phụ không ĐTĐTTK có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Tuổi thai trung bình của nhóm thai phụ có ĐTĐTTK cao
hơn nhóm thai phụ không ĐTĐTTK có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Cân nặng trung bình của nhóm thai phụ có
ĐTĐTTK cao hơn nhóm thai phụ không có ĐTĐTTK có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Nhóm tuổi thai >28 tuần
có số lượng thai phụ chiếm tỷ lệ nhiều nhất (68,8%) có tỷ lệ mắc ĐTĐTTK cao nhất theo TCM (27,7%) và theo
TCC (13,9%). Nhóm tuổi thai 24‐28 tuần chiếm tỷ lệ thấp nhất (31,3%) và có tỷ lệ mắc ĐTĐTTK thấp nhất
theo TCM (23,1%), theo TCC (7,4%). Ngưỡng A1C ≥5,15% (độ nhạy 63,95%, độ đặc hiệu 81,30%) là ngưỡng
sàng lọc ĐTĐTTK vì có độ nhạy giảm ít, độ đặc hiệu tăng lên rất nhiều. Đây là ngưỡng A1C tối ưu dựa trên
đường cong ROC cho hầu hết các nhóm tuổi thai theo OGTT‐TCM. Ngưỡng ≥5,35% là ngưỡng chẩn đoán của
test A1C trên nhóm ĐTĐTTK theo OGTT‐TCM (độ nhạy 44,9%, độ đặc hiệu 93,24%).
Kết luận: Chúng tôi xác định được khoảng đối chiếu A1C ở thai phụ ba tháng cuối không ĐTĐTTK thấp
hơn nhóm phụ nữ bình thường. Với ngưỡng sàng lọc của test A1C trên nhóm ĐTĐTTK theo OGTT‐TCM là
≥5,15% với độ nhạy 63,95%, độ đặc hiệu 81,30%. Ngưỡng chẩn đoán của test A1C trên nhóm ĐTĐTTK theo
OGTT‐TCM là ≥5,35% với độ nhạy 44,9%, độ đặc hiệu 93,24%.
Từ khóa: HbA1C, đái tháo đường.
ABSTRACT
THE VALUE OF GLYCOSYLATED HEMOGLOBIN (HbA1C) SCREENING IN GESTATIONAL
DIABETES IN LATE PREGNANCY
Le Xuan Truong, Lam Thuy Nhu, Nguyen Thi Van Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 435 ‐ 442
Background: Gestational diabetes is status which decreases glucose intolerance during pregnancy adversely
causing by more serious consequences for pregnancy and fetus. Therefore, the screening for diabetes mellitus
during pregnancy is essential. In Vietnam, there is no research that combines glycosylated hemoglobin and blood
* Bộ môn Hoá Sinh, Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM ** Bệnh Viện Ngoại Khoa và CTCH STO Phương Đông
Tác giả liên lạc: TS. BS. Lê Xuân Trường
Nội tiết
ĐT: 01269872057 Email:
435
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
glucose tolerance test for screening of diabetes diagnosed during third trimester pregnancy. That is the reason
why we conducted this research topic.
Material and method: Prospective, cross‐sectional, and descriptive analysis. This study was carried out on
pregnant women in the third trimester at University Medical Center of Ho Chi Minh City from July 2011 to
September 2012 (n = 1417).
Result: In our study, we use 294 normal persons and 1123 pregnant women in third trisemester. According
to OGTT‐TCM and OGTT‐TCC criteria, the mean of age of gestational diabetes is significant higher than non
gestational diabetes (p<0.001). There were significant higher in mean age of fetus between non‐gestational
diabetes group and gestational diabetes group (p<0.001). There were significant lower in weight of pregnant
between non‐gestational diabetes group and gestational diabetes group (p<0.001). The age of fetus group more
than 28 weeks, which have more number of pregnant proportion (68.8%) and highest gestational diabetes
prevalence following by TCM (27.7%) and TCC (13.9%). The age of fetus from 24 to 28 weeks have low
proportion (31.3%) and lowest gestational diabetes incidence by TCM (23.1%) and TCC (7.4%).
