Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
SỰ PHÂN BỐ GENOTYPE HPV TRÊN BỆNH NHÂN
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Cao Minh Nga*,**, Trần Thiện Toàn**
TÓM TẮT
Mở đầu: Ung thư cổ tử cung là loại ung thư được xếp hàng thứ hai trong số các ung thư phổ biến của phụ
nữ trên thế giới. Ung thư cổ tử cung có liên quan chặt chẽ với nhiễm các type Human papillomavirus (HPV)
nguy cơ cao đường sinh dục, cùng với các yếu tố ký chủ và những thay đổi về di truyền/tế bào. Khoảng 50% số
người bị ung thư cổ tử cung nhiễm HPV 16. HPV 16 và HPV 18 là hai type gây ung thư cổ tử cung chủ yếu.
Mục tiêu: xác định tỉ lệ nhiễm HPV, sự phân bố các genotype HPV và các yếu tố liên quan ở những phụ nữ
được làm xét nghiệm HPV‐DNA từ dịch phết cổ tử cung.
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang trên các phụ nữ từ 18 ‐ 89 tuổi được lấy mẫu phết cổ
tử cung để phát hiện HPV‐DNA tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM trong ba năm, từ 1/7/2010 đến
30/6/2013. Phát hiện HPV‐DNA bằng kỹ thuật real‐time PCR sử dụng mẫu dò Taqman đặc hiệu. Định
genotype HPV bằng phương pháp lai phân tử (reverse dot‐blot).
Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV trong nhóm đối tượng nghiên cứu là 18,03%, trong số đó nhiễm các type HPV
nguy cơ cao chiếm 79,14%; nhiễm các type HPV nguy cơ thấp và đồng nhiễm cả 2 nhóm đều cho tỉ lệ là 10,43%.
Các genotype thường gặp trong nhóm nguy cơ cao là 16, 18, 58; trong nhóm nguy cơ thấp là 11, 81. Đồng
nhiễm từ 2 loại genotype trở lên chiếm tỉ lệ khá cao (26,96%).
Kết luận: Tỉ lệ nhiễm các type HPV nguy cơ cao khá phổ biến. Cần có kế hoạch giám sát chặt chẽ những
trường hợp này để phát hiện sớm ung thư cổ tử cung.
Từ khóa: HPV, nhiễm HPV, ung thư cổ tử cung
ABSTRACT
THE HPV GENOTYPE DISTRIBUTION AMONG WOMEN PATIENTS
AT THE UNIVERSITY MEDICAL CENTER IN HO CHI MINH CITY
Cao Minh Nga, Tran Thien Toan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 372 ‐ 377
Background: Cervical Cancer is second most common cancer among women worldwide. Cervical cancer is
caused by persistent high‐risk HPV infection, along with host factors and cellular/genetic changes. HPV 16
accounts for approx. 50% of all cervical cancers worldwide. HPV 16 and HPV 18 are the most prevalent
carcinogenic types
Objectives: In order to investigate the HPV infection rate, the genotype distribution of HPV and the
correlation factors among women which were tested HPV‐DNA from cervical samples
Methods: Retrospective, descriptive and cross‐sectional method from cervical samples of women 18 to 89
years of age at University Medical Center HCM city. Data of HPV genotypes and of some other factors from July
1st, 2010 to June 31th, 2013 were analyzed. Detecting HPV‐DNA by real‐time PCR method with specific probe
Taqman. HPV genotyping was done by dot blot hybridization.
Results: the HPV infected rate was 18.03%, widespread high risk HPV types were 79.14% and low risk
* BM Vi sinh – Khoa Y – Đại học Y Dược TP. HCM** Khoa XN ‐ Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Cao Minh Nga ĐT: 0908361512
Email:
372
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
HPV types were 10.43%, confection of both groups was 10.43%. The common HPV genotypes in high risk group
were 16, 18, 58; in low risk group were 11, 81. Confection of more one HPV genotypes were 26.96%.
Conclusions: The HPV 16 and HPV infected rate was high. These cases need finding the changes in the
cells of the cervix by Pap test to detected early cervical cancer.
