TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN DÁNG ĐI
VÀ THĂNG BẰNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI
Hồ Thị Kim Thanh1,2, Hoàng Thị Phương Nam2
1
Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Lão khoa Trung ương
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát một số yếu tố liên quan đến rối loạn dáng đi và thăng
bằng ở người cao tuổi. Điều tra cắt ngang 290 bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương
cho thấy tuổi càng cao nguy cơ có rối loạn dáng đi càng tăng. So với nhóm từ 60 – 69 tuổi, nhóm 70 - 79 tuổi
có nguy cơ bị rối loạn dáng đi cao gấp 2,15 lần, nhóm 80 – 90 tuổi có nguy cơ bị rối loạn dáng đi cao gấp
12,39 lần. Không nhận thấy mối liên quan giữa giới tính và BMI đến rối loạn dáng đi. Rối loạn giấc ngủ và
giảm thị giác, thính giác làm tăng nguy cơ rối loạn dáng đi (OR tương ứng là 5,51; 3,46; 3,63).Số điểm đánh
giá suy giảm nhận thức càng thấp mức độ rối loạn dáng đi càng cao. Những bệnh nhân có teo cơ, hạ huyết
áp tư thế, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não, rối loạn tiền đình, đái tháo đường type 2 làm tăng nguy cơ
rối loạn dáng đi tương ứng là 6,28; 11,6; 2,56; 17,75; 4,37; 1,77 lần. Số bệnh mắc phải, số thuốc phải dùng
càng lớn tỷ lệ rối loạn dáng đi càng tăng. Như vậy cần có sự điều chỉnh toàn diện để điều trị các yếu tố nguy
cơ và phòng tránh ngã.
Từ khóa: rối loạn dáng đi và thăng bằng, người cao tuổi, ngã
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện tượng ngã thường gặp ở người cao
huyết áp tư thế đứng (9%). Đột quỵ là nguyên
tuổi, gây nhiều hậu quả như gãy xương, chấn
nhân thần kinh phổ biến nhất. Có nhiều
phương pháp đánh giá rối loạn dáng đi và
thương, kích hoạt đợt cấp của bệnh, giảm vận
động sau ngã, mất độc lập trong hoạt động,
tâm lý sợ hãi và giảm chất lượng sống [1].
Nguy cơ cao nhất gây ngã là do rối loạn dáng
đi, thăng bằng [2]. Rối loạn dáng đi do nhiều
nguyên nhân gây ra, thường được chia làm 2
nhóm do thần kinh và không do thần kinh [3;
4; 5]. Trong nhóm các nguyên nhân không do
thần kinh thường gặp viêm khớp hoặc biến
dạng khớp, bệnh tim, bệnh phổi mạn tính và
bệnh mạch máu ngoại vi. Trong một nghiên
cứu tỷ lệ rối loạn dáng đi và thăng bằng gặp ở
75% bệnh nhân lớn tuổi [6]. Trong nghiên cứu
này bệnh nhân tự báo cáo gặp khó khăn trong
đi bộ, hầu hết do viêm khớp (37%) và hạ
Địa chỉ liên hệ: Hồ Thị Kim Thanh, Bộ môn Lão khoa,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email:
Ngày nhận: 30/11/2016
Ngày được chấp thuận: 26/2/2017
116
thăng bằng cho người cao tuổi nhưng thang
điểm Tinetti được sử dụng phổ biến. Thang
điểm gồm 9 mục đánh giá thăng bằng (tối đa
16 điểm), 7 mục đánh giá dáng đi (tối đa 12
điểm), tổng điểm là 28 điểm [4]. Thời gian
thực hiện khoảng 10 phút, đơn giản, dễ thực
hiện và ít có khác biệt trong nhận định và
đánh giá triệu chứng của các nhân viên y tế
khác nhau là những ưu điểm nổi trội của việc
sử dụng bảng điểm Tinetti trong thực hành
lâm sàng. Các bác sĩ chẩn đoán được rối
loạn dáng đi và tìm được nguyên nhân sẽ
giúp ngăn ngừa các rối loạn chức năng, hạn
chế tình trạng mất độc lập, làm giảm nguy cơ
ngã và tử vong do ngã của bệnh nhân [7; 8].
Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm:
tìm hiểu các yếu tố liên quan đến rối loạn
dáng đi và thăng bằng ở người cao tuổi điều
trị nội trú tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương.
TCNCYH 106 (1) - 2017
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
+ Suy giảm nhận thức nhẹ: 20 - 23 điểm.
+ Suy giảm nhận thức vừa: 14 - 19 điểm.