The glycosylated hemoglobin A1C level is higher 5.15% (the sensitivity is 63.95% and the specificity is
81.30%) which is the threshold for screening gestational diabetes due to the low sensitivity, specificity, and
increasing tremendously. This is the optimal A1C threshold based on the ROC curve for most fetus age groups
following by OGTT‐TCM criteria. The value of A1C is higher 5.35 % is threshold diagnostic in gestational
diabetes groups according to OGTT‐TCM (the sensitivity is 44.9% and the specificity is 93.24%).
Conclusion: We identified the value of A1C of third trimester pregnant in non‐gestational diabetes lower
than the normal group. The screening threshold of A1C test in non‐gestational diabetes is 5.15% (sensitivity is
63.95% and specificity is 81.30%) according to OCTT‐TCM. The diagnostic threshold of A1C test in non‐
gestational diabetes of OCTT‐TCM is 5.35% (sensitivity is 44.90% and specificity is 93.24%).
Keywords: HbA1C, diabetes mellitus.
MỞ ĐẦU
Nhiều nghiên cứu cho thấy theo dõi đái tháo
đường thai kỳ là rất cần thiết để phòng và làm
giảm các biến chứng cho mẹ và con như biến
chứng tiền sản giật, rau bong non, bệnh lý võng
mạc, bệnh lý tim(16). Những biến chứng này đã
được chứng minh có thể giảm thiểu đáng kể nếu
thai phụ được phát hiện và điều trị sớm đái tháo
đường thai kỳ(15). Do đó cần thiết phải kiểm soát
tốt đái tháo đường thai kỳ cho các thai phụ
trong suốt quá trình mang thai. Bằng cách sử
dụng test A1C và nghiệm pháp dung nạp
đường uống như là một bộ xét nghiệm sàng lọc
và chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ. Trên thế
giới đã có nhiều nghiên cứu về A1C ở thai phụ
dựa trên nhiều kỹ thuật khác nhau không đúng
chuẩn của Liên Đoàn Quốc Tế Hóa Học Lâm
Sàng và Phòng Thí Nghiệm Y Học (IFCC)(10,11). Ở
Việt Nam chưa có một nghiên cứu nào về A1C ở
thai phụ, cho nên chúng tôi tiến hành nghiên
436
cứu đề tài “Giá trị của glycosylated hemoglobin
A1C (HbA1C) trong sàng lọc đái tháo đường ở
thai phụ ba tháng cuối” theo khuyến cáo mới
của Hiệp Hội Đái Tháo Đường của Mỹ (ADA).
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 2 nhóm
Nhóm chứng
Phụ nữ bình thường đến kiểm tra sức khỏe
định kỳ tại Khoa Phụ Sản – Bệnh viện Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhóm thai phụ 3 tháng cuối
Thai phụ bình thường và thai phụ có đái
tháo đường thai kỳ đến khám tại phòng khám
khoa Phụ Sản, Bệnh viện Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 7/2011 đến
tháng 09/2012.
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
Cỡ mẫu
Kỹ thuật xét nghiệm
Nhóm chứng
Theo công thức:
Thu thập số liệu căn cứ theo hỏi bệnh, khám
lâm sàng và tiêu chuẩn xét nghiệm cho tất cả
thai phụ đến khám tại khoa Phụ Sản – Bệnh viện
Đại học Y Dược.
Hai nhóm bao gồm nhóm chứng và nhóm
nghiên cứu. Trong nhóm nghiên cứu bao gồm
nhóm thai phụ 3 tháng cuối có ĐTĐTTK và thai
phụ 3 tháng cuối bình thường.
Với n: cỡ mẫu; Z: 1,96 (độ tin cậy 95%); σ: độ lệch chuẩn.
Dựa theo nghiên cứu đã có trước(15), độ lệch chuẩn của
nhóm chứng là 0,4. d: sai số ước lượng, chọn d = 0,05 → n
≥246 phụ nữ
Hướng dẫn thai phụ từng bước làm nghiệm
pháp tăng đường huyết với 75g đường.
Nhóm thai phụ 3 tháng cuối bình thường
Áp dụng công thức
Ngưỡng glucose huyết dựa theo tiêu chuẩn
của ADA năm 2011 (tiêu chuẩn mới – TCM)(2).
Glucose huyết lúc đói: ≥92 mg/dL (5,1 mmol/L).
Glucose huyết 1 giờ: ≥180 mg/dL (10,0 mmol/L).
