Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI NGUY CƠ GÂY TĂNG HUYẾT ÁP Ở NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HAI XÃ THUỘC HUYỆN PHÚ LƯƠNG TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.42 KB, 86 trang )


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Song song với sự phát triển kinh tế xã hội, những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật trên thế giới nói chung và y học nói riêng đã làm cho chất lượng cuộc sống
của con người ngày càng nâng cao làm thay đổi nhanh chóng các mô hình bệnh
tật. Hiện nay ở nước ta, tỷ lệ các bệnh truyền nhiễm có xu hướng giảm đi và các
bệnh không lây nhiễm đang dần tăng lên đặc biệt các bệnh về tim mạch trong đó
có tăng huyết áp. Tăng huyết áp (THA) là bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở
Việt Nam là nguyên nhân gây tàn phế và tử vong hàng đầu ở người cao tuổi, là
mối đe dọa tới sức khỏe con người [41]. Các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt
Nam đang chỉ ra THA đang trở thành một vấn đề thời sự vì sự gia tăng nhanh
chóng của căn bệnh này trong cộng đồng.
Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trên thế giới có khoảng
1,5 tỷ người bị THA và có tới 7,5 triệu người tử vong do biến chứng THA. Hiện
tại tỷ lệ THA của NCT ở một số nước như sau: Bangladesh là 65%, tỉ lệ THA ở
những người 60 tuổi ở Hoa Kỳ là 54%, tăng lên 65% ở lứa tuổi 70 [41], Mexico
là 43% [6], Ấn Độ từ 55%-72% [44].
Tại Việt Nam, tần suất THA ở người lớn ngày càng gia tăng. Trong những
năm 1960 tỷ lệ THA khoảng 1%, năm 1992 là 11,2% năm 2001 là 16,3% năm
2005 là 18,3%. Theo một điều tra gần đây nhất của Viện Tim Mạch Việt Nam tại
8 tỉnh/thành phố của nước ta thì tỷ lệ THA của những người từ 25 tuổi trở lên đã
là 25,1%. Nghĩa là cứ 4 người trưởng thành thì có 1 người bị THA. Với dân số
hiện nay của Việt Nam khoảng 88 triệu dân thì có khoảng 11 triệu người bị
THA. Viện chiến lược và chính sách y tế năm 2006 đã đưa ra tỉ lệ THA ở người
cao tuổi qua điều tra 7 tỉnh trong cả nước (bao gồm Sơn La, Hải Dương, Hà
Tĩnh, Ninh Thuận, Đắc Lăk, Bà Rịa Vũng Tàu, Vĩnh Long) là 28,4% [5]. Nghiên


3



cứu năm 2009 tại huyện Sóc Sơn Hà Nội ở người cao tuổi cho thấy tỉ lệ THA là
49,8% [21]. Hoàng Văn Ngoạn năm 2009 nghiên cứu 219 người cao tuổi tỉ lệ
THA là 48,86% [25]. THA gây biến chứng cho 62% bệnh về mạch máu não,
49% bệnh tim thiếu máu cục bộ. Nếu tổ chức tốt việc dự phòng và điều trị THA
thì sẽ giảm được 40% nguy cơ đột quỵ và 15% nguy cơ nhồi máu cơ tim [14].
THA không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng tới
sức khỏe thậm chí có thể gây tử vong, là gánh nặng cho gia đình và toàn xã hội.
Xã Động Đạt và Thị trấn Đu là hai xã thuộc huyện miền núi Phú Lương,
tỉnh Thái Nguyên. Tại đây đời sống kinh tế của người dân còn nhiều khó khăn,
các chương trình thực hiện phòng chống bệnh THA đã được thực hiện song hiệu
quả chưa cao. Câu hỏi đặt ra là hành vi nguy cơ gây THA của người cao tuổi tại
hai xã thuộc huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên hiện nay ra sao? Yếu tố nào
liên quan tới các hành vi này? Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu:
“Thực trạng một số hành vi nguy cơ gây tăng huyết áp ở người cao tuổi tại hai
xã thuộc huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên và một số yếu tố liên quan”.
Với các mục tiêu sau:
1. Mô tả một số hành vi nguy cơ gây tăng huyết áp ở người cao tuổi tại hai
xã thuộc huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên năm 2013.
2. Xác định một số yếu tố liên quan tới hành vi nguy cơ gây tăng huyết áp ở
người cao tuổi tại hai xã huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên năm 2013.

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Định nghĩa và phân loại THA


4

1.1.1. Định nghĩa THA

Tăng huyết áp là tình trạng huyết áp luôn tăng cao hơn so với mức binh
thường. Theo tổ chức y tế thế giới và hội tăng huyết áp quốc tế (Word Heath
Organization- WHO và Society of Hypertensin-ISH) đã thống nhất gọi là tăng
huyết áp khi huyết áp tâm thu ≥140 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥90
mmHg.
1.1.2. Phân loại tăng huyết áp
Liên ủy ban quốc gia về dự phòng đánh giá,điều trị tăng huyết áp Hoa Kỳ
(Join National Committee- JNC) đã đưa ra các phân loại hơi khác qua các kỳ họp
(JNC IV 1988, JNC V 1993, JNC VI 1997) và gần đây nhất JNC VII 2003 chia
tăng huyết áp như sau [31]:
Bảng 1.1 : Phân độ tăng huyết áp theo JNCVII (2003)
Phân độ THA

HATT (mmHg)

HATTr ( mmHg)

< 120

<80

Tiền THA

120 – 139

80 - 90

THA độ I

140 – 159


90 – 99

THA độ II

≥ 160

≥ 100

Bình thường

Hiện nay trên thế giới có nhiều cách phân loại tăng huyết áp khác nhau.
Theo WHO/ISH (2003) chia tăng huyết áp làm 3 độ [6],[46]
Bảng 1.2: Phân độ tăng huyết áp ở người trưởng thành theo WHO/ISH:
Độ THA
Độ I
Độ II
Độ III