Keywords: HPV, HPV infection, cervical cancer.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư cổ tử cung là một trong những
bệnh ung thư liên quan đến nhiễm vi sinh vật.
Từ thập niên 70 của thế kỷ XX, human
papillomavirus (HPV) được coi như một trong
những tác nhân gây biến đổi tế bào cổ tử cung
(dị sản cổ tử cung), tiền đề của ung thư cổ tử
cung. Khoảng trên 90% trường hợp ung thư cổ
tử cung được phát hiện có liên quan đến nhiễm
‐ Xác định tỉ lệ nhiễm HPV trên các đối
tượng phụ nữ có chỉ định xét nghiệm tại Bệnh
viện Đại Học Y Dược TP. HCM cơ sở 1.
‐ Tìm hiểu sự phân bố các genotype HPV.
‐ Tìm hiểu mối liên quan giữa nhiễm HPV
và các yếu tố khác.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hồi cứu và thiết kế cắt ngang
HPV(1,4). Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới
Đối tượng nghiên cứu:
(WHO), trong các nguyên nhân của ung thư cổ
Phụ nữ từ 18 trở lên, được làm xét nghiệm
phết cổ tử cung để phát hiện và định genotype
HPV tại Phòng Sinh học phân tử ‐ Khoa Xét
nghiệm ‐ Bệnh viện Đại Học Y Dược TP. HCM
(cơ sở 1) trong 3 năm, từ 1/7/2010 đến 30/6/2013.
tử cung ở phụ nữ thì 82% là có liên quan đến
nhiễm HPV ở các nước đang phát triển. Nhiều
nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định sự liên
quan mật thiết giữa HPV và ung thư cổ tử cung.
Ngoài ra HPV còn có vai trò trong ung thư vùng
hậu môn, âm hộ, âm đạo và dương vật cũng
như một số ung thư vùng hầu họng. HPV có
khoảng 120 type, trong đó có các type nguy cơ
cao thường gây ung thư và các type nguy cơ
thấp ít khi gây tiến triển đến ung thư.
Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung chiếm tỉ lệ
cao nhất trong tổng số các loại ung thư và là loại
ung thư sinh dục thường gặp nhất và chiếm tỉ lệ
53,5% các loại ung thư ở nữ giới. Đây là bệnh lý
ác tính có tỷ lệ mắc đứng hàng đầu ở phụ nữ
miền Nam và hàng thứ tư ở phụ nữ miền Bắc.
Theo thống kê về ghi nhận tần suất ung thư ở
thành phố Hồ Chí Minh (1998) thì thành phố có
thêm 28,6 người/100.000 phụ nữ mắc bệnh này
mỗi năm(1).
Như vậy, việc tìm hiểu về tình trạng nhiễm
các genotype HPV ở phụ nữ là vấn đề rất đáng
quan tâm. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm mục đích:
Nhiễm
Phương pháp nghiên cứu:
Phát hiện HPV‐DNA bằng phương pháp
Real‐time PCR. Đối với những trường hợp có
HPV‐DNA (+): định genotype HPV bằng kỹ
thuật lai phân tử (Reverse dot‐blot), có thể phát
hiện được 24 genotype của HPV, gồm: 8 type
nguy cơ thấp (6, 11, 42, 43, 61, 70, 71, 81) và 16
type nguy cơ cao (16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52,
53, 56, 58, 59, 66, 68, 82).
Ghi nhận số liệu vào “Bảng thu thập số liệu”.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 17.0 và
vẽ biểu đồ bằng Excel 2010.