1. Đối tượng
+ Suy giảm nhận thức nặng: 0 - 13 điểm.
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Đánh giá rối loạn dáng đi và thăng bằng,
Bệnh nhân trên 60 tuổi, còn khả năng đi
nguy cơ ngã thông qua bảng điểm Tinettii,
lại. Lấy mẫu ngẫu nhiên từ các khoa phòng
chẩn đoán có rối loạn dáng đi khi điểm thành
phần dáng đi < 9 điểm.
điều trị nội trú trong vòng 1 tuần từ khi nhập
viện. Các bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên
cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Xử lý số liệu: bằng chương trình SPSS
phiên bản 15.0.
3. Đạo đức nghiên cứu
Bệnh nhân có thị lực < 1/10, hoặc đếm
ngón tay dưới 1 m ở 1 hoặc 2 mắt.
Nghiên cứu tuân thủ các qui tắc về đạo
đức trong nghiên cứu y sinh. Các đối tượng
2. Phương pháp: dịch tễ học mô tả, cắt
ngang.
nghiên cứu đồng thuận tham gia và có thể rút
- Bệnh nhân được khám và làm bệnh án
về đối tượng cũng như kết quả nghiên cứu
lui bất kỳ khi nào nếu không đồng ý. Thông tin
nghiên cứu theo mẫu thống nhất.
- Khai thác tiền sử ngã, tiền sử mắc các
được bảo mật theo qui định.
bệnh mạn tính có liên quan đến rối loạn dáng
III. KẾT QUẢ
đi và thăng bằng.
Điều tra 290 người cao tuổi nhập viện điều
- Khám nội khoa tổng thể, thị giác, thính
giác, làm các xét nghiệm, thăm dò tại Bệnh
viện Lão khoa Trung ương.
trị tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương, có 210
người có rối loạn dáng đi (72,4%).
Tuổi trung bình của nhóm có rối loạn dáng
- Bệnh nhân được làm test MMSE (MiniMental State Examination) để đánh giá suy
giảm nhận thức.
đi cao hơn nhóm không có rối loạn dáng đi, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tuổi càng cao
nguy cơ mắc rối loạn dáng đi càng tăng,
+ Không có suy giảm nhận thức: ≥ 24 điểm.
(p = 0,001) (bảng 1).
Bảng 1. Tỷ lệ rối loạn dáng đi theo nhóm tuổi
RLDĐ (n = 210)
Không RLDĐ (n = 80)
Tuổi
OR
95%CI
58,75
1
-
26
32,50
2,51
1,39 - 4,52
7
8,75
12,39
3,65 - 42,04
n
%
n
%
60 – 69
62
29,52
47
70 – 79
80
38,10
≥ 80
68
32,38
Tuổi TB ± ĐLC
75 ± 9
69 ±7
P
0,001
0,001
*RLDĐ: rối loạn dáng đi; TB: trung bình; ĐLC: độ lệch chuẩn.
TCNCYH 106 (1) - 2017
117
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 2. Liên quan giữa suy giảm giác quan và rối loạn tâm thần với rối loạn dáng đi
RLDĐ
Không RLDĐ
Bệnh lý
OR
n = 210
%
n = 80
%
Không
204
72,34
78
27,66
1
Có
6
75
2
25
1,18
Không
130
64,36
72
35,64
1
Có
80
90,9
8
0,01
5,51
Không
33
52,38
30
46,62
Có
177
77,97
50
22,03
3,46
Không
108
63,15
63
36,85
1
Có
102
85,71
17
14,29
3,63
Trầm cảm
p
0,87
Rối loạn giấc ngủ
0,0001
1
Giảm thị lực
0,0001
Giảm thính lực
0,0001
*RLDĐ: rối loạn dáng đi.
Rối loạn dáng đi liên quan chặt chẽ với giảm thị lực, thính lực và rối loạn giấc ngủ.
Bảng 3. Mối liên quan giữa điểm MMSE và rối loạn dáng đi
Rối loạn dáng đi
Không rối loạn dáng đi
Điểm MMSE
p
n = 210
%
n = 80
%
≥ 24
102
57,63
75
42,37
20 – 23
66
92,96
5
7,04
14 – 19
31
100
0
0
0 – 13
11
100
0
0
0,0001
MMSE TB ± ĐLC
22,72 ± 4,89
28,52 ± 7,75
0,0001
* TB: trung bình; ĐLC: độ lệch chuẩn; MMSE: điểm đánh giá suy giảm nhận thức.
Suy giảm nhận thức có mối liên quan chặt chẽ với rối loạn dáng đi. Điểm MMSE càng thấp thì
tỷ lệ rối loạn dáng đi càng cao (p = 0,0001).