HATT (mmHg)
140 -159
160 -179
≥ 180

HATTr (mmHg)
90 -99
100 -109
≥ 110



5

Năm 2008, hội tim mạch học Việt Nam đã đưa ra cách phân độ tăng huyết
áp như sau [7]:
Bảng 1.3: Phân độ tăng huyết áp theo hội tim mạch học Việt Nam
Phân loại
HA tối ưu
HA bình thường
HA bình thường- cao
THA độ I
THA độ II
THA độ III
THA tâm thu đơn độc

HATT ( mmHg)
< 120
< 130
130 – 139
140 – 159
160 – 179
≥ 180
≥ 140

HATTr (mmHg)
<80
80 – 85
85 – 89
90 – 99
100 – 109
≥ 110

< 90

1.2. Một số yếu tố nguy cơ tăng huyết áp :
Rất nhiều yếu tố nguy cơ góp phần làm tăng huyết áp, trong đó có các yếu
tố không thể thay đổi được như tiền sử gia đình, tuổi cao, chủng tộc. Các yếu tố
khác về lối sống như uống nhiều rượu, sử dụng nhiều muối, dùng ít Kali, Magie,
Canxi, thường xuyên bị stress, hay sử dụng các thuốc tránh thai là nguy cơ có thể
thay đổi được. Các yếu tố này tương tác với nhau và góp phần phát triển bệnh.
- Vấn đề gen trong THA : trong nhiều trường hợp bệnh THA có tính chất
gia đình, nhất là họ hàng gần. Trị số huyết áp của những người trong cùng một
gia đình rất giống nhau. Mức huyết áp có tương quan với nhau giữa những thành
viên trong gia đình, thường được quy cho bộ gen chung, cùng hoàn cảnh sống,
cùng thói quen sinh hoạt [44]. Năm 1994 – 1995 quản lý 100 đối tượng THA
trong ngành bưu điện cho thấy yếu tố gia đình cũng là yếu tố nguy cơ cao của
THA [16].


6

- Yếu tố ăn uống, ăn nhiều muối, ăn ít protit, uống nước mềm ít Ca ++,
Mg++, K+. Trong đó nổi bật và được thừa nhận là sự liên quan giữa ion Na+ và
tần suất bệnh THA. Ion Na+ làm THA qua trung gian gia tăng thể tích máu và
nhất là qua sự co thắt mạch máu. Chế độ ăn tác động tới huyết áp động mạch qua
nhiều khâu, đặc biệt là các chất như natri, kali, canxi.
Trong chế độ ăn đáng lưu ý nhất là muối, thực chất là natri vì muối ăn là
natri clorua. Nhu cầu hang ngày của cơ thể chỉ cần 4g muối nhưng trong thực tế
chúng ta thường ăn nhiều hơn mức này do thói quen ăn mặn dễ hơn ăn nhạt. trên
thế giới người ta thấy ở những vùng mà người dân ăn quá nhiều muối thì tần suất
bệnh THA tăng cao rõ rệt so với các vùng khác. Ở nước ta nghiên cứu của Lê
Viết Định (1992) ở tỉnh Khánh Hòa cho thấy tần suất bệnh tăng rõ ở vùng biển

(11,7%) nơi mà người dân ăn nhiều muối hơn so với đồng bằng và vùng núi
(8,33%) [7]. Nghiên cứu của Bùi Đức Long (2006) cho thấy trong số những
người ăn mặn có tới 28,9% bị THA cao hơn những người không ăn mặn
(16,4%), người ăn mặn có nguy cơ THA gấp 2,1 lần so với người bình thường
[22].
- Rượu: WHO đã khuyến cáo “rượu làm THA và đó là yếu tố nguy cơ của
tai biến mạch máu não, thường phối hợp với bệnh tim, loạn nhịp tim, tăng xuất
huyết não. Nếu uống rượu điều độ chỉ ở mức 10g ethanol x 1-3 lần/ngày thì có
thể chấp nhận được, ở mức trên 3 lần/ngày (>30g ethanol) có bằng chứng có hại
cả về sinh học lẫ xã hội” [13].
- Hút thuốc lá trên 10 điếu/ngày, uống rượu trên 100 ml/ngày liên tục
trong 3 năm là những nguy cơ gây THA. Khói thuốc lá có chứa nicotin, mỗi điếu


7

thuốc lá chứa 25 mg nicotin. Khi vào cơ thể nicotin sẽ kích thích hạch giao cảm
gây tăng tiết adrenalin và noradrenalin là chất gây co mạch ngoại vi đồng thời
trong thuốc lá có nhiều chất độc khác làm tăng Cholesterol máu đảy nhanh sự
phát triển của xơ vữa động mạch gây THA. Hút nhiều có thể gây THA kịch phát
rất nguy hiểm, HA sẽ tăng thường xuyên ở những người hút thuốc lá nhiều đặc
biệt là những người hút trên 20 điếu mỗi ngày [42]. Nicotin làm tim đập nhanh
hơn, co tim phải co bóp nhiều hơn. Oxyd carbon có trong khói thuốc lá làm máu
giảm cung cấp oxy cho các tế bào và cùng với áp lực tăng sẵn của dòng máu khi
bị THA càng gây tổn thương thêm các tế bào lớp nội mạc của động mạch và tạo
điều kiện cho bệnh xơ vữa động mạch phát triển [7].
- Yếu tố tâm lý xã hội, có tình trạng căng thẳng (stress) thường xuyên. Khi
bị căng thẳng thần kinh, hệ thần kinh giao cảm tăng cường hoạt động giải phóng
ra adrenalin và noradrenalin làm tim tăng co bóp, nhịp tim đập nhanh hơn, động
mạch nhỏ co lại và làm huyết áp tăng, trên nền bệnh THA thì gây cơn THA kịch

phát. Môi trường có tiêng ồn cường độ lớn liên tục cũng gây stress và làm huyết
áp tăng.
- Tiền sử gia đình: những người có thành viên trong gia đình bị THA sẽ có
nguy cơ cao gấp 2 lần so với người bình thường.
- Tuổi: người cao tuổi có nguy cơ mắc THA cao hơn người trẻ tuổi. Các
quá trình lão hóa góp phần làm THA bao gồm xơ cứng thành động mạch, giảm
tính nhạy cảm của các thụ thể, tăng sức cản ngoại vi, giảm dòng máu tới thận.
1.3. Cơ chế sinh bệnh của THA.
1.3.1. Cơ chế bệnh sinh của THA nguyên phát