KẾT QUẢ
Có 638 phụ nữ được làm xét nghiệm phát
hiện HPV‐DNA, chúng tôi ghi nhận được kết
quả như sau:
Tuổi
Các bệnh nhân nữ trong lô nghiên cứu được
phân bố theo các nhóm tuổi như sau (Biểu đồ 1)
373
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Tỉ lệ nhiễm các genotype HPV
Từ 115 phết cổ tử cung có HPV‐DNA (+),
chúng tôi xác định được 158 chủng HPV. Sự
phân bố genotype HPV được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Phân bố tỉ lệ nhiễm các genotype HPV
(n=158)
Genotype HPV
Biểu đồ 1: Phân bố tỉ lệ nhiễm HPV theo nhóm tuổi
Tỉ lệ nhiễm HPV
Type 6
Type 11
Type 42
Type 61
Type 81
Type 16
Type 18
Type 33
Type 35
Type 45
Type 51
Type 52
Type 53
Type 58
Type 59
Type 68
Tổng cộng
Số lượng
Nguy cơ thấp
3
17
1
1
5
Nguy cơ cao
38
29
9
8
5
6
7
1
24
3
1
158
Tỷ lệ %
1,90
10,76
0,63
0,63
3,16
24,05
18,35
5,70
5,06
3,16
3,80
4,43
0,63
15,19
1,90
0,63
100,00
Biểu đồ 2: Tỉ lệ nhiễm HPV là 18,03% (115/638
trường hợp)
Tình hình nhiễm các type HPV theo nhóm
nguy cơ
Tỉ lệ Genotype HPV
Bảng 2: Tỉ lệ nhiễm các type HPV theo nhóm nguy
cơ (n=115)
Nhóm nguy cơ
Nguy cơ cao
Nguy cơ thấp
Đồng nhiễm cả 2 nhóm
Tổng
Tần suất
91
12
12
115
%
79,14
10,43
10,43
100
Nhận xét: Nhóm nguy cơ cao (NCC) chiếm tỉ
lệ cao nhất: 79,14%.
Mối liên hệ giữa nhiễm HPV và các
genotype theo lứa tuổi
Tỷ lệ nhiễm các genotype HPV trên một mẫu
bệnh phẩm
Một bệnh phẩm có thể nhiễm 1 hay nhiều
genotype trong một lần xét nghiệm xác định
genotype HPV (Biểu đồ 3).
374
Mối liên hệ giữa nhóm tuổi và tỉ lệ nhiễm HPV
Bảng 3: Liên hệ giữa nhóm tuổi và tỉ lệ nhiễm HPV
(n=115)
Nhóm tuổi
18 – 29 (n=119)
30 – 59 (n=194)
>50 (n=129)
Tổng
Tần suất
30
67
18
115
%
26,25
34,54
13,95
100
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nhận xét: Nhóm tuổi 30‐59 nhiễm HPV với
tỉ lệ cao nhất (34,54%).
Phân bố nhóm genotype HPV NCC – NCT
theo nhóm tuổi
Bảng 4: Phân bố nhóm genotype cao – thấp theo
nhóm tuổi (n=115)
Nhóm tuổi
18 – 29
(n=30)
30 – 59
(n=67)
>50 (n=18)
Tổng
Nhóm NCC
Nhóm NCT
Cả 2 nhóm
Tần suất % Tần suất % Tần suất %
19
63,33
6
20,00
5
16,67
57
85,00
5
7,50
5
7,50
14
90
77,77
0
12
0,00
3
13
22,23
Nhận xét: Ở mọi nhóm tuổi, nhiễm HPV
nhóm NCC đều chiếm tỉ lệ cao, đặc biệt là ở
nhóm tuổi 30‐59 (85%).
BÀN LUẬN
Về tuổi của bệnh nhân
Qua biểu đồ 1, chúng ta thấy: Tuổi của đối
tượng nghiên cứu tập trung ở nhóm 30 – 49 tuổi
(61,13%), tiếp theo là nhóm trên 50 tuổi (30,41%),
nhóm tuổi từ 18 – 29 chiếm tỷ lệ thấp nhất
(18,65%).
Về tỉ lệ nhiễm HPV
Trong 638 mẫu bệnh phẩm được làm xét
nghiệm, tỷ lệ nhiễm HPV là 18,03% (115 trường
hợp) (Biểu đồ 2). Tỉ lệ này cao hơn hẳn so với
một số tác giả trong và ngoài nước(7,8,11,12,13). Sự
khác biệt có thể là do tiêu chuẩn chọn mẫu. Các
tác giả trên chọn mẫu nghiên cứu trong một
cộng đồng dân cư, có thể có hoặc chưa có bệnh
lý về phụ khoa. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
bệnh phẩm được thu nhận tại cơ sở y tế, nơi
bệnh nhân đến để kiểm tra những bất thường đã
hiện hữu, do vậy tỷ lệ nhiễm HPV của chúng tôi
cao hơn so với các nghiên cứu khác.