Zα: hằng số của phân phối chuẩn. Với α = 0,05 thì Zα =
1,96. Pse: độ nhạy. Căn cứ nghiên cứu trước (1), với ngưỡng
A1C là 5,5% thì độ nhạy là 0,871; chúng tôi mong muốn
độ nhạy là 0,9. W: sai số của độ nhạy. Nghiên cứu này
chúng tôi chọn W = 0,1. → n = 35 thai phụ
Glucose huyết 2 giờ: ≥153 mg/dL (8,5 mmol/L).
Chỉ cần có 1 trong 3 giá trị glucose huyết
bằng hoặc vượt các ngưỡng trên là có thể chẩn
đoán ĐTĐTTK.
Ngưỡng glucose huyết dựa theo tiêu chuẩn
của ADA năm 2010 (tiêu chuẩn cũ – TCC)(2).
Nhóm thai phụ 3 tháng cuối có ĐTĐTTK
Dựa vào cỡ mẫu của thai phụ ba tháng
Glucose huyết lúc đói: ≥95 mg/dL (5,3 mmol/L).
cuối bình thường tính độ nhạy và xác suất của
Glucose huyết 1 giờ: ≥180 mg/dL (10,0 mmol/L).
ĐTĐTTK (Pdis) theo nghiên cứu trước đây là
Glucose huyết 2 giờ: ≥155 mg/dL (8,6 mmol/L).
Chỉ cần có 2 trong 3 giá trị glucose huyết
bằng hoặc vượt các ngưỡng trên là có thể chẩn
đoán ĐTĐTTK.
0,1069(15), chúng tôi áp dụng công thức sau để
tính cỡ mẫu (ntotal) cho cả 2 nhóm thai phụ có
thai 3 tháng cuối có ĐTĐTTK và nhóm thai
phụ có thai 3 tháng cuối bình thường.
ntotal =
nthai phụ 3 tháng cuối có ĐTĐTTK
= 327 thai phụ.
Pdis
Vậy nhóm thai phụ có thai 3 tháng cuối
bình thường = 327 – 35 = 292 thai phụ.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phân tích. Sử
dụng nghiệm pháp OGTT 75g glucose 3 giá trị
của ADA năm 2010 và 2011 kết hợp với định
lượng A1C
Nội tiết
Kỹ thuật định lượng A1C được thực hiện
dựa trên protocol của hãng Roche chạy trên máy
cobas 6000 dùng phương pháp miễn dịch độ
đục ức chế. Với giá trị A1C của người có chuyển
hóa bình thường là 4,8 – 5,9%. Kỹ thuật định
lượng glucose được thực đo bằng phương pháp
chuẩn enzymatic hexokinase dựa theo protocol
của hãng Roche chạy trên máy Cobas 6000. Xét
nghiệm luôn đảm bảo theo đúng nguyên tắc về
nội và ngoại kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm.
Chúng tôi kết hợp so sánh 2 tiêu chuẩn cũ và
mới của ADA cho chẩn đoán ĐTĐTTK.
Số liệu được xử lý trên phần mềm SPSS 11.5.
437
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán mới của ADA
năm 2011 (OGTT‐TCM):
KẾT QUẢ ‐ BÀN LUẬN
Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu
+ Nhóm có ĐTĐTTK là 294 người.
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu theo CGTT TCM
‐ Nhóm thai phụ không có thai, không ĐTĐ
là 294 người.
+ Nhóm không ĐTĐTTK là 829 người.
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán cũ của ADA năm
2010 (OGTT‐TCM):
‐ Nhóm thai phụ ba tháng cuối là 1123
người. Nhóm này sau khi làm nghiệm pháp
OGTT 75g glucose, được phân loại theo tiêu
chuẩn cũ và mới của ADA.
+ Nhóm có ĐTĐTTK là 114 người.
+ Nhóm không ĐTĐTTK là 1009 người.
Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu theo OCTT‐TCM
Thông số
Thai phụ không ĐTĐTTK
(n=829)
Phụ nữ không có thai (n=294)
Tuổi mẹ (năm)
Tuổi thai (tuần)
Chiều cao (cm)
Cân nặng (kg)
SD
X
29,94
4,50
155,48
51,36
3,33
3,29
Thai phụ có ĐTĐTTK (n = 294)
SD
3,85
3,68
4,55
7,99
X
29,41
30,63
156,77
62,74
X
30,96
31,05
156,36
64,16
p
SD
3,71
3,69
4,73
7,93
<0,001
0,097
<0,001
<0,001
Bảng 2. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu theo OGTT‐TCC
Thông số
Tuổi mẹ (năm)
Tuổi thai (tuần)
Chiều cao (cm)
Cân nặng (kg)
Phụ nữ không có thai
(n = 294)
Thai phụ không ĐTĐTTK
(n = 1009)
SD
X
29,94
4,50
155,48
51,36
3,33
3,29
Trong nghiên cứu này, tuổi trung bình của
thai phụ là 29,81 tuổi cao hơn so với một số tác
giả như N.T.K.Phụng (2004) là 28 tuổi(7),
D.M.T.Hà (2007) là 26 tuổi(4), nhưng lại tương tự
như tác giả T.T.M.Nguyệt (2008) là 30,04 tuổi(15),
P.M.K. Nguyên (2009) là 29,34 tuổi(12), P.T.Mai
(2011‐2012) là 29,9 tuổi(13). Điều này cho thấy tuổi
trung bình của phụ nữ sinh con ngày càng cao
phù hợp với khuyến cáo của ADA, thai phụ ≥25
tuổi là thai phụ có nguy cơ cao về ĐTĐTTK. Các
tác giả này cũng nêu lên mối quan hệ về tuổi của
thai phụ với ĐTĐTTK. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, tuổi trung bình của nhóm thai phụ có
ĐTĐTTK cao hơn tuổi trung bình của nhóm thai
phụ không ĐTĐTTK có ý nghĩa thống kê (p<0,
001) (bảng 1 và 2).
Cũng theo bảng 1 và 2, nhóm thai phụ có
cân nặng trung bình là 63,12 kg cao hơn nhóm
phụ nữ không có thai có cân nặng trung bình là
438
X
29,61
30,71
156,72
62,97
SD
3,84
3,72
4,59
8,04
Thai phụ có ĐTĐTTK
(n = 114)
X
31,63
31,02
156,13
64,39
SD
3,76
3,41
4,71
7,56
p
<0,001
0,404
<0,001
<0,001
51,36kg. Điều này phù hợp với sinh lý phát triển
thai nhi ở tuổi thai trung bình là 30,74 tuần. Bên
cạnh đó, ta cũng thấy cân nặng trung bình của
nhóm thai phụ có ĐTĐTTK lại cao hơn nhóm
thai phụ không ĐTĐTTK có ý nghĩa thống kê.
Điều này cho thấy cân nặng cũng là yếu tố nguy
cơ đối với ĐTĐTTK.
Kết quả đường của thai phụ sau khi thực
hiện nghiệm pháp OGTT 75g đường dựa theo
tiêu chuẩn cũ và mới của ADA thì tỷ lệ ĐTĐTTK
được chẩn đoán bằng OGTT‐TCM là 26,18% cao
hơn tỷ lệ ĐTĐTTK được chẩn đoán bằng OGTT‐
TCC là 10,15%, sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p<0,01). Tỷ lệ này cũng được thay đổi
tùy theo quốc gia địa lý, chủng tộc, và tùy theo
áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán nào. Tại Việt
Nam tỷ lệ ĐTĐTTK theo TCC thay đổi từ 3,9%
đến 12,06%(7, 12, 13, 15) (bảng 3).
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Bảng 3. So sánh tỷ lệ ĐTĐTTK được chẩn đoán
bằng OGTT 75g đường theo TCC
Tên tác giả
Năm n
N.T.K.Phụng(7)
2004 808
D.M.T.Hà(4)
2007 402
(15)
2008 720
(12)
2009 276
T.T.M.Nguyệt
P.M.K.Nguyên
P.T.Mai, cs(13)
2012 1707
N.T.V.Trang, cs(8) 2012 1123
Nơi nghiên
cứu
Quận 4
TP.HCM
BV.Nguyễn
Tri Phương
BV. Từ Dũ
BV. Hùng
Vương
BV. ĐHYD
TP.HCM
BV.ĐHYD
TP.HCM
Nghiên cứu Y học
tiêu chuẩn Của TCM đã được báo cáo trong
nghiên cứu ngoài nước(6).