Người bệnh bị hạ huyết áp tư thế và tăng huyết áp lần lượt có nguy cơ rối loạn dáng đi tăng
11,6 lần và 2,56 lần. Nguy cơ rối loạn dáng đi ở những người bị tai biến mạch máu não, rối loạn
tiền đình lần lượt cao gấp 17,75 lần và 4,37 lần so với những người không có bệnh lý thần kinh
(p = 0,001) (bảng 4).
118
TCNCYH 106 (1) - 2017
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 4. Liên quan giữa một số bệnh lý với rối loạn dáng đi
RLDĐ
Không RLDĐ
Bệnh lý
OR
95% CI
29,6
1
-
2
33,33
1,22
0,14 – 4,4
88,12
12
11,88
1
-
121
64,02
68
35,98
1,77
1,11 - 2,5
Không
178
73,25
65
26,75
1
-
Có
32
68,1
15
31,9
0,58
0,21- 1,56
Không
161
70,61
67
29,39
1
-
Có
49
79,03
13
20,97
0,57
0,43 – 5,73
Không
149
67,42
72
32,58
1
-
Có
51
92,7
4
7,3
6,28
Hạ huyết
Không
38
56,72
29
43,28
1
áp tư thế
Có
15
93,75
1
6,25
11,6
Tăng
Không
38
56,72
29
43,28
1
-
-
huyết áp
Có
146
75,65
47
24,35
2,56
0,22 - 23,51
0,001
Không
69
52,27
63
47,73
1
-
-
Có
122
91,73
11
8,27
17,75
11,9 - 43,5
0,0001
Rối loạn
Không
69
52,27
63
47,73
1
-
-
tiền đình
Có
10
76,92
3
23,08
4,37
1,13 - 16,9
0,001
n
%
n
%
Không
176
70,4
74
Có
4
66,67
Đái tháo
Không
89
đường
Có
Thừa cân,
béo phì
P
COPD
0,17
0,0001
0,92
Thiếu máu
0,36
-
Teo cơ
Tai biến
mạch máu
2,18 - 18,12
0,0001
-
-
1,44 - 93,14
0,0001
*RLDĐ: rối loạn dáng đi.
Bảng 5. Mối liên quan giữa số bệnh mắc phải, số thuốc phải dùng với rối loạn dáng đi
n
OR
Số bệnh (n)
1
n+1
2,32
Số thuốc
1
n+1
1,03
TCNCYH 106 (1) - 2017
p
95%CI
0,00
1,74 - 3,11
0,00
1,74 - 3,12
119
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Khi tổng số bệnh mà bệnh nhân mắc phải tăng lên 1 bệnh thì nguy cơ bị rối loạn dáng đi tăng
lên 2,32 lần (95% CI = 1,74 – 3,11; p < 0,05), tăng thêm 1 thuốc thì nguy cơ bị rối loạn dáng đi
tăng lên 1,03 lần và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
IV. BÀN LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận
như một loại thuốc bắt buộc trong quá trình
điều trị khá cao.
thấy có khá nhiều các yếu tố tác động, chi
Những bệnh nhân bị teo yếu cơ có nguy
phối, làm tăng nguy cơ mắc rối loạn dáng đi
cơ rối loạn dáng đi cao gấp 6,28 lần so với
hoặc làm nặng thêm các biểu hiện của rối loạn
những người không mắc bệnh và sự khác biệt
dáng đi.
này có ý nghĩa thống kê. Theo tổng kết của
Nghiên cứu trên 290 người cao tuổi thấy
Laurence, tình trạng teo yếu cơ là nguy cơ
tuổi càng cao nguy cơ bị rối loạn dáng đi càng
quan trọng, thường gặp đối với các cá nhân bị
tăng. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu
ngã. Những người có teo yếu cơ tăng nguy cơ
của các tác giả khác: tuổi trung bình ở nhóm
ngã trung bình gấp 4,9 lần [12]. Một phân tích
có rối loạn dáng đi là 62,7 ± 14,9 năm cao hơn
gộp từ 30 nghiên cứu đánh giá tác động của
so với nhóm không có rối loạn dáng đi là 49,5
tình trạng teo yếu cơ lên rối loạn dáng đi và
± 16 năm, ở tuổi 60 có 15% người có rối loạn
ngã cho thấy nếu người bệnh có tình trạng
dáng đi nhưng khi đến 85 tuổi thì tỷ lệ này là
yếu cơ chi dưới thì nguy cơ ngã là 1,76 lần,
82% [9; 11]. Tăng thêm một tuổi thì nguy cơ
đối với yếu cơ chi trên thì nguy cơ này gấp
ngã do rối loạn dáng đi tăng thêm 1,04 lần
3,06 lần. Việc thực hiện các bài tập tăng
[10].