Về tỷ lệ genotype HPV
Phân bố tỉ lệ nhiễm các genotype HPV trên
một mẫu bệnh phẩm
Số liệu nghiên cứu (Biểu đồ 3) cho thấy, có
73,04% bệnh nhân nhiễm 1 type và 26,96%
bệnh nhân đồng nhiễm từ 2 type HPV trở lên,
Nhiễm
Nghiên cứu Y học
trong đó có 1 trường hợp đồng nhiễm 4 type.
Kết quả này có tỉ lệ đồng nhiễm thấp hơn so
với nghiên cứu của tác giả M Dai(4) tại Trung
Quốc (30,6%), và cao hơn so với nghiên cứu
của JN I Vet(12) tại Indonesia (20,7%). Có thể lí
giải cho điều này là do kĩ thuật sử dụng trong
các nghiên cứu là khác nhau. Kỹ thuật Reverse
Dot Blot trong nghiên cứu của chúng tôi và kỹ
thuật Reverse Line Blot trong nghiên cứu của
M Dai có tỉ lệ đồng nhiễm cao (30,6% và
26,96%), trong khi kết quả giải trình tự ‐ tỉ lệ
đồng nhiễm chỉ chiếm 14%.
Phân bố tỉ lệ nhiễm các genotype HPV nguy
cơ cao và nguy cơ thấp
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy,
một mẫu bệnh phẩm có thể nhiễm 1 hay đồng
nhiễm nhiều loại genotype cho 1 lần xét nghiệm
định type. Trong 115 mẫu bệnh phẩm có HPV
(+), chúng tôi có 158 lượt HPV/115 trường hợp
(Bảng 1). Các type HPV nguy cơ cao: HPV 16
chiếm tỷ lệ cao nhất (24,05%), tiếp theo là HPV
18 (18,35%) và HPV 58 (15,19%). Các type nguy
cơ thấp: HPV 11 chiếm tỷ lệ cao nhất (10,76%),
kế đến là HPV 81 (3,16%) và HPV 6 (1,90%). Kết
quả của chúng tôi có sự khác biệt với nghiên cứu
của nước ngoài(1,4) nhưng không khác biệt với
nghiên cứu của các tác giả Việt Nam(7,11,13) ‐ các
type thường gặp nhất là 16, 18, 58. Qua đó, ta có
thể thấy sự phân bố các type HPV là khác nhau
tùy thuộc vào dân tộc và vùng địa lý.
Qua kết quả trên ta thấy type 16 luôn giữ vai
trò quan trọng, luôn xuất hiện trong 3 type hay
gặp nhất. Nghiên cứu của chúng tôi không ghi
nhận bất cứ trường hợp nào nhiễm genotype
HPV 56. Tác giả Vũ Thị Nhung(13) ghi nhận được
3 trường hợp nhiễm HPV type 56, Phạm Thị
Hoàng Anh(8): có 7 trường hợp, Trần Thị Lợi(11)
không ghi nhận được trường hợp nào nhiễm
HPV type 56. Như vậy, tần suất nhiễm type
HPV 56 ở Việt Nam rất thấp.
Từ các ghi nhận trên, chúng ta có thể ứng
dụng vào việc xây dựng các xét nghiệm định
type cho phù hợp với tần suất các type HPV ở
Việt Nam.
375
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Phân bố tình hình nhiễm các type HPV theo
nhóm nguy cơ.