Tuổi
thai
%
24-32
3,90
24-28
4,00
24-28 10,69
24-28 10,10
24-39 12,06
24-39 10,15
Do số lượng nghiên cứu về tỷ lệ ĐTĐTTK
theo TCM có rất ít ở Việt Nam nên chúng tôi so
sánh tỷ lệ ĐTĐTTK của nghiên cứu này với tỷ lệ
nghiên cứu của các nước Đông Nam Á như
Singapore là 25,1 (2012), Thái Lan là 23,0 (2012),
Hồng Kong là 14,4 (2012). Cho thấy Việt Nam
chiếm tỷ lệ cao nhất (26,16%) phù hợp với báo
cáo kỳ họp lần thứ 5 của Liên Đoàn ĐTĐ Quốc
Tế 2002.
Khi nghiên cứu về mức độ giảm dung nạp
glucose ở thai phụ có ĐTĐTTK, chúng tôi thấy
tỷ lệ vượt ngưỡng là 57,1% cao hơn so với
nghiên cứu của tác giả P.T.Mai (54,44%)(13). Có lẽ
do chúng tôi áp dụng tiêu chuẩn vượt ngưỡng
của TCM. Đây cũng chính là nguyên nhân gây
khó khăn cho việc điều trị ĐTĐTTK khi áp dụng
Phân tích khoảng đối chiếu của A1C
Kết quả chúng tôi thu được qua tính toán
tuân theo luật phân phối chuẩn.
Theo bảng 4, trị số A1C của phụ nữ bình
thường và thai phụ bình thường nằm trong giới
hạn bình thường. Thai phụ không ĐTĐTTK
thấp hơn phụ nữ không có thai một cách có ý
nghĩa thống kê (p<0,001). Điều này phù hợp với
sinh lý bình thường ở thai phụ và phù hợp với
kết quả của Lene R. Nieelsen, và cộng sự (2004)
và Radder JK, cs (2005).
Bảng 4. Trị số A1C của phụ nữ bình thường và thai
phụ bình thường
A1C (%)
Nhóm
n
Phụ nữ không có thai
Thai phụ không ĐTĐTTK -TCM
Thai phụ không ĐTĐTTK -TCC
294
829
1009
X ± SD
5,13 ± 0,31
4,89 ± 0,35
4,95 ± 0,39
Khoảng đối chiếu A1C của nhóm thai phụ
không ĐTĐTTK theo TCM là 4,89 ± 0,35% thấp
hơn khoảng đối chiếu A1C theo TCC là
4,95±0,39% có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Khoảng đối chiếu A1C của nhóm phụ nữ
không có thai là 5,13 ± 0,31% cao hơn nhóm thai
phụ không ĐTĐTTK có ý nghĩa thông kê.
Bảng 5. So sánh trị số A1C của thai phụ không ĐTĐTTK và phụ nữ không có thai ở một số nghiên cứu.
Tác giả
Năm
Lene R.Nieelsen, cs(9)
Radder JK,cs(14)
Navapun Charuruks, cs(3)
Andrea Mosca, cs(5)
P.T.Mai, cs(13)
2004
2005
2005
2006
2011
N.T.V.Trang(8)
2012
Không có thai
n
145
A1C (%) X ± SD
5,5±0,40
45
384
151
5,44±0,33
5,6 (trung vị)
5,1 ± 0,28
294
5,13±0,31
Bảng 5 chỉ ra A1C ở nhóm thai phụ không
ĐTĐTTK thấp hơn nhóm phụ nữ không có thai.
Trị số A1C ở cả 2 nhóm nghiên cứu của chúng
tôi thấp hơn nghiên cứu của Navapun
Charuruks, cs (2005)(3) và Andrea Mosca, cs
(2006)(5); nhưng lại cao hơn Radder JK, cs
(2005)(14) và P.T.Mai, cs (2011)(13). Sự khác biệt này
Nội tiết
3 tháng đầu
3 tháng cuối
n
100
30
A1C (%) X ± SD
5,1±0,30
4,3±0,30
n
98
A1C (%) X ± SD
5,0±0,30
4,7±0,40
126
4,8 (trung vị)
68
275
829 (TCM)
1009 (TCC)
5,0 (trung vị)
4,7±0,48
4,89±0,35
4,95±0,39
có thể do khác nhau về đối tượng nghiên cứu,
phương pháp định lượng A1C và tiêu chuẩn
chẩn đoán ĐTĐTTK được áp dụng.
