Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá hiệu quả của huyết thanh tự thân nhỏ trong điều trị bỏng mắt do hóa chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.97 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA HUYẾT THANH TỰ THÂN
NHỎ TRONG ĐIỀU TRỊ BỎNG MẮT DO HÓA CHẤT
Nguyễn Ngọc Anh*, Vũ Anh Lê**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của huyết thanh tự thân (HTTT) nhỏ mắt trong quá trình liền vết thương giác
mạc sau bỏng hóa chất độ II, III.
Phương pháp: Nghiên cứu thăm dò: 27 mắt của 22 bệnh nhân bỏng mắt do kiềm độ II, độ III, được chia
ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm nhỏ huyết thanh tự thân 14 mắt và nhóm nhỏ sanlein 13 mắt, trong 3 tuần. So
sánh sự liền biểu mô giác mạc, tỉ lệ bệnh nhân liền biểu mô hoàn toàn, và độ phù giác mạc của 2 nhóm
Kết quả: Tốc độ liền biểu mô của nhóm nhỏ HTTT nhanh hơn nhóm nhỏ sanlein có ý nghĩa thống kê ở thời
điểm ngày thứ 6 (p <0,05). Tỉ lệ liền biểu mô hoàn toàn sau 3 tuần của nhóm nhỏ HTTT là 12/14 của nhóm nhỏ
salein là 10/13. Độ phù giác mạc của 2 nhóm không khác biệt trong suốt 3 tuần điều trị.
Kết luận: HTTT nhỏ giúp liền biểu mô giác mạc nhanh hơn sanlein trong điều trị phối hợp điều trị bỏng
mắt do hóa chất.
Từ khóa: huyết thanh tự thân, bỏng mắt do kiềm.

ABSTRACT
THE EFECTS OF AUTOLOGOUS SERUM EYE DROPS ON THE CORNEALWOUND HEALING
ATER CHEMICAL BURN

Nguyen Ngọc Anh, Vu Anh Le
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 110 - 116
Objectives: to evaluate the efects of autologous serum eye drops on the corneal wound healing after chemical
burn.
Methods: This is pilot study. 27 eyes of 22 patients who had alkali- burned eyes grade II, III, randomizely
selected into 2 groups: 14 eyes treated with autologous serum, 13 eyes dropped salein for 3 weeks. Compare the


wound healing of corneal epithelium, the rate of complete epithelial healing, and the corneal edema between two
groups.
Results: The speed of the wound healing of corneal epithelium in autologous serum eye drops is faster than
the speed in salein group at the sixth day of the course. After 3 weeks of treating, the rate of complete epithelial
healing in autologous serum group and salein group was 12/14 and 10/13 in turn. The corneal edema between
two groups was not significantly diffrent.
Conclusions: Autologous serum eye drops leads to faster healing of corneal epithelium in alkali-burned eye
compare to sanlein drops.
Key words: Autologous serum eye drops, alkali-burned eye.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bỏng mắt do hóa chất là một trong
những nguyên nhân gây giảm thị lực nghiêm

trọng thường gặp. Hàng năm, tại khoa Chấn
Thương Bệnh viện Mắt Tp.HCM, tỷ lệ bệnh
nhân bị bỏng mắt do tai nạn lao động hoặc

* Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch,** Khoa Chấn Thương - Bệnh viện Mắt Tp. HCM
Tác giả liên lạc: BS. CKI. Nguyễn Ngọc Anh;

110

Email:

Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
sinh hoạt chiếm khoảng 10%. Trong số đó,