8

Chiếm khoảng 95% bệnh nhân THA. Tăng huyết áp nguyên phát còn gọi
là THA vô căn. Cơ chế bệnh sinh đến nay vẫn chưa được rõ ràng. Tăng huyết áp
động mạch thường kèm theo những biến đổi về sinh lý bệnh liên quan đến hệ
thần kinh giao cảm, thận, renin-angiotensin và các cơ chế huyết động, dịch thể
khác.
• Biến đổi về huyết động:
- Tần số tim tăng, lưu lượng tim tăng dần, thời kỳ đầu có hiện tượng co
mạch để phân bổ lại máu lưu thông từ ngoại vi về tim phổi do đó sức cản mạch
máu cũng tăng dần. Tim có những biểu hiện tăng hoạt động bù trừ và dẫn đến
dày thất trái. Huyết áp và sức cản ngoại biên toàn bộ tăng dần. Lưu lượng tim và
lưu lượng tâm thu càng giảm, cuối cùng đưa đến suy tim.
- Trong các biến đổi về huyết động, hệ thống động mạch thường bị tổn
thương sớm cả toàn bộ.
- Tại thận, tăng sức cản mạch thận, giảm lưu lượng máu tại thận chức
năng thận suy giảm.
- Tại não, lưu lượng vẫn giữ được thăng bằng trong một giới hạn nhất
định ở thời kỳ có tăng huyết áp rõ.

- Khi huyết áp tăng, sức cản ngoại biên tăng thể tích huyết tương có xu
hướng giảm cho đến khi thận suy thể tích dịch trong máu tăng có thể dẫn đến
phù.


Biến đổi về thần kinh:


9

Ở thời kỳ đầu ảnh hưởng của hệ giao cảm biểu hiện ở sự tăng tần số tim
và sự tăng lưu lượng tim. Sự hoạt động của hệ thần kinh giao cảm còn biểu hiện
ở lượng Catecholamine trong huyết tương và dịch não tủy như adrenaline, noadrenaline, tuy vậy nồng độ các chất này cũng rất thay đổi trong bệnh THA.
- Hệ thần kinh tự động giao cảm được điều khiển bới hệ thần kinh trung
ương hành não-tủy sống và cả hai hệ này liên hệ nhau qua trung gian các thụ
cảm áp lực. Trong THA các thụ cảm áp lực được điều chỉnh đến mức cao nhất
và với ngưỡng nhạy cảm cao nhất.


Biến đổi về dịch thể
- Hệ Renin-Angiotensine Aldosterone (RAA): Hiện nay đã được chứng
minh có vai trò quan trọng do ngoài tác dụng ngoại vi còn có tác dụng trung
ương ở não gây THA qua các thụ thể angiotensine II (UNGER-1981, M. PINT,
1982). Có tác giả chia THA nguyên phát dựa vào nồng độ renine cao, thấp trong
huyết tương, có sự tỷ lệ nghịch giữa nồng độ renine-angiotensine II trong huyết
tương và tuổi.
- Angiotensine II được tổng hợp từ angiotesinegène ở gan và dưới tác
dụng renine sẽ tạo thành angiotesine I rồi chuyển thành angiotesine II là một chất
co mạch rất mạnh và làm tăng tiết aldosterone. Sự phóng thích renine được điều
khiển qua ba yếu tố: -Áp lực tưới máu thận - lượng Na+ đến từ ống lượn xa và

hệ thần kinh giao cảm. Sự thăm dò hệ R.A.A, dựa vào sự định lượng renine trực
tiếp huyết tương hay gián tiếp phản ứng miễn dịch và angiotensine II, nhưng tốt
nhất là qua tác dụng của các ức chế men chuyển.


10

- Vasopressin (ADH): có vai trò khá rõ ràng trong cơ chế sinh bệnh THA
có tác dụng trung ương giảm huyết áp (qua trung gian sự tăng tính nhạy cảm
thần kinh trung ương đối với phản xạ áp từ xoang động mạch cảnh và quai động
mạch chủ) tác dụng ngoại vi co mạch (trực tiếp và qua hoạt hóa các sợi
Adrenergic) (J.F. Liard, 1982. B.Bohns,1982).
- Chất Prostaglandin: tác dụng trung ương làm THA, tác dụng ngoại vi
làm giảm huyết áp (F.H. UNGER, 1981; MA Petty, 1982).
- Ngoài ra còn có vai trò của hệ Kalli-Krein Kinin (K.K.K) trong bệnh
THA và một số hệ có vai trò chưa rõ như: hệ Angiotensine trong não và các
encephaline, hệ cường dopamine biến đổi hoạt động thụ cảm áp lực. Một cơ chế
điều hòa liên quan đến các thụ thể Imidazolique ở trung ương và ngoại biên đã
được ghi nhận từ những năm 80 với sự xuất hiện thuốc huyết áp tác dụng lên thụ
cảm Imidazole gây dãn mạch [4].
1.3.2. Cơ chế sinh bệnh của THA thứ phát
Chiếm khoảng 5% bệnh nhân THA, có nguyên nhân rõ ràng đó là:
- Bệnh thận ở nhu mô thận đều có thể gây THA thứ phát.
- U tủy thượng thận là nguyên nhân hiếm gặp gây THA (chiếm tỷ lệ 1%2%).
- THA do dị dạng động mạch thận là nguyên nhân phổ biến thứ hai gây
THA thứ phát.