cường cơ bắp là cần thiết để ngăn ngừa nguy
Những người giảm thị lực có nguy cơ mắc
cơ ngã ở người cao tuổi [2]. Các chương trình
rối loạn dáng đi tăng gấp 3,46 lần so với nhóm
điều trị hoặc tập luyện thể chất, đi bộ có thể
không giảm thị lực. Laurence tổng kết từ 16
cải thiện sức mạnh và chức năng hệ cơ. Các
nghiên cứu, kết luận nguy cơ ngã ở người có
cá nhân cần được khuyến khích vận động cơ
giảm thị lực tăng gấp 2,8 lần so với nhóm thị
thể, có thể chỉ cần đi bộ một vài phút mỗi
lực tốt, tỷ lệ dao động từ 1,1 đến 7,4 lần [12].
ngày, miễn là sự tập luyện có thể được thực
Những bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ thì
hiện một cách an toàn hợp lý [14].
nguy cơ bị rối loạn dáng đi tăng gấp 3,63 lần.
Người bệnh bị hạ huyết áp tư thế và tăng
Rối loạn giấc ngủ bao gồm ngủ ít, dễ thức
huyết áp lần lượt có nguy cơ rối loạn dáng đi
giấc, khó ngủ ảnh hưởng không nhỏ đến việc
cao gấp 11,6 lần và 2,56 lần so với những
tiếp nhận thông tin từ môi trường và xử lý để
người không có. Hạ huyết áp tư thế là một
duy trì dáng đi bình thường. Việc sử dụng
trong những nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao.
thuốc an thần – hệ quả trực tiếp do rối loạn
Nghiên cứu gộp từ 16 nghiên cứu can thiệp
giấc ngủ gây ra cũng là một nguyên nhân trực
thấy người hạ huyết áp tư thế có nguy cơ ngã
tiếp tác động đến khả năng đi lại của người
trung bình cao hơn nhóm không bị là 1,9 lần
bệnh [13]. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ bệnh
[12]. Bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ
nhân có nhu cầu sử dụng benzodiazepam
rối loạn dáng đi cao hơn 1,77 lần so với
120
TCNCYH 106 (1) - 2017
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
những người không mắc đái tháo đường và
Lời cảm ơn
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các tác giả
khác cũng thấy đái tháo đường có liên quan
đến tốc độ đi bộ và chiều rộng của bước đi, do
đái tháo đường tác động lên các hệ thống
khác nhau của cơ thể, ảnh hưởng đến chức
Xin chân thành cảm ơn Bệnh viện Lão
khoa Trung ương đã tạo điều kiện cho chúng
tôi thu thập số liệu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
năng vận động thần kinh ngoại vi [15].
Nghiên cứu này cho thấy nguy cơ rối loạn
dáng đi ở những người bị tai biến mạch máu
não, rối loạn tiền đình lần lượt cao gấp 17,75
lần, 4,37 lần so với những người không có
bệnh lý thần kinh. Tỷ lệ rối loạn dáng đi cao
hơn ở nhóm có điểm MMSE thấp, chứng tỏ
suy giảm nhận thức ảnh hưởng sâu sắc đến
việc duy trì một dáng đi bình thường. Kết quả
này phù hợp với các tác giả khác [16]. Gleason nhận thấy người lớn tuổi trong cộng đồng
cứ giảm một điểm MMSE thì có nguy cơ ngã
tăng thêm 20% [10].
Người cao tuổi có đặc điểm đa bệnh lý và
dùng nhiều loại thuốc một lúc, đó chính là yếu
tố nguy cơ gây ngã và rối loạn dáng đi. Trong
nghiên cứu này, mỗi người bệnh có số lượng
thuốc trung bình đang sử dụng là 4,74 ± 1,99
loại thuốc. Khi số thuốc phải uống tăng lên 1
thuốc thì nguy cơ bị rối loạn dáng đi tăng lên
1,03 lần, số bệnh kèm mắc tăng thêm 1 bệnh
thì nguy cơ rối loạn dáng đi tăng 2,32 lần.
Giảm sử dụng các thuốc hướng thần làm
1. Mary E. Tinetti, Dorothy I. Baker, Gail
McAvay (1994). A Multifactorial Intervention to
Reduce the Risk of Falling among Elderly
People Living in the Community. Jounal of
Medicine, 331, 821 - 827.