những biến chứng nặng nề về lâu dài như:
loét nhuyễn giác mạc, khuyết biểu mô dai
dẵng, tróc biểu mô tái phát...chiếm tỉ lệ
không nhỏ.
Thúc đẩy quá trình biểu mô hóa của bề
mặt nhãn cầu ngay trong những ngày đầu
của bỏng là một trong 3 bước tiếp cận quan
trọng (cùng với thúc đẩy tái tạo nhu mô và
kiểm soát phản ứng viêm) trong điều trị
bỏng mắt. Trong các dược chất dùng để thúc
đẩy quá trình biểu mô hóa được nghiên cứu,
fibronectin và yếu tố phát triển ngoại bì
(EGF) đã cho thấy nhiều triển vọng nhất.
Về phương diện nghiên cứu cơ bản, đã có
nhiều báo cáo chứng minh EGF và
Fibronectin, vốn có nhiều trong huyết thanh
tự thân (HTTT), có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy liền biểu mô giác mạc. HTTT
nhỏ đã được sử dụng để trị những bệnh lý
khó của bề mặt nhãn cầu(14,15), và cũng mang
lại những thành công có mức độ đối với các
bệnh lý như khuyết biểu mô dai dẵng (bảng
7), hội chứng tróc biểu mô tái phát, khô mắt
khó trị…
Như vậy, ý tưởng dùng fibronectin và các
yếu tố phát triển có trong HTTTđể thúc đẩy
sự liền biểu mô sau bỏng mắt do hóa chất là
một đề nghị hợp lý. Hơn nữa, việc sử dụng
huyết thanh tự thân tiêm dưới kết mạc để
điều trị những trường hợp bỏng được áp

dụng từ lâu ở Viện mắt Trung ương và BV
Mắt thành phố HCM nhưng vẫn chưa có báo
cáo nghiên cứu lâm sàng. Do vậy, mục tiêu
của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả việc
sử dụng huyết thanh tự thân nhỏ mắt trong
quá trình liền biểu mô giác mạc sau bỏng hóa
chất độ II, III.

Nghiên cứu Y học

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Đây là một nghiên cứu pilot, gồm 27 mắt
của 22 bệnh nhân bỏng mắt do hóa chất độ
II, III (bảng 1), điều trị tại khoa Chấn thương,
bệnh viện Mắt Tp HCM, từ tháng 5/2009 –
10/2009. Tất cả đều được rửa dẫn lưu bề mặt,
rửa tiền phòng sao cho pH đo tại cùng đồ
dưới và tiền phòng là 7-7,5. Loại trừ các
trường hợp bỏng độ I, độ IV, cũng như
những bệnh nhân có một trong các test:
HbsAg, Elisa, VDRL, HCV dương tính.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, ngẫu
nhiên, có nhóm chứng.
Qui trình thực hiện

Bệnh nhân bị bỏng mắt do hoá chất thoả

các điều kiện trên sẽ được chọn ngẫu nhiên
thành 2 nhóm: Nhóm nhỏ HTTT 14 mắt;
nhóm nhỏ sanlein 13 mắt. Ngoài ra, các bệnh
nhân của 2 nhóm còn được dùng thuốc uống
và nhỏ theo phác đồ điều trị bỏng của khoa
Chấn Thương bao gồm: Col. Oflovid 0,3%
nhỏ 1 giọt x 6 lần/ngày. Col. Atropin 1% nhỏ
1 giọt x 2 lần/ngày. Doxicycline 100mg 1v x
2lần/ngày; VitaminC 1g x 2 lần/ngày;
Paracetamol 0,5g 1viên x 3 lần/ngày. Pde
Tetracylin 1% tra mắt 3 lần/ngày.
Bệnh nhân trong nhóm HTTT sẽ được
phát mỗi ngày một lọ thuốc nhỏ mắt chứa
huyết 1ml thanh tự thân. Bệnh nhân được
hướng dẫn nhỏ 1 giọt x 10 lần/ngày; sau đó
lọ thuốc sẽ bị hủy, cho đến khi lành biểu mô
giác mạc. Tất cả sẽ được khám mắt bằng đèn
sinh hiển vi để ghi nhận kết quả các biến số
nghiên cứu mỗi ngày vào phiếu theo dõi
trong 3 tuần. Những bệnh nhân không lành
biểu mô sau 3 tuần sẽ được ghép màng ối.
Bảng 1: Phân độ lâm sàng của bỏng mắt [1-2].

Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011

111


Nghiên cứu Y học
Tổn thương

Độ
I
Độ
II
Độ
III
Độ
IV

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Tiên
lượng

Tổn hại biểu mô, giác mạc trong
Tốt
Không thiếu máu rìa
Đục giác mạc nhưng thấy rõ mống mắt chi tiết Tốt
Thiếu máu < 1/3 chu vi rìa
Mất hầu hết biểu mô giác mạc, đục không thấy Dè dặt
rõ chi tiết mống.
thiếu máu 1/3 – ½ chu vi rìa.
Giác mạc đục không thấy được mống mắt,
Xấu
đồng tử.
Thiếu máu > ½ chu vi rìa

Các biến số nghiên cứu chính: Ngoài các
biến số nền: Tuổi, giới, mắt bị bỏng, loại hóa
chất gây bỏng, thị lực... nghiên cứu nầy chủ
yếu đánh giá sự phục hồi biểu mô giác mạc

qua độ phù giác mạc và diện tích khiếm
khuyết biểu mô.
Độ Phù giác mạc (theo phân độ Hughes cải
biên

Độ 1: Tổn hại biểu mô, giác mạc trong.
Độ 2: Giác mạc mờ vẫn còn thấy những
chi tiết mống mắt.
Độ 3: Giác mạc mờ nhiều không thấy
những chi tiết mống mắt.
Độ 4: Đục giác mạc trắng đục, không
thấy những chi tiết mống.
Diện tích khuyết biểu mô giác mạc (chiều dài
đường kính dọc và ngang)

Diện tích khuyết giác mạc được đo trên
máy sinh hiển vi, thu hẹp khe sáng khoảng
100, chỉnh núm độ cao tia sáng giảm dần sao
cho vừa đường kính khuyết biểu mô. Ghi
nhận số trên núm, nhân với 10 (mm). Đo
đường kính ngang và cao.
Tỉ lệ liền biểu mô hoàn toàn = số bệnh liền
biểu mô hoàn toàn/ tổng số nhóm.
Cách lấy huyết thanh tự thân

Lấy 20ml máu của bênh nhân đem quay
ly tâm tốc độ 1500rpm trong 5 phút sẽ được
khoảng 10ml huyết thanh. Sau đó bơm huyết
thanh vào lọ thuốc nhỏ mắt, mỗi lọ 1ml
112


huyết thanh. Bên ngoài bọc giấy tránh ánh
sáng mặt trời và dán tên tuổi bệnh nhân. Tất
cả được tiến hành trong điều kiện vô trùng.
Bảo quản thuốc trong ngăn đá (-100C) và khi
sử dụng thì bảo quản lạnh (+40C) trong vòng
24 giờ.
Phương pháp thống kê

Biến số định lượng được trình bày bằng
số trung bình  độ lệch chuẩn. Biến số định
tính được trình bày bằng tỷ lệ % và khoảng
tin cậy 95%. Các test chi bình phương,
Fisher,s Exact test, t test được dùng để so
sánh các tỉ lệ, các số trung bình. Mức p < 0,05
được coi là khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tất
cả các thuật toán trên được thực hiện với
phần mềm SPSS for Window 13.5.
KẾT QUẢ
Đặc điểm của 2 nhóm trước điều trị
Nghiên cứu pilot nầy gồm 27 mắt của 22
bệnh nhân, chủ yếu là nam giới (87%), tuổi
trung bình là 37,08 ± 12,38 bị bỏng kiềm độ
II, III, được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm:
nhóm dùng HTTT nhỏ và nhóm dùng salein.
Đặc điểm lâm sàng trước điều trị được mô tả
trong bảng 2.
Bảng 2: So sánh đặc điểm trước điều trị của nhóm
HTTT nhỏ và nhóm sanlein.
Nhóm

HTTT
n = 14
Tuổi (Trb ± Đlc)
38,42
±13,12
Giới (% nam )
8, (72,7%)
Thị lực (n, %>1/10) 3, (21,3%)
Kh.BM.dài
7,86 ± 2,47
(mm, Trb± Đlc)
Kh.BM ngắn
6,36 ± 2,52
(mm, Trb± Đlc)
Tổn thương rìa
2 (14,3%)
(n; % > 1/3 rìa)
Biến số

Tổn thương kết
mạc (% > 1/3 rìa)