11


- Do cường Aldosteron và hội chứng cushing.
- Hẹp eo động mạch chủ.
- THA ở phụ nữ có thai: Bệnh THA xuất hiện hoặc nặng lên trong thời kỳ
thai nghén và là một trong những nguyên nhân gây tử vong cho bà mẹ và thai
nhi. Tỷ lệ tử vong ở bà mẹ là 10%, của con là 33%.
- Sử dụng estrogen: Nguyên nhân phổ biến gây THA do yếu tố nội tiết
khác là việc dung viên thuốc tránh thai kéo dài có chứa estrogen, đây cũng là
dạng phổ biến nhất của THA thứ phát.
- Các nguyên nhân khác: THA kếp hợp với tăng Kali máu, tăng canxi máu
do cường tuyến cận giáp [4].
1.4. Biểu hiện của tăng huyết áp
- Đa số bệnh nhân bị THA không có triệu chứng gì cho đến khi phát hiện
ra bệnh: hay gặp nhất là đau đầu vùng chẩm và hai thái dương. Ngoài ra có thể
gặp các triệu chứng khác như: hội hộp, mệt mỏi, khó thở, mờ mắt…..nhưng
không đặc hiệu. Một số triệu chứng khác của THA tùy thuộc vào nguyên nhân
THA hoặc biến chứng của THA.
- Đo huyết áp là động tác quan trọng nhất có ý nghĩa chẩn đoán xác định.
Phương pháp Korotkoff dùng huyết áp kế thủy ngân hoặc các loại huyết áp khác
được chuẩn lại 6 tháng/lần. Số đo huyết áp được đánh giá theo tiêu chuẩn của hội
tim mạch học Việt Nam như sau :


12

Tại phòng khám: Khi bệnh nhân có trị số HA ≥ 140/90mmHg. Sau khám
lại lâm sàng ít nhất 2 lần hoặc 3 lần khác nhau. Mỗi lần khám được đo ít nhất 2
lần.
Tại nhà khi đo nhiều lần đúng phương pháp có trị số HA > 135/85mmHg
- Dấu hiệu lâm sàng khác : Bệnh nhân có thể béo phì, mặt tròn, cơ chi trên
phát triển hơn cơ chi dưới trong hẹp eo động mạch chủ. Tìm các biểu hiện xơ

vữa động mạch trên da (u vàng, u mỡ,cung giác mạc…..)
- Khám tim phổi có thể phát hiện sớm dầy thất trái hay dấu hiệu suy tim
trái. Sờ và nghe động mạch để phát hiện các trường hợp nghẽn hay tắc động
mạch cảnh.
- Cần chú ý hiện tượng « huyết áp giả » ở những người già đái đường, suy
thận do xơ cứng vách động mạch làm trị số huyết áp đo được lớn hơn trị số
huyết áp nội mạch.
- Khám bụng có thể phát hiện tiếng thổi tâm thu hai bên rốn trong hẹp
động mạch thận, phồng động mạch chủ hoặc phát hiện thân to, thận đa nang.
- Khám thần kinh có thể phát hiện các tai biến mạch máu não cũ hoặc nhẹ.
1.5. Biến chứng của tăng huyết áp
1.5.1. Tim mạch
Suy tim và bệnh mạch vành là hai biến chứng chính và là nguyên nhân
gây tử vong cao nhất đối với THA.
- Dầy thất trái là biến chứng sớm do thất trái phải đối phó với sức cản
ngoại vi nên gia tăng sức co bóp làm công tim tăng lên và vách cơ tim dầy ra.
Bệnh nhân bị suy tim trái với triệu chứng khó thở khi gắng sức, hen tim, phù


13

phổi cấp sau đó chuyển sang suy tim toàn bộ: phù, gan to, tĩnh mạch cổ nổi, Xquang và điện tim có dấu hiệu dày thất phải.
- Suy mạch vành biểu hiện cơn đau thắt ngực điển hình, loạn nhịp tim.
Điện tim có ST chênh xuống dưới đường đẳng điện ở các chuyển đạo trược tim
bên trái. Nhồi máu cơ tim cấp sẽ xuất hiện sóng Q hoại tử.
1.5.2. Não
Tai biến mạch máu não thường gặp như nhũn não, xuất huyết não có thể
gây tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề. Tai biến mạch máu não thoáng qua
với những triệu chứng thần kinh khu trú chỉ kéo dài không quá 24h hoặc bệnh
não do THA với lú lẫn hôn mê kèm theo co giật, nôn mửa, nhức đầu dữ dội.

1.5.3. Thận
THA gây xơ vữa động mạch thận sớm và nhanh, làm xơ thận dần dẫn đến
suy thận. THA gây nên hoại tử dạng tơ huyết tiểu động mạch thận là nguyên
nhân của THA ác tính và đặc biệt THA làm thiếu máu cục bộ nặng ở thận sẽ dẫn
đến nồng độ Angiotensin II trong máu tăng gây cường Aldosteron thứ phát.
1.5.4. Mạch máu
THA là yếu tố sinh xơ vữa động mạch, tạo điều kiện cho sự hình thành xơ
vữa động mạch. Ngoài ra THA gây phồng động mạch chủ, bóc tách dễ dẫn đến
nguy cơ vỡ động mạch đe dọa tính mạng người bệnh.
1.5.5. Mắt
Khám đáy mắt là rất quan trọng vì nó là dấu hiệu tốt để tiên lượng. Theo
Keith- Wagener. Backer có 4 giai đoạn tổn thương đáy mắt:





Giai doạn 1: tiểu động mạch cứng và bóng
Giai doạn 2: tiểu động mạch hẹp và có dấu hiệu bắt chéo (gunn).
Giai đoạn 3: xuất huyết và xuất tiết võng mạc nhưng chưa có phù gai.
Giai đoạn 4: phù lan tỏa gai thị [4].