2. Dietz, V (1997). Neurophysiology of gait
disorders: present and future applications.
Electroencephalography and clinical Neurophysiology, 103, 333 - 355.
3. Joe Verghese, Anne F Ambrose, Richard B Lipton, Cuiling Wang (2010). Neurological Gait Abnormalities And Risk Of Falls In
Older Adults. Journal of Neurology, 257(3),
392 - 398.
4. Anke H Snijders, B.P.v.d.W., Nir Giladi, Bastiaan R Bloem (2007). Neurological
gait disorders in elderly people: clinical approach and classifi cation. Lancet Neurology.
6, 63 – 74.
5. Jong Sam Baik, M. Anthony, E. Lang
(2007). Gait Abnormalities in Psychogenic
Movement Disorders. Movement Disorders, 22
(3), 395 - 399.
giảm nguy cơ bị ngã.
6. Andrew S.D (2000). Gait Disorders and
Fall Risk: Detection and Prevention. Comp
V. KẾT LUẬN
Ther, 26(4), 238 – 245.
teo cơ, hạ huyết áp tư thế, tăng huyết áp, tai
7. John G. Nutt, Bastiaan R. Bloem
(2011). Miles tones in Gait, Balance, and Falling. Movement Disorders, 26(6)..
8. Brooke Salzman, T.J (2010). Gait and
Balance Disorders in Older Adults. American
biến mạch máu não, rối loạn tiền đình, sử
Family Physician, 82(1), 61 - 68.
dụng nhiều thuốc, mắc nhiều bệnh phối hợp.
Cần có sự điều chỉnh toàn diện để phòng
9. Colón-Emeric, C.S (2002). Falls in
Older Adults: Assessment and Intervention in
tránh ngã.
Primary Care. JCOM, 8(3), 48 - 58.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ rối loạn dáng
đi và thăng bằng là tuổi, rối loạn giấc ngủ,
giảm thị giác, thính giác, suy giảm nhận thức,
TCNCYH 106 (1) - 2017
121
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
10. Susan W. Muir, K.G., Manuel M et al
(2012). The role of cognitive impairment in fall
Holt (2006). Gait Characteristics of Elderly
People With a History of Falls: A Dynamic Ap-
risk among older adults: a systematic review
proach. Physical Therapy, 86(11), 1501 - 1510.
and meta-analysis. Age and Ageing, 41,
14. Moreland JD, R.J., Goldsmith CH
(2004). Muscle weakness and falls in older
adults: a systematic review and meta-analysis.
299 - 308.
11. Manuel Montero-Odasso, Gustavo
Duque, Enrique R Soriano (2005). Gait disorders are associated with non-cardiovascular
falls in elderly people: a preliminary study.
BMC Geriatrics, 1, 5 - 15.
12. Laurence Z. Rubenstein, K.R.J.,
Alan S. Robbins (1994). Falls in the Nursing
Home. American College of Physicians, 121
(6), 442 - 451.
13.
Yaron Barak, R.C.W.a., Kenneth G
J Am Geriatr Soc, 52(7), 1121 - 1129.
15. Jennifer S Brach, J.B.T., Elsa S
Strotmeyer et al (2008). Diabetes Mellitus
and Gait Dysfunction: Possible Explanatory
Factors. American Physical Therapy, 88(11),
1365 – 1374.
16. Henning Stolze, S.K (2004). Prevalence of Gait Disorders in Hospitalized Neurological Patients. Movement Disorder Society.
20(1), 89 - 94.
Summary
RISK FACTORS OF GAIT DISORDERS IN ELDERLY PEOPLE
The study was conducted on 290 elderly inpatients in Vietnam National Geriatric Hospital to
determine gait and balance disorders risk factors in elderly inpatients. The results showed that the
prevalence of gait dysfunction was increased as aging. As compared with group aged 60 - 69, the
group aged 70 - 79 have gait disorder risks increased 2.15 fold and the group aged 80 - 90 increased 12.39 fold. No relation between gait disorders with BMI nor sex. Poor sleep, impaired
vision/hearing, dementia, postural hypotension. Hypertension, stroke, polypharmacy, multicomorbidities were related with higher risk of gait and balance disorders with OR 5.51, 3.46, 3.63, 6.28;
11.6; 2.56; 17.75. That means gait disorder risk factor in older inpatients were age, poor sleep
impaired vision/hearing, dementia, postural hypotension, hypertension, stroke, polypharmacy,
multicomorbidities. Health care professional should pay attention on prevention risk factors as
soon as patients admission to hospital.
Key words: Gait Disorders, older people, falls
122
TCNCYH 106 (1) - 2017