Nhóm nhỏ
sanlein
n = 13
35,75 ±
11,99
12 (100%)
2, (15,4%)
8,00 ± 2,12


P
0,61
(t test)

0,87
(t test)
7,07 ± 2,43
0,45
(t test)
2, (15,4%)
0,67
Fisher,s test
4, (28,6%) 3, (23,1%)
0,55
Fisher, s test

Độ trong giác mạc:

Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Nhóm
HTTT
n = 14

Biến số
n, (%)
Độ I

Độ II
Độ III

Nhóm nhỏ
sanlein
n = 13

5, (35,7 %) 5, (38,5%)
5, (35,7 %) 5, (38,5%)
4, (28,6 %) 3, (23,1%)

P

0,95
(2 test)

Nhận xét:
Tuổi trung bình của nhóm nhỏ HTTT là
38,42, không khác biệt so với nhóm nhỏ
sanlein 35,75 tuổi (p = 0,61).
Những đặc điểm tổn thương trước điều
trị của 2 nhóm điều không khác biệt có ý
nghĩa như: chiều ngang khuyết biểu mô (p =
0,87), chiều dọc của khuyết biểu mô (p =
0,45), độ mờ đục của nhu mô (p = 0,95), chu
vi rìa bị tổn thương (p = 0,67), diện tích kết
mạc tổn thương cạnh rìa (p = 0,55).
So sánh kết quả điều trị của 2 nhóm.

Nghiên cứu Y học


Nhận xét: Trong suốt 3 tuần điều trị, tốc
độ liền biểu mô trung bình của nhóm nhỏ
HTTT nhanh hơn (có chiều dài biểu mô
khuyết ngắn hơn) nhóm nhỏ sanlein, tuy
nhiên sự khác biệt nầy chỉ có ý nghĩa thống
kê ở thời điểm ngày thứ 6 (p = 0,048).
Tốc độ liền biểu mô theo chiều ngang: Được
tóm tắt trong bảng 4
Bảng 4: Tốc độ liền biểu mô của nhóm nhỏ HTTT và
nhóm nhỏ sanlein (chiều ngang).
Ngày
0
3
6
Nhóm
thứ
HTTT n 14 14
11
Kh,b, (m 6,3 ± 4,7 ± 3,3 ±
m m) 2,5 2,5 2,1
sanlei n 13 13
11
n
Kh,b, (m 7,0 ± 6,0 ± 5,2 ±
m m) 2,4 2,0 2,1
p (t test) 0,45 0,15 0,045

Tốc độ liền biểu mô giác mạc theo chiều dọc


9

12

15

18

21

5
5
4
3
2
3,8 ± 2,6 ± 2,7 ± 2,0 ± 2,5 ±
1,6 1,5 1,7
1
0,7
10
9
9
4
3
4,1 ± 3,6 ± 2,6 ± 3,5 ± 3,6 ±
1,5 1,8 1,8 2,3 2,5
0,74 0,28 0,93 0,36 0,58

HTTT


SANLEIN

8

Bảng 3: tiến triển liền biểu mô của nhóm nhỏ HTTT
và nhóm nhỏ sanlein (chiều dọc).
Ngày
Nhóm
thứ

0

3

HTTT n
Kh,b,m
(mm)
Sanlein n
Kh,b,m
(mm)
p (t test)

14
7,8 ±
2,4
13

2,1
0,87


6

9

12

15

18

21

Khuyết biểu mô (mm dọc)

6.3

6
5.2

5

4.7
4.1
3.8

4

3.6

3.3


3

3.6

3.5
2.7
2.6

2.6

2.5

2

2

1

0

3

6

9

12

15


18

21

Ngày

14
14
6
5,9 ± 3,5 ± 4 ±
2,6 2,3 1,7
13
13 10
7 ± 5,6 ± 5,4
2,2 2,7 ± 2
0,28 0,048 0,19
HTTT

5
4
4
4,2 ± 3,7 ± 2,2 ±
1,6 1,5 1,5
9
9
9
4,4 ± 4,1 ± 3,2 ±
2,2 2,3 2,8
0,83 0,78 0,48


2
4,0
3
5,6
±3
0,53

SALEIN

8
7.8

7

7

6

5.9

5.6

4

4.4
4.2

4
3.5


4.1
3.7

4
3.2

3

2.2

2
1
0
3

6

9

Biểu đồ 2: Tốc độ liền biểu mô của 2 nhóm theo chiều
ngang.