Thai phụ có ĐTĐTTK có trị số A1C cao
hơn thai phụ không ĐTĐTTK một cách có ý
nghĩa thống kê (p<0,001). Trị số A1C của TCM
thấp hơn của TCC trên cùng nhóm đối tượng
439
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
thai phụ có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Kết
quả này phù hợp với ngưỡng đường huyết của
TCM thấp hơn TCC và sự giảm số lần vượt
ngưỡng để chẩn đoán ĐTĐTTK của TCM so
với TCC (bảng 6).
Các tác giả Aldasougi SA, Solomon DJ,
Bokhari SA, và Muneera S Gossain VV cũng có
cùng nhận xét với chúng tôi, họ cho rằng A1C
là một công cụ sàng lọc ĐTĐTTK đầy hứa hẹn.
Thêm vào đó khi chúng tôi xét mối tương
quan giữa tuổi mẹ và A1C; tuổi thai và A1C thì
có mối tương quan chặt chẽ tỷ lệ thuận của hai
yếu tố tuổi mẹ, tuổi thai và A1C. Điều này
cũng tương tự như mối liên quan của của yếu
tố tuổi mẹ, tuổi thai với ĐTĐTTK đã được nêu
ra trong các nghiên cứu về ĐTĐTTK của
D.M.T.Hà (2007)(4).
Trị số A1C của thai phụ có và không có
ĐTĐTTK
Bảng 6. Trị số A1C của thai phụ có và không có
ĐTĐTTK.
OGTT-TCC
OGTT-TCM
p
A1C (%)
A1C (%)
Nhóm thai phụ
n
n
X ± SD
X ± SD
Không ĐTĐTTK 1009 4,95±0,39 829 4,89±0,35 <0,001
Có ĐTĐTTK
114 5,61±0,59 294 5,37±0,56 <0,001
p
p <0,001
p <0,001
1.0
Sensitivity
0.8
0.6
0.4
0.2
0.0
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1 - Specificity
Độ đặc hiệu
1.0
Biểu đồ 1. Đường cong ROC theo độ nhạy và độ đặc
hiệu của A1C dựa vào OGTT‐TCM ở nhóm toàn bộ
tuổi thai
Diện tích dưới đường cong: 0,772
440
Bảng 7. Sự thay đổi độ nhạy và độ đặc hiệu theo
mỗi ngưỡng A1C của nhóm toàn bộ tuổi thai theo
OGTT‐TCM
Xét nghiệm HbA1C
(đơn vị %)
≥4,95
≥5,15
≥5,35
Độ nhạy (%)
Độ đặc hiệu (%)
77,89
63,95
44,90
53,20
81,30
93,24
Chúng tôi chọn ngưỡng A1C ≥5,15% (có độ
nhạy 63,95%, độ đặc hiệu 81,30%), là ngưỡng
sàng lọc ĐTĐTTK tốt hơn vì có độ nhạy giảm
ít nhưng có độ đặc hiệu lại tăng lên rất nhiều.
Đây cũng là ngưỡng A1C tối ưu dựa trên
đường cong ROC cho hầu hết các nhóm tuổi
thai theo OGTT‐TCM (bảng 7).
Bảng 8. So sánh ngưỡng A1C ≥5,15% với kết quả
OGTT‐TCM ở nhóm toàn bộ tuổi thai
OGTT-TCM
Tổng
ĐTĐTTK Không ĐTĐTTK
(n=294)
(n=829)
≥5,15
188 (63,9%)
155 (18,7%) 343 (30,5%)
<5,15
106 (36,1%)
674 (81,3%) 780 (69,5%)
Tổng
294 (100%)
829 (100%) 1123 (100%)
(OR = 7,71, KTC 95%: 5,74 – 10,36)
Xét nghiệm
HbA1C (%)
Theo nghiên cứu của chúng tôi những thai
phụ ĐTĐTTK bị bỏ sót (36,05% số thai phụ có
nồng độ A1C<5,15% nhưng lại dương tính với
OGTT) sẽ được theo dõi thêm và làm lại xét
nghiệm sau 2 – 4 tuần theo đúng khuyến cáo về
làm xét nghiệm A1C cho thai phụ, bên cạnh việc
điều chỉnh chế độ ăn và vận động hợp lý nhằm
phòng bệnh hoặc làm chậm tiến triển của bệnh
dưới sự hướng dẫn của chuyện gia dinh dưỡng.