14

1.6. Quản lý, giáo dục về bệnh tăng huyết áp
Theo quan điểm của các bác sĩ tim mạch đặc biệt là các bác sĩ điều trị
THA tại cộng đồng:
Để quản lý tốt bệnh THA cần: khám định kỳ để phát hiện được bệnh THA
và các bệnh liên quan. Chú ý những người có yếu tố nguy cơ mắc bệnh cao. Đối

với những người THA cần chặt chẽ hơn nữa về chế độ ăn uống nghỉ ngơi, theo
dõi huyết áp đều đặn. Giáo dục sức khỏe để người dân hiểu tầm quan trọng của
việc tuân thủ điều trị.
1.6.1. Thay đổi lối sống của bệnh nhân đã bị tăng huyết áp
Áp dụng thay đổi lối sống cho mọi bệnh nhân THA hoặc người có huyết
áp bình thường cao hoặc có tiền sử gia đình có THA. Tác dụng của phương thức
này tương đương với uống một loại thuốc và hiệu quả tăng lên khi kết hợp nhiều
cách thay đổi lối sống. Tuy nhiên để đạt được và duy trì được sự thay đổi lối
sống không dễ dàng.





Điều chỉnh chế độ ăn uống: hạn chế muối và chất béo trong khẩu phần ăn.
Giảm cân nặng hợp lý đối với những người thừa cân béo phì.
Vận động hợp lý: thường xuyên tạp thể dục thể thao, tham gia các câu lạc bộ
Bỏ thuốc lá, rượu bia: hút thuốc lá làm tăng nguy cơ xơ vữa động mạch và THA.
Bỏ thuốc lá ở bất cứ thời điểm nào cũng có lợi. Điều này đúng với cả hút thuốc
lá chủ động và bị động.
Truyền thông về tăng huyết áp ở các buổi họp mặt cho người cao tuổi, họp
hội phụ nữ, họp thôn xóm.
Quản lý chặt chẽ bệnh nhân bị THA tại xã cũng như những người có nguy
cơ THA, cấp phát thuốc đều dặn theo quy định.
Cần thường xuyên cập nhật những tài liệu mới về THA tới tận tay cán bộ
y tế.


15


1.6.2. Tuân thủ chế độ thuốc
Các chuyên gia về tim mạch cho biết, trong quá trình điều trị THA, tình
trạng bệnh nhân tự ý bỏ thuốc là phổ biến. Với suy nghĩ huyết áp hạ và ổn định
rồi thì không cần phải uống thuốc nữa. Nhiều trường hợp huyết áp ổn định trong
thời gian dài có khi tới 3-5 nằm làm cho người bệnh yên tâm, chủ quan không
dùng thuốc nữa, nhưng bất ngờ huyết áp lại tăng lên đột ngột khiến cho nhiều
người bị tai biến mạch máu não, thậm chí tử vong. Nhiều trường hợp, thời gian
đầu uống thuốc rất nghiêm chỉnh, tuân thủ theo chỉ định của thầy thuốc, khi thấy
huyết áp ổn định đã tự ý giảm liều. Do đó vấn đề tuân thủ đúng chế độ thuốc là
vấn đề rất quan trọng trong việc kiểm soát huyết áp và giảm các biến chứng do
bệnh THA gây ra. Cần có sự phối hợp giữa gia đình và y tế trong việc nhắ nhở
bệnh nhân uống thuốc đầy đủ, đi khám định kỳ theo hẹn và đi lấy thuốc đầy đủ.
1.7. Tình hình về hành vi nguy cơ gây THA và tình hình THA ở một số nước
trên thế giới
Theo số liệu thống kê của Tổ chức y tế thế giới, THA ảnh hưởng tới sức
khỏe của hơn 1 tỷ người trên toàn thế giới và là yếu tố nguy cơ tim mạch quan
trọng nhất liên quan đến bệnh mạch vành, suy tim, bệnh mạch máu não và bệnh
thận mạn tính. THA là một trong những vấn đề quan trọng đối với sức khỏe công
đồng. Tỷ lệ người mắc THA ở Âu - Mỹ là 15 – 20%. Hoa Kỳ từ năm 1988 –
1991 có 20,4% người trên 18 tuổi bị THA. Năm 2005, trong số 17,5 triệu người
tử vong do các bệnh tim mạch thì THA là nguyên nhân trực tiếp gây tử vong của
7,1 triệu người. [36]
Năm 1978, trên thế giới tỷ lệ mắc THA chiếm khoảng 10 - 15% dân số và
ước tính đến 2025 là 29%. Tại Hoa Kỳ, hàng năm chi phí cho phòng chống bệnh


16

THA trên 259 tỷ đô la Mỹ [34]. Từ những năm 70, chính phủ Hoa Kỳ và các cơ
quan chức năng đã sớm đề xuất và thực hiện các biện pháp can thiệp cho THA