Nhận xét: Trong suốt 3 tuần điều trị, tốc
độ liền biểu mô trung bình của nhóm nhỏ
HTTT nhanh hơn (có chiều ngang biểu mô
khuyết ngắn hơn) nhóm nhỏ sanlein, tuy
nhiên sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa thống
kê ở thời điểm ngày thứ 6 (p = 0,045).


5.6

5.4

5

0

7

6

0

9
8

7
Khuyết biểu mô (mm ngang)

Tốc độ liền biểu mô giác mạc theo chiều
dọc được tóm tắt trong bảng 3

12

15

18

21


Ngày

Biểu đồ 1: Tốc độ liền biểu mô của 2 nhóm theo chiều dọc

Tỉ lệ liền biểu mô của 2 nhóm

Tỉ lệ liền biểu mô được tính bằng tỉ số
giữa số bệnh liền biểu mô hoàn toàn trên
tổng số bệnh của nhóm tại một thời điểm.
Theo đó, tỉ lệ liền biểu mô của 2 nhóm được
trình bày qua bảng 5 và biểu đồ 3.

Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011

113


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
HTTT

SA NLEI N

Series3

1.2

Tỉ lệ là

nh biểu mô (%)

1

1

0.857
0.8

0.786
0.71

0.769

0.69

0.64

0.6

0.57

0.4
0.307

0.307

0.23

0.2


0

0
6

9

12

15

18

21

Thờ i gian (ngà
y)

Biểu đồ 3: Tỉ lệ liền biểu mô hoàn toàn của 2 nhóm
theo thời gian.

Hình 1: Hình minh họa tiến triển điều trị của 2
nhóm

Bảng 5: Tỉ lệ liền biểu mô hoàn toàn của 2 nhóm theo
thời gian

BÀN LUẬN


Ngày

6

9

12

15

18

21

8/14

9/14

10/14 11/14 12/14

3/13

4/13

4/13

Nhóm
thứ
Liền
0/14

Tổng
sanlein Liền
0/13
Tổng
HTTT

9/13 10/13

Nhận xét:
Tỉ lệ liền biểu mô hoàn toàn của nhóm
HTTT nhỏ nhanh hơn so với nhóm dùng
sanlein trong 3 tuần đầu. Sau 3 tuần, nhóm
salein còn 3 bệnh, nhóm nhỏ HTTT còn 2
bệnh biểu mô chưa liền phải tiến hành ghép
màng ối.
So sánh độ phù giác mạc của 2 nhóm theo thời
gian

Được tóm tắt trong bảng 6. Theo đó
không có sự khác biệt về độ phù giác mạc
giữa 2 nhóm ở các thời điểm ngày thứ 7, thứ
14 và thứ 21 sau điều trị (p>0,05).
Bảng 6. Độ phù giác mạc của 2 nhóm theo thời gian.
Ngày thứ

0

7

14


21

Nhóm
Nhóm HTTT (n =14)

64,3 57,1 14,3

7,1

% phù GM độ II, III

114

Nhóm Sanlein (n = 13)%
phù GM độ II, III

61,5 46,2 15,4 14,4

2 (test)

0,95 0,76 0,93 0,59

Sự tương đương của 2 nhóm về mặt lâm
sàng
Sự hồi phục sau bỏng hóa chất, chủ yếu
phụ thuộc vào độ rộng và độ thấm sâu vào
nhãn cầu của tác nhân gây bỏng.
Về tổn thương ở bề mặt nhãn cầu, vai trò
của tế bào mầm ở vùng rìa và biểu mô kết