Nghiên cứu của chúng tôi (Bảng 2) cho
thấy, tỷ lệ nhiễm các type HPV nguy cơ cao là
79,14% ‐ chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là
nhiễm cả 2 nhóm vừa nguy cơ cao vừa nguy
cơ thấp (chiếm 10,43%), nhiễm type HPV nguy
cơ thấp (10,43%). Kết quả này tương tự với các
nghiên cứu trong và ngoài nước(4,8,11,13): tỷ lệ
nhiễm các type nguy cơ cao là cao nhất, chiếm
tỷ lệ vượt trội hơn rất nhiều so với type nguy
cơ thấp và chúng giữ vai trò quan trọng trong
ung thư cổ tử cung, do đó việc tầm soát ung
thư cổ tử cung nên đặt trọng tâm vào việc phát
hiện sớm các type HPV nguy cơ cao. Các type
HPV nguy cơ thấp chiếm tỷ lệ thấp và chỉ gây
những mụn cóc hoặc khối u lành tính.
Phân bố các genotype HPV nguy cơ cao –
nguy cơ thấp theo nhóm tuổi
Ở cả 3 nhóm tuổi, nhiễm HPV nhóm NCC
luôn luôn chiếm tỷ lệ cao nhất (63,33% ‐ 18,35% ‐
77,77%); nhiễm các type HPV nhóm NCT và
đồng nhiễm cả 2 nhóm có tỷ lệ thay đổi nhưng
đều thấp hơn hẳn tỉ lệ nhiễm nhóm NCC.
Về mối liên hệ giữa nhiễm HPV và một số
yếu tố khác
Có tất cả 16 type HPV được phát hiện.
Trong đó, nhóm nguy cơ cao chiếm đa số là
type 16, 18 và 58; nhóm nguy cơ thấp chiếm đa
số là type 11 và 81.
Liên quan giữa HPV và nhóm tuổi
Trong 115 trường hợp có kết quả HPV (+)
(Bảng 3), nhóm tuổi 30 – 59 có tỷ lệ nhiễm HPV
cao nhất (34,54%), tiếp theo là nhóm tuổi 18 ‐ 29
(26,25%). Nhóm tuổi trên 50 có tỷ lệ nhiễm HPV
thấp nhất (13,95%). Kết quả này tương đồng với
kết quả nghiên cứu của Giuliano A.R.(6) (22,7%),
và có sự khác biệt với các nghiên cứu khác của
các tác giả trong và ngoài nước về đỉnh tuổi
nhiễm HPV theo nhóm tuổi. JN I Vet(12): nhóm
tuổi 35 – 44 chiếm tỷ lệ cao nhất (15,2%), Vũ Thị
Nhung(13): tỷ lệ nhiễm HPV tập trung cao nhất
trong nhóm tuổi <20 (20%). Tuy có sự khác nhau
về đỉnh tuổi nhiễm HPV nhưng nhìn chung
nhiễm HPV tập trung chủ yếu trong độ tuổi sinh
sản. Điều này chứng minh có sự lây nhiễm cao
qua quan hệ tình dục (1,1,4). Vì vậy, cần thực hiện
tầm soát HPV định kỳ cho phụ nữ độ tuổi sinh
sản trong cả nước, đẩy mạnh tiêm vaccin phòng
ngừa ung thư cổ tử cung cho các bé gái lứa tuổi
thiếu niên.
376
KẾT LUẬN
Nghiên cứu trên 638 phụ nữ trong độ tuổi
từ 18‐89 được xét nghiệm phát hiện nhiễm
HPV và định genotype HPV, kết quả được ghi
nhận như sau:
Tỷ lệ nhiễm HPV phát hiện bằng phương
pháp real‐time PCR là 18,03%.
Tỷ lệ nhiễm 1 type HPV là 73,04%, tỷ lệ đồng
nhiễm nhiều type HPV là 26,96%.
Tỷ lệ nhiễm các type HPV nhóm nguy cơ cao
là 79,14% ‐ chiếm tỷ lệ cao nhất, tỉ lệ nhiễm type
nguy cơ thấp và đồng nhiễm cả 2 nhóm đều là
10,43%.
Nhóm tuổi 30 – 59 có tỷ lệ nhiễm HPV cao
nhất (34,54%), tiếp đó là nhóm tuổi 18 – 29
(26,25%). Nhóm tuổi trên 50 có tỷ lệ nhiễm HPV
thấp nhất (13,95%).