và kết quả là họ đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh cũng như tỷ lệ tử vong do
các bệnh tim mạch có liên quan đến THA. Từ năm 1970 – 1994, nhờ các chương
trình can thiệp và quản lý các yếu tố nguy cơ và THA nên tỷ lệ tử vong do tai
biến mạch máu não đã giảm được 50 – 60 % và tỷ lệ tử vong do các bệnh mạch
vành cũng giảm khoảng 40 – 50%.
Tại Trung Quốc, từ năm 1991 – 2000, Bộ Y Tế đã tiến hành chương trình
đái tháo đường và THA tại cộng đồng của 3 thành phố lớn là Bắc Kinh, Thượng
Hải và Quảng Châu. Kết quả của điều tra sức khỏe năm 2001 cho thấy tỷ lệ phát
hiện sớn THA tăng từ 26,3% lên 44,7%. Tỷ lệ người dân bị THA được điều trị
tăng từ 12,1% lên 28,2% và tỷ lệ kiểm soát được huyết áp về bình thường tăng từ
2,8% lên 8,1%. Các biến chứng do THA gây ra cũng giảm đáng kể trong chương
trình này: tỷ lệ mới mắc tai biến mạch máu giảm được 52% ở nam giới và 53% ở
nữ giới, tỷ lệ tử vong chung do đột quỵ cũng giảm được 54%. Năm 1995, chính
phủ Trung Quốc phối hợp với Tổ Chức Y Tế thế giới và Ngân Hàng thế giới
tiến hành chương trình tuyên truyền giáo dục và dự phòng bệnh không lây nhiễm
giai đoạn 1996 – 2002 tại 7 tỉnh thành phố lớn nhất của Trung Quốc bao gồm
khoảng 90 triệu dân. Kết quả cho thấy chương trình này đã giúp làm giảm tỷ lệ
người lớn hút thuốc lá từ 29% xuống còn 13%, tăng tỷ lệ người dân có thói quen
tập luyện thể dục thường xuyên từ 41% lên 84%, tăng tỷ lệ phát hiện sớm tăng
huyết áp thêm 15%, giảm 50% tỷ lệ các biến chứng về tim mạch và đột quỵ ở
người dân có THA [35].
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tần suất mắc bệnh THA trong
cộng đồng rất cao ở các nước kinh tế phát triển, tại Hoa Kỳ (năm 1988 - 1991) tỷ


17

lệ tăng huyết áp ở người lớn là 20,4%, tại Pháp (năm 1994) là 41,0%, tại Canada
(năm 1995) là 22% và tại ấn Độ (năm 1997) là 23,7% [35].
Theo WHO năm 2001, có khoảng 140 triệu người trên thế giới nghiện

rượu, 400 triệu người sử dụng rượu ở mức nguy hại dẫn đến tai nạn và tử vong,
rượu bia gây ra 4% gánh nặng bệnh tật và 3,2% tổng số tử vong toàn cầu, là
nguyên nhân gây ra hơn 60 loại bệnh. Thiệt hại về kinh tế do rượu bia chiếm từ 2
- 6% GDP của các nước đó là còn chưa kể tới tổn thất không thể ước tính được
về mặt xã hội khác [37].
Theo thông báo của WHO (1990) có tới 30 – 40 % nam giới và 20 – 40%
nữ giới hút thuốc lá ở các nước phát triển, 40 – 70 % nam giới và 2 – 10 % nữ
giới hút thuốc lá ở các nước đang phát triển. Thuốc lá giết chết một nứa số người
sử dụng nó. Một nửa số này chết ở tuổi trung niên. Trung bình một ngày trên thế
giới có 10.000 người chết do sử dụng thuốc lá tương đương với 10 máy bay loại
lớn chở khách bị tai nạn mỗi ngày.
Theo Beilin và cộng sự cho thấy việc hút thuốc lá làm tăng nguy cơ nhồi
máu cơ tim lên 4 lần, đột tử lên 5 lần, tai biến mạch máu não lên 1,5 lần và nguy
cơ mắc bệnh THA lên cao gấp 1,45 lần so với người không hút thuốc lá, người
uống nhiều rượu (≥30 lần/tuần) có nguy cơ THA gấp 2 lần so với người không
uống rượu [38].
Theo tác giả Theodore A Kotchen (2001) nếu giảm lượng muối ăn sẽ giảm
nguy cơ THA 20% trong vòng 3 – 4 năm [43].
Các thử nghiệm cho thấy rằng ăn nhiều muối (trên 14g/ngày) sẽ gây THA
trong khi ăn ít muối (dưới 1g/ngày) gây giảm HA động mạch. Theo WHO
(1990) nên ăn dưới 6g/ngày. Hạn chế muối trong khẩu phần ăn hàng ngày là một


18

trong những biện pháp dễ nhất để phòng ngừa THA và cách điều trị mà không
phải dùng thuốc tốt nhất [46].
1.8. Tình hình các hành vi nguy cơ gây THA và tăng huyết áp tại Việt Nam
Tỷ lệ THA tại Việt Nam đang ngày càng gia tăng. Theo thống kê của giáo
sư Đặng Văn Chung năm 1960, tần suất THA ở người lớn phía bắc Việt Nam chỉ

là 1% và hơn 30 năm sau (năm 1992), theo điều tra trên toàn quốc gia của Trần
Đỗ Trinh và cộng sự thì tỉ lệ này đã là 11,7%, tăng lên hơn 11 lần và mỗi năm
tăng trung bình 0,33%. Và 10 năm sau (năm 2002) theo điều tra dịch tễ học tăng
huyết áp và các yếu tố nguy cơ tại 4 tỉnh phia bắc Việt Nam ở người dân lớn hơn
hoặc bằng 25 tuổi thì tần suất THA đã tăng lên đến 16,3%, trung bình tăng mỗi
năm 0,46% [36]. Như vậy, tốc độ gia tăng về tỷ lệ THA trong cộng đồng ngày
càng gia tăng. Tỷ lệ THA ở vùng thành thị là 22,7%, cao hơn vùng nông thôn
(12,3%). Với dân số hiện nay khoảng 84 triệu người (2007), Việt Nam ước tính
có khoảng 6,85 triệu người bị THA, nếu không có các biện pháp dự phòng quản
lý hữu hiệu thì đến năm 2025 sẽ có khoảng 10 triệu người Việt Nam bị THA.
Theo điều tra tại phường Phương Mai Quận Đống Đa Hà Nội cho thấy: tỷ
lệ THA ở các nhóm có yếu tố nguy cơ như sau:
Ăn mặn: 38,1%,

không ăn mặn: 36,8%

Uống rượu: 50%

không uống rượu: 36,5%

Ăn mỡ động vật: 50%

không ăn mỡ động vât: 35,2%

Tập thể dục > 30 phút/ ngày: 34,5%
Tập thể dục < 30 phút/ ngày: 43,7% [26]
Có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến THA trong cộng đồng như: tuổi cao, hút
thuốc lá, uống nhiều rượu bia, khẩu phần ăn không hợp lý (ăn mặn, ăn nhiều chất