mạc cận kề rìa là hết sức quan trọng. Đối với
bỏng độ II, trong 3 tuần đầu nếu không điều
trị thích hợp, có thể có sự chậm tái biểu mô
hóa giác mạc. Với bỏng độ III, có thể có
khiếm khuyết biểu mô dai dẵng, tróc biểu
mô tái phát.
Về độ thấm sâu của hóa chất, tùy thuộc
mức độ tổn thương nhu mô (đánh giá qua độ
đục giác mạc), độ pH trong tiền phòng, cũng
như những biến chứng khác thêm vào mà
đánh giá độ nặng của bỏng.
Trong nghiên cứu này chúng tôi phân loại
2 nhóm một cách ngẫu nhiên dựa vào các
tiêu chí trên để đánh giá độ nặng của bỏng.
Bảng 2 cho thấy các đặc điểm lâm sàng trước
khi điều trị của 2 nhóm là tương đồng. Trong
quá trình điều trị, hai nhóm chỉ khác nhau ở
việc dùng HTTT nhỏ hay là sanlein nhỏ. Để
loại trừ bớt các yếu tố làm nặng thêm bệnh
nhất là độ thấm của hóa chất, tất cả các
trường hợp điều được dẫn lưu mắt bằng

Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
dung dịch ringer lactat hoặc rửa tiền phòng
cho đến khi pH trở về bình thường. Trong
quá trình điều trị, không có ca nào của 2
nhóm bị tăng áp, bội nhiễm... vốn có thể góp

phần vào việc chậm liền biểu mô hóa, và do
đó làm sai lệch kết quả nghiên cứu.
Hiệu quả của HTTT nhỏ trong quá trình
tái biểu mô hóa giác mạc sau bỏng hóa chất
Hiệu quả của HTTT nhỏ trong quá trình
tái biểu mô hóa giác mạc sau bỏng hóa chất
(kiềm) được chứng minh trong nghiên cứu
này qua so sánh tốc độ liền biểu mô giác
mạc, tỉ lệ liền biểu mô hoàn toàn theo thời
gian, và độ trong giác mạc của nhóm dùng
HTTT nhỏ với nhóm dùng sanlein nhỏ.
Về tốc độ liền biểu mô giác mạc theo cả
chiều dọc và ngang, bảng 3, bảng 4, và biểu
đồ 1, biểu đồ 2 cho thấy: Trong suốt 3 tuần
điều trị, tốc độ liền biểu mô trung bình của
nhóm nhỏ HTTT nhanh hơn nhóm nhỏ
sanlein, tuy nhiên sự khác biệt nầy chỉ có ý
nghĩa thống kê ở thời điểm ngày thứ 6 (p =
0,045).
Về tỉ lệ liền biểu mô của 2 nhóm, bảng 5
và biểu đồ 3 cho thấy nhóm HTTT nhỏ có tỉ
lệ liền biểu mô cao hơn với một tốc độ nhanh
hơn. Ở ngày thứ 9 của quá trình điều trị,
nhóm HTTT nhỏ có 57% bệnh nhân liền biểu
mô hoàn toàn, nhóm dùng sanlein chỉ có 23%
bệnh nhân liền. Ở ngày thứ 21, tỉ lệ nầy lần
lượt là 12/14 (85%) và 10/13 (76%).
Về độ phù giác mạc, bảng 6 cho thấy:
trong suốt quá trình điều trị, không có sự
khác biệt của 2 nhóm về sự cải thiện độ phù

giác mạc. Có thể HTTT không ưu thế hơn
Sanlein trong việc tái tạo nhu mô trong điều
trị bỏng hóa chất.

Nghiên cứu Y học

KẾT LUẬN
Tóm lại, dù chỉ mới là kết quả ban đầu
với một cỡ mẫu pilot nhỏ, nhưng nghiên cứu
đã cho thấy dùng HTTT nhỏ có hiệu quả hơn
dùng sanlein trong điều trị bỏng hóa chất độ
II, độ III về tốc độ và tỉ lệ liền biểu mô giác
mạc. Nghiên cứu đang được thực hiện tiếp
tục với cỡ mẫu thích hợp, lớn hơn, lúc đó,
huy vọng những kết luận rút ra sẽ có độ tin
cậy lớn hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.
4.

5.

6.

7.


8.
9.