Trong các nhóm tuổi, nhiễm HPV nhóm
nguy cơ cao luôn chiếm tỷ lệ cao nhất (63,33% ‐
18,35% ‐ 77,77%).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
Bosch FX, Manos MM, Muñoz N, et al. (1995). Prevalence of
Human Papillomavirus in Cervical Cancer: a worldwide
perspective. Journal of The National Cancer Institute. Vol 87,
number 11, page 796 – 802.
Brooks G, Carroll KC, Butel J, Morse S (2010) Papilloma
viruses. In: Jawetz, Melnick, & Adelberg’s Medical
Microbiology 25th edition, Prentice‐Hall International Inc., p.
602‐605.
Cao Minh Nga, Dương T. Thanh Hương, Lục T. Vân Bích, Hồ
Lê Ân, Huỳnh Ngọc Phương Thảo, Hồ T. Thanh Thủy (2011).
Sự phân bố các genotype của HPV (Human Papilloma Virus)
ở phụ nữ và các yếu tố liên quan. Y học thành phố Hồ Chí
Minh, tập 15, số 1, trang 205 – 209.
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
4.
5.
6.
7.
8.
Dai M et al (2006). Human papillomavirus infection in Shanxi
Province, Peopleʹs Republic of China: a population‐based
study. British Journal of Cancer; 95: 96 – 101.
Ferlay J, Bray F, Pisani P, Parkin DM (2004). Globocan 2002:
Cancer incidence, mortality and prevalence worldwide. IARC
Cancer Base N05. Version 2.0, IARCPress, Lyon.
Giuliano AR, Papenfuss M (2001). Human Papilloma virus
Infection at the United State – Mexico Border: Implications for
Cervical Cancer Prevention and Control. Cancer
Epidemiology, Biomarkers & Prevention. Vol 10: 1129 – 1136.
Nguyễn Thị Tuyết Vân, Nguyễn Hoàng Quân, Cao Minh
Nga (2010). Nhiễm các type Human Papillomavirus ở phụ nữ
tuổi sinh đẻ. Y Học thành phố Hồ Chí Minh. Hội nghị khoa
học kỹ thuật Đại học Y Dược TP. HCM lần thứ 27 –
15/01/2010. Phụ bản của tập 14 * Số 1. Tr.: trang 503 – 507.
Pham Thi Hoang Anh, Nguyen Trong Hieu, Rolando
Herrero, Salvatore Vaccarella, Jennifer S. Smith, Nguyen Thi
Thuy, Nguyen Hoai Nga, Nguyen Ba Duc, Rhoda Ashley,
Peter J.F. Snijders, Chris J.L.M. Meijer, Nubia Muñoz, D. Max
Parkin, Silvia Franceschi (2003). Human papillomavirus
infection among women in South and North Vietnam.
International Journal of Cancer, Vol. 104, Issue 2, p. 213 – 220.
9.
10.
11.
12.
13.
Nghiên cứu Y học
Rossi PG, et al (2010). Prevalence of HPV high and low risk
types in cervical samples from the Italian general population:
a population based study. BMC Infectious Diseases; 10: 214.
Speich N, et al (2004). Human Papillomavirus (HPV) study of
2916 cytological samples by PCR and DNA sequencing.
Journal of Medical Microbiology; 53, 125 – 128.
Trần Thị Lợi và cs (2010). Tỷ lệ nhiễm Human Papillomavirus
và các yếu tố liên quan của phụ nữ từ 18 đến 69 tuổi tại thành
phố Hồ Chí Minh. Y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 14, số 1,
trang 311 – 320.
Vet JN I, et al (2008). Prevalence of human papillomavirus in
Indonesia: a population‐based study in three regions
Indonesia. British Journal of Cancer 99, 214 – 218.
Vũ Thị Nhung (2006). Khảo sát tình hình nhiễm các type HPV
(Human Papillomavirus) ở phụ nữ TP. Hồ Chí Minh bằng kỹ
thuật sinh học phân tử. Báo cáo nghiệm thu đề tài nghiên cứu
khoa học thuộc Sở Khoa học ‐ Công nghệ TP. Hồ Chí Minh.
Ngày nhận bài báo: 07/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Nhiễm
377