19

béo…) ít hoạt động thể lực, béo phì, căng thẳng trong cuộc sống, rối loạn lipid
máu, tiểu dường, tiền sử gia đình có người bị THA ….
Hành vi hút thuốc lá
Theo nghiên cứu của Pham Gia Khải và cộng sự ở vùng đồng bằng Thái
Bình các yếu tố nguy cơ bao gồm: hút thuốc lá, uống rượu, ăn mặn, nghiên cứu
trên các đối tượng nghiện thuốc lá, có 1450 người chiếm tỷ lệ 19,03% (nam:
1399 người chiếm 96,48%, nữ 51 người chiếm 3,51%). Số điếu hút trung bình là
22,14 ± 4,7 điếu/ngày tức khoảng 1 bao (20 điếu)/ngày/người. Tỷ lệ THA chung
ở nhóm những người nghiện thuốc lá là 15,86% [20].
Theo nghiên cứu của Đặng Xuân Tín và cộng sự thì tỷ lệ NCT có hút
thuốc lá hàng ngày (19,6%) [32]. Theo Phạm Thu Hiền điều tra tại Phổ Yên Thái
Nguyên cho thấy: tỷ lệ NCT hút thuốc lá chiếm 15,4% [12]. Đinh Thị Hương và
cộng sự tiến hành nghiên cứu tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên năm 2007
cho thấy: tỷ lệ NCT hay hút thuốc lá hàng ngày cũng khá cao (14,3%) [15].
Hành vi uống rượu bia
Ở Việt Nam tỷ lệ lạm dụng rượu ước tính 8% dân số và 4% là nghiện rượu
[3]. Rượu được hấp thu nhanh qua đường tiêu hoá, chủ yếu đoạn đầu ruột non và
đạt hàm lượng trong máu cao nhất sau khi uống từ 30 đến 90 phút. Đã có một số
nghiên cứu được báo cáo về sự liên quan của uống rượu nhiều và THA, nhưng
cơ chế của liên quan này vẫn còn chưa rõ ràng. Có những ý kiến chưa thống nhất
nhưng đa số thừa nhận uống nhiều rượu làm THA. Một số nghiên cứu cho thấy
THA ở 20-30% số người lạm dụng rượu [3]. Hơn nữa rượu còn có thể gây rối
loạn nhịp tim, rối loạn điều hoà lipoprotein và triglycerid, làm tăng nguy cơ nhồi


20

máu cơ tim và các bệnh lý về mạch máu. Vùng nào tiêu thụ nhiều rượu, nơi đó

nhiều người bị THA [10].
Theo nghiên cứu của Phạm Thu Hiền điều tra tại Phổ Yên Thái Nguyên
cho thấy: tỷ lệ NCT uống rượu bia chiếm tỉ lệ cao 27,7% [12]. Đinh Thị Hương
và cộng sự tiến hành nghiên cứu tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên năm 2007
cho thấy: tỷ lệ NCT có uống rượu và thỉnh thoảng hay uống rượu chiếm tỷ lệ
tương đối cao (26,8% và 51%) [15].
Hành vi ăn mặn
Muốn sống được cơ thể con người cần có muối, nhưng ăn quá nhiều sẽ
làm ứ nước trong cơ thể, tăng khối lượng tuần hoàn gây tình trạng THA. Một số
nghiên cứu về khẩu phần ăn từng vùng, các nhà nghiên cứu thấy rằng vùng nào
ăn nhiều muối thì tỷ lệ THA cũng cao hơn.
Theo nghiên cứu của Hoàng Văn Ngoạn điều tra tại Huế năm 2009 cho
thấy: tỷ lệ NCT biết mình ăn mặn hơn so với các thành viên khác trong gia đình
chiếm 14,6% [25].
Ở các vùng ven biển nước ta, người dân chủ yếu là lao động tay chân nên
họ có thói quen ăn mặn. Theo một nghiên cứu ở Nghệ An là nơi người dân có
thói quen ăn mặn, mỗi ngày trung bình ăn 13,9g muối thì có 10,6% bị THA [9].
Một số nghiên cứu cho thấy: vùng ven biển ăn mặn có tỷ lệ THA cao rõ hơn
vùng đồng bằng và miền núi.
Phần lớn những yếu tố nguy cơ này có thể kiểm soát được khi người dân
có hiểu biết đúng và biết được cách phòng tránh. Nhưng theo điều tra dịch tễ


21

năm 2002 của Viện tim mạch Việt Nam 77% người dân hiểu sai về bệnh THA.
Hiểu biết của người dân ở nông thôn kém hơn của thành thị [36].
Ở nước ta cho đến nay, các hoạt dộng y tế hiện mới chỉ tập trung cho công
tác điều tri bệnh tại các bệnh viện. Các mô hình dự phòng, ghi nhận và quản lý
bệnh THA tại cộng đồng tuy đã hoạt dộng tích cực nhưng chưa đạt hiệu quả

mong muốn. Công tác truyền thông về bệnh THA tại cộng đồng chưa sâu rộng,
các hoạt động điều tra dịch tễ, đào tạo cán bộ cho công tác phòng chống THA tại
các cơ sở còn nhiều hạn chế. Ngân sách đầu tư cho công tác quản lý THA tại
cộng đồng hầu như còn khiêm tốn.