10.

11.

12.

13.
14.

15.

Nishida T, Nakagawa S, Nishibiyashi C et al., (1984:) Fibronectin
enhancement of corneal epithelial wound healing of rabbits in
vivo. Arch Ophthalmol 102, pp. 455–456.
Nishida T, Nakagawa S, Watanabe K et al., (1988): A peptide
from fibronectin cell-binding domain inhibits attachment of
epithelial cells. Invest Ophthalmol Vis Sci 29, pp. 1820–1825.
Fujikawa LS, Foster CS, Harrist TJ, et al: Fibronectin in healing
rabbit corneal wounds. Lab Invest 45: 1120–1129, 198
Fujisawa K, Katakami C, Yamamoto M. (1990): Effect of
epidermal growth factor on epithelial cells and keratocytes
during wound healing of alkali-burned cornea. Invest Ophthalmol
Vis Sci 31, p. 225 (Suppl) .
Nishida T, Nakagawa S, Nishibiyashi C et al. (1984): Fibronectin
enhancement of corneal epithelial wound healing of rabbits in
vivo. Arch Ophthalmol 102, pp. 455–456.
Phan TM, Foster CS, Boruchoff SA et al. (1987): Topical

fibronectin in the treatment of persistent corneal epithelial
defects and trophic ulcers. Am J Ophthalmol 104, pp. 494–501.
Phan TM, Foster CS, Shaw CD et al. (1991): Topical fibronectin in
an alkali burn model of corneal ulceration in rabbits. Arch
Ophthalmol 109, pp. 414–419.
Spigelman AW, Vernot AJ, Deutsch TA et al. (1985): Fibronectin
in alkali burns of the rabbit cornea. Cornea 4, pp. 169–173.
Tenn PF, Fujikawa LS, Dweck MD et al. (1985): and Fibronectin
in alkali-burned rabbit cornea: enhancement of epithelial wound
healing. Invest Ophthalmol Vis Sci 26, p. 92 (Suppl).
Reim M, Busse S, Leber M, Schultz C. (1988): Effect of epidermal
growth factor in severe experimental alkali burns. Ophthalmic
Res 20, pp. 327–331.
G.A. Singh and C.S. Foster, Epidermal growth factor in
alkaliburned corneal epithelial wound healing. Am J Ophthalmol
103 (1987), pp. 802–807
Reim M, Busse S, Leber M, Schultz C. (1988): Effect of epidermal
growth factor in severe experimental alkali burns. Ophthalmic
Res 20, pp. 327–331
Schultz GS, Davis JB and Eiferman RA. (1988): Growth factors
and corneal epithelium. Cornea 7, pp. 96–101.
Geerling G, MacLennan S, Hartwig D. (2004): Autologous serum
eye drops for ocular surface disorders. Br J Ophthalmol 88: 14671474
Geerling G, Hartwig D. (2006): Autologous Serum Eyedrops for
Ocular Surface Disorders in T. Reinhard, D.F.P. Larkin. Cornea
and External Eye Disease. Springer-Verlag Berlin Heidelberg.

Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011

115



Nghiên cứu Y học
16.

17.

18.

116

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

Tsubota K, Goto E, Fujita H, et al. (1999): Treatment of dry eye
by autologous serum application in Sjo¨gren’s syndrome. Br J
Ophthalmol;83:390–5.
Poon AC, Geerling G, Dart JK, et al. (2001): Autologous serum
eyedrops for dry eyes and epithelial defects: clinical and in vitro
toxicity studies. Br J Ophthalmol ;85:1188–97.
Vajpayee RB, Mukerji N, Tandon R et al. (2003): Persistent
corneal epithelial Evaluation of umbilical cord. Br J Ophthalmol
87: 1312-1316

19.

20.

AL Young AL, Cheng ACO et al. (2004): The use of autologous
serum tears in persistent corneal epithelial defects. Eye 18, 609–
614.

Chiang CC, Chen WL, Lin JM, Tsai YY. (2009): Allogeneic serum
eye drops for the treatment of persistent corneal epithelial defect.
Eye 23(2) 290 – 293.

Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011



×