Độ nhạy và độ đặc hiệu của A1C
Độ
nhạy
Ở nhóm toàn bộ tuổi thai theo OGTT‐TCM
thì diện tích dưới đường cong là 0,772 cho thấy
việc sử dụng A1C để phân biệt hai trạng thái có
và không ĐTĐTTK là khá tốt.
Ở ngưỡng A1C≥5,35% có độ nhạy 44,90%
độ đặc hiệu 93,24%, tức là thai phụ có A1C
≥5,35% được chẩn đoán có ĐTĐTTK,
A1C<5,35% là không ĐTĐTTK. Với ngưỡng
A1C này sẽ bỏ sót âm tính giả và dương tính
giả là 6,76% số thai phụ không có bệnh nhưng
lại dương tính với sàng lọc. Điều này có thể lý
giải là: nếu thai phụ có A1C≥5,35% thì khả
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
năng ĐTĐTTK rất cao vì chỉ có ≤6,76% thai
phụ bình thường có nồng độ A1C này. Do vậy
chúng tôi chọn ngưỡng A1C≥5,35% là ngưỡng
chẩn đoán ĐTĐTTK. Đây cũng là ngưỡng A1C
tối ưu của nhóm tuổi thai >32 tuần TCM. Ở
nhóm tuổi thai này sự rối loạn chuyển hóa
glucose thể hiện rõ nét nhất, tỷ lệ mắc
ĐTĐTTK ở tuổi thai này nhiều hơn các nhóm
tuổi khác và liên quan đến tình trạng thai to.
cuối và 294 phụ nữ bình thường có cùng độ tuổi
giúp tìm được khoảng đối chiếu A1C ở thai phụ
ba tháng cuối không ĐTĐTTK thấp hơn nhóm
phụ nữ bình thường. Với ngưỡng sàng lọc của
test A1C trên nhóm ĐTĐTTK theo OGTT‐TCM
là ≥5,15% với độ nhạy 63,95%, độ đặc hiệu
81,30% và ngưỡng chẩn đoán của test A1C trên
nhóm ĐTĐTTK theo OGTT‐TCM là ≥5,35% với
độ nhạy 44,9%, độ đặc hiệu 93,24%.
So sánh độ nhạy, độ đặc hiệu của ngưỡng
A1C theo OGTT‐TCC.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ở ngưỡng A1C ≥5,25% là ngưỡng để sàng
lọc ĐTĐTTK vì có cả độ nhạy và độ đặc hiệu
cao. Đây cũng là ngưỡng A1C tối ưu của hầu hết
các nhóm tuổi thai.
So sánh độ nhạy và độ đặc hiệu của A1C
trong sàng lọc ĐTĐTTK theo OGTT‐TCC
và OGTT‐TCM
So sánh về ngưỡng A1C, độ nhạy, độ đặc
hiệu của ngưỡng A1C được chọn trong sàng lọc
ĐTĐTTK theo 2 tiêu chuẩn cũ và mới chúng tôi
thấy TCC cao hơn TCM. Điều này phù hợp với
sự khác biệt về tiêu chí chẩn đoán mới dễ dàng
hơn tiêu chuẩn chẩn đoán cũ, dẫn đến sự thay
đổi về tỷ lệ mắc bệnh trong quần thể.
So sánh độ nhạy, độ đặc hiệu trong chẩn
đoán ĐTĐTTK theo OGTT‐TCC và
OGTT‐TCM.
Tuy cùng một ngưỡng A1C như nhau
nhưng độ nhạy và độ đặc hiệu lại khác nhau
giữa TCC và TCM. TCM cho độ nhạy thấp hơn
nhưng độ đặc hiệu lại cao hơn TCC. Độ đặc
hiệu cao hơn giúp cho việc chẩn đoán xác định
tốt hơn.
So sánh với các nghiên cứu khác, ở Việt Nam
chưa có nghiên cứu nào về độ nhạy, độ đặc hiệu
của A1C trong sàng lọc và chẩn đoán ĐTĐTTK,
chúng tôi so sánh kết quả thu được với các
nghiên cứu ở nước ngoài.