22

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Những người tuổi từ 60 trở lên đang sinh sống tại xã Động Đạt và Thị
Trấn Đu, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Phú Lương giáp huyện Định Hóa về phía tây bắc, huyện Đại Từ về phía
tây nam, huyện Đồng Hỷ về phía đông, thành phố Thái Nguyênvề phía nam và
huyện Chợ Mới (tỉnh Bắc Kạn) về phía đông bắc.
- Đu là thị trấn huyện lị của huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Việt
Nam. Thị trấn nằm tại trung tâm địa lý của huyện và kéo dài theo chiều bắc-nam,
dọc theo quốc lộ 3. Ngoại trừ một phần phía nam giáp với xã Phấn Mễ, Phú
Lương, thị trấn Đu được xã Động Đạt bao quanh các mặt còn lại và ngược lại,
thị trấn Đu dường như tách xã Động Đạt thành hai phần tách biệt nhau.
Theo niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 1999-2003, thị trấn Đu có diện
tích 2,13 km², dân số là 4177 người, mật độ dân cư đạt 1962 người/km².
- Động Đạt là một xã thuộc huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Theo
Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 1999-2003, xã Động Đạt có diện tích
40,34 km², dân số là 9874 người, mật độ cư trú đạt 244 người/km².


23


2.3. Thời gian nghiên cứu
Thời gian từ tháng 12/2012 đến tháng 5/2013.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
2.4.2. Phương pháp chọn mẫu
• Cỡ mẫu
Đơn vị mẫu là người cao tuổi, n được tính theo công thức sau:

n = Z 21−α / 2

p.q
d2

Chọn α = 0,05 (độ tin cậy 95%)
Tra bảng ta có Z² 1 – α / 2 = 1,96
d = 0,05
Chọn ước lượng p = 50% = 0,5
Ta có: q = 1 – p = 1 – 0,5 = 0,5
Thay vào công thức ta tính được n = 384 người làm tròn 400 người.
Vậy mỗi xã lấy 200 người.
• Kỹ thuật chọn mẫu:
Chọn chủ đích : xã Động Đạt và thị trấn Đu, huyện Phú Lương, tỉnh Thái
Nguyên.
Thống kê danh sách người từ 60 tuổi trở lên theo danh sách của xã, sau đó
lập danh sách theo bảng số ngẫu nhiên. Tính khoảng cách mẫu sau đó chiếu theo
danh sách chọn theo khoảng cách mẫu đã tính, lấy đến đủ số lượng thì thôi.
Tiêu chí chọn mẫu:
+ Tuổi: 60 trở lên.



24

+ Đồng ý trả lời phỏng vấn.
Tiêu chí loại ra:
+ Người không đồng ý trả lời phỏng vấn.
+ Có rối loạn tâm thần hoặc câm điếc.
+ Có biến chứng như: nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.
+ Có bệnh lý khác kèm theo: đái tháo đường, bệnh nội tiết khác.
2.5. Chỉ tiêu nghiên cứu
- Một số thông tin nhân khẩu học: họ tên, tuổi, giới, nghề nghiệp, dân tộc,
trình độ học vấn, hộ nghèo, số thành viên trong gia đình, số thế hệ.
+ Tuổi được chia làm 2 nhóm: Nhóm 1: dưới 70 tuổi, nhóm 2: từ 70 tuổi
trở lên.
+ Nghề nghiệp được chia làm 3 nhóm: nông dân, hưu trí, khác.
+ Dân tộc được chia làm 2 nhóm: Kinh, DTTS.
+ Trình độ học vấn chia làm 2 nhóm:
• Nhóm 1: dưới THCS trở xuống. Bao gồm những đối tượng: là
những người không biết đọc, không biết viết, chưa học hết hoặc đã
học hết lớp 4/10 hoặc 5/12.
• Nhóm 2: từ cấp 2 trở lên: là những người học hết lớp 7/10 hoặc
9/10, lớp10/10 hoặc 12/12 hoặc học hết ĐH, CĐ, THCN.
+ Hộ nghèo: Ngày 30/1/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 09/2011/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp
dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 [1]. Những hộ NCT ở Phú Lương được cấp sổ
hộ nghèo theo quy định hiện hành là hộ nghèo.
- Hành vi của đối tượng nghiên cứu: uống rượu/bia, hút thuốc lá, ăn mỡ,
ăn mặn.



25

+ Thông tin về thói quen hút thuốc lá: bằng cách hỏi đối tượng có hút
thuốc không, thời gian hút được bao lâu, số lượng hút hiện tại, có ý định bỏ
thuốc lá không.
Nếu đang hút thuốc thì phân lọai :
Hút ít

: < 5 điếu/ngày

Hút vừa

: 5 – 20 điếu/ngày

Hút nhiều

: > 20 điếu/ngày

+ Thông tin về thói quen uống rượu: bằng cách hỏi đối tượng có uống
rượu không, thời gian uống được bao lâu, tần suất uống hiện tại, có ý định bỏ
uống rượu không.
Nếu uống rượu thì phân loại :
Uống ít

: < 200ml/ngày

Uống vừa

: 200 – 500 ml/ngày


Uống nhiều

: >500 ml/ngày

+ Thói quen ăn uống: bằng cách hỏi đối tượng có ăn mặn hơn so với mọi
người không, thường dùng thức ăn xào rán không. Loại dầu mỡ hiện đang dùng,
có chế độ ăn giảm mặn giảm béo không.
- Tìm hiểu về mức độ hiểu biết THA: bằng cách hỏi biết THA là bao
nhiêu, biểu hiện, biến chứng, các yếu tố nguy cơ. Kiến thức tốt về bệnh là trả lời
đúng ≥80% các chỉ tiêu trên, kiến thức mức trung bình là trả lời đúng 60 – 79%
và kiến thức kém là trả lời đúng <60% các chỉ tiêu trên [39].
- Tìm hiểu thái độ của người bệnh về dự phòng THA: theo 3 mức độ:
đồng ý, không rõ ràng, không đồng ý. Nhận thức tốt về bệnh là nhận thức đúng
≥80% các chỉ tiêu trên, nhận thức mức trung bình là nhận thức đúng 60 - 79% và
nhận thức kém là nhận thức đúng <60% các chỉ tiêu trên [39].


×