KẾT LUẬN
Định lượng A1C kết hợp với nghiệm pháp
tăng đường huyết trên 1123 thai phụ 3 tháng
Nội tiết
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
Aldasouqi SA, Solomon DJ,et al (2008). ”Glycohemoglobin
A1c: A promising screening tool in gestational Mellitus. Int J
Diabetes Dev Ctries, 28 (4): 121‐4.
American Diabetes Association. Standards of medical care in
diabetes ‐‐ 2011. Diabetes Care, 34(1): s11‐s61.
Charuruks N, Milintagas A, et al (2005). “Determination of
reference intervals of HbA1C (DCCT/NGSP) and HbA1C
(IFCC) in adults”. J. Med. Assoc Thai, 88(6): 810‐6.
Dương Mộng Thu Hà (2007). Khảo sát tỷ lệ đái tháo đường thai
kỳ trên thai phụ 24‐28 tuần tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương.
Luận Văn tốt nghiệp thạc sỹ y khoa – chuyên ngành sản phụ
khoa.
Mosca A, et al (2006). “Reference Intervals for Hemoglobin
A1C in Pregnant Women”: Data from an Italian Multicenter
Study. Clinical Chemistr, 52(6): 1138‐43.
Moses RG (2012). “Gestational Diabetes Mellitus: Implications
of an increased frequency with IADPSG criteria”. Diabetes
Care. 35(3): 461‐46.
Ngô Thị Kim Phụng (2004). Tầm soát đái tháo đường thai kỳ tại
quận 4 thành phố Hồ Chí Minh. Luận án tiến sỹ y học, chuyên
ngành sản phụ khoa, mã số 3.01.18.
Nguyễn Thị Vân Trang, Phạm Thị Mai (2012). Khoảng đối
chiếu của HbA1C ở phụ nữ có thai bình thường. Y Học Thực
Hành (838)‐ số 8/2012, trang 99‐100.
Nielsen LR, Ekbom P, Damm P, et al (2004). “HbA1c levels
are significantly lower in early and late preagnancy”. Diabetes
Care; 27(5): 1200‐01.
O’Kane MJ, Lynch PLM, Moles KW, Magee SE (2001).
“Determination of a diabetes control and complications trial‐aligned
HbA1c reference range in pregnancy”. Clin Chim Acta, 311: 157–
159.
Parentoni LS, de Faria EC, Bartelega MJLF, Moda VMS, Facin
ACC, Castilho LN (1998). “Glycated hemoglobin reference limits
obtained by high performance liquid chromatography in adults and
pregnant women”. Clin Chim Acta; 274: 105–109.
Phạm Minh Khôi Nguyên (2009). Tỷ lệ đái tháo đường trong
thai kỳ ở nhóm thai phụ nguy cơ cao qua sàng lọc với xét nghiệm
50g đường tại bệnh viện Hùng Vương. Luận văn thạc sỹ y học,
chuyên ngành sản phụ khoa, mã số 60.72.13.
Phạm Thị Mai, Nguyễn Thị Vân Trang (2012). Tỷ lệ đái tháo
đường trong thai kỳ ở thai phụ 24‐39 tuần thai tại Khoa Phụ Sản
Bệnh Viện Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2011‐
2012. Y Học Thực Hành (843)‐ số 7/2012, trang 59‐61.
Radder JK, van Roosmalen J (2005). “HbA1c in healthy,
Pregnant women”. Neth J Med.; 63(7): 256.
441
Nghiên cứu Y học
15.
16.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Tô Thị Minh Nguyệt (2008). Tỷ lệ đái tháo đường trong thai kỳ
và các yếu tố liên quan ở những thai phụ nguy cơ cao tại bệnh viện
Từ Dũ. Luận án chuyên khoa 2, chuyên ngành sản phụ khoa.
Tuffnell DJ, West J, Walkinshaw SA (2003). “Treatments for
gestational diabetes and impaired glucose tolerance in pregnancy”.
Cochrane Database of Systematic Reviews, Issue 3. Art. No.:
cd003395.
17.
Worth R, Potter JM, et al (1985). “Glycosylated haemoglobin
in normal pregnancy: a longitudinal study with two independent
methods”. Diabetologia. 28(2): 76–79.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
442
Chuyên Đề Nội Khoa