Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Khảo sát mối tương quan giữa Homocystein máu và rối loạn cương dương ở nam giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.63 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA HOMOCYSTEIN MÁU  
VÀ RỐI LOẠN CƯƠNG DƯƠNG Ở NAM GIỚI 
Lê Xuân Trường*, Bùi Thị Hồng Châu*, Diệp Quảng Minh** 

TÓM TẮT 
Đặt  vấn  đề: tăng homocystein máu được xác định là yếu tố nguy cơ độc lập của rối loạn chức năng nội mạch, liên 
quan đến tình trạng suy giãn chức năng nội mạch với việc làm giảm tổng lượng nitric oxid (NO) nội sinh. NO cũng được 
xem là hoạt chất trung gian quan trọng, yếu tố chính của quá trình cương dương. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm 
khảo sát mối tương quan giữa homocystein máu và rối loạn cương dương ở nam giới. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu khảo sát trên 50 bệnh nhân rối loạn cương với nhóm chứng là 
50 người không rối loạn cương được chọn từ những bệnh nhân đến khám tại phòng khám Nam khoa bệnh viện Bình Dân. 
Xét nghiệm định lượng homocystein máu được thực hiện tại khoa Sinh hóa Bệnh viện Thống Nhất TP.HCM. Tất cả các đối 
tượng được phỏng vấn với bảng câu hỏi IIEF‐5, rối loạn cương được chẩn đoán khi kết quả đánh giá theo tiêu chuẩn IIEF‐5 
đạt từ 21 điểm trở xuống. Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 3 – 2013 đến tháng 8 – 2013. 
Kết quả: nồng độ homocystein máu trung bình ở nhóm rối loạn cương là 16,46 ± 6,82 μmol/l, so với nhóm không rối 
loạn cương là 12,72 ± 5,31 μmol/l, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,003 và tăng homocystein máu không liên quan 
với tuổi, chỉ số khối cơ thể BMI, hút thuốc lá, tăng huyết áp, đái tháo đường, cholesterol, LDL‐cholesterol, HDL‐cholesterol, 
triglycerid máu. 
Kết luận: nồng độ homocystein máu ở bệnh nhân rối loạn cương cao hơn nồng độ homocystein máu ở nhóm không rối 
loạn cương (p = 0,003). Tăng homocystein máu là một yếu tố nguy cơ độc lập của rối loạn cương. 
Từ khóa: rối loạn cương dương 

ABSTRACT 
EVALUATE THE RELATIONSHIP BETWEEN THE HOMOCYSTEIN LEVELS AND ERECTILE 
DYSFUNCTION 
Le Xuan Truong, Bui Thi Hong Chau, Diep Quang Minh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 83 ‐ 87 


Background: Endothelial function is impaired by hyperhomocysteinemia. We have revisable shown that homocysteine 
(Hcy) inhibits nitric oxide (NO) production by cultured endothelial cells, and endothelium‐derived vasodilatation NO is the 
key  mediator  in  penile  erection.  In  this  study,  we  evaluated  the  relationship  between  erectile  dysfunction  (ED)  and 
hyperhomocysteinemia. 
Material  and  method:  50  men  with  ED  and  50  men  without  ED  who  came  to  outpatient  clinics  at  Binh  Dan 
Hospital were included in the study. ED was diagnosed when patients scored less than 21 on the validated International 
Index of Erectile Function (IIEF‐5) questionnaire. A baseline venous blood sample was taken after a 12h overnight fast to 
determine  the  lipid  panel  (total  cholesterol,  high‐density  lipoprotein  cholesterol,  low‐density  lipoprotein  cholesterol,  and 
triglycerides), glucose and Hcys. Data was collected from Mar 2013 to Aug 2013. 
Result: Hcys levels of patients with ED were significantly higher than those of control subjects, the mean ± SD plasma 
homocystein in cases was 16.46 ± 6.82 μmol/l versus 12.72 ± 5.31 μmol/l in controls groups (p = 0.003). Although the risk of 
ED did not vary significantly according  to  body  mass  index,  serum  cholesterol,  high‐density  lipoprotein  cholesterol,  low‐
density lipoprotein cholesterol, and triglyceride, smoking status, diabetes and hypertension.  
Conclusion: high plasma homocysteine is significantly associated with ED, this association is independent of other risk 
factors. 
Keyword: erectile dysfunction 

* Bộ môn Hoá Sinh, Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: TS. BS. Lê Xuân Trường 

Niệu Khoa 

** Bệnh viện Thống Nhất TPHCM

ĐT: 01269872057 

 

Email:  


83


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Rối loạn cương đang dần trở thành một vấn 
đề  của  xã  hội  hiện  đại,  người  bệnh  mang  một 
ám  ảnh  mặc  cảm  nặng  nề,  nảy  sinh  chán  nản 
trong  công  tác,  trong  sinh  hoạt  giao  tiếp  đời 
thường, trầm cảm trong suy tư và là nguồn gốc 
của nhiều chứng bệnh tâm thần kinh. 
Homocystein  là  một  acid  amin  có  nhóm 
sulfhydryl (SH) trong cấu trúc phân tử, được tạo 
thành  từ  quá  trình  khử  methyl  của  methionin. 
Gần  đây  tăng  homocystein  máu  được  xác  định 
là yếu tố nguy cơ độc lập của rối loạn chức năng 
nội mạch, liên quan đến tình trạng suy giãn chức 
năng  nội  mạch  với  việc  làm  giảm  tổng  lượng 
nitric oxid (NO) nội sinh(6, 8). NO cũng được xem 
là hoạt chất trung gian quan trọng, yếu tố chính 
của quá trình cương dương. 

Cơ  chế  gây  rối  loạn  cương  của  tình  trạng 
tăng nồng độ homocystein máu có thể liên quan 
đến  tình  trạng  giảm  tổng  lượng  NO  sinh  ra  từ 
các tế bào nội mạc mạch máu. 
Protein  có  chứa  acid  amin  L‐arginin,  dưới 

tác  dụng  của  enzym  protein  arginin 
methyltransferases  (PRMTs)  sẽ  methyl  hóa 
arginin,  khi  thủy  phân  sẽ  cho  ra  asymmetric 
dimethylarginin  (ADMA)  hoặc  symmetric 
dimethylarginin (SDMA). 
ADMA  từ  lâu  đã  được  xác  định  là  chất  ức 
chế nội sinh của nitric oxid synthases (NOS), là 
yếu  tố  nguy  cơ  độc  lập  của  rối  loạn  chức  năng 
nội mạch  (6, 8). ADMA ức chế hoạt tính của NOS 
làm  giảm  tổng  lượng  NO  nội  sinh,  NO  được 
xem là cơ chế chính của quá trình cương dương. 
 

 
ADMA  thoái  hóa  theo  đường  thủy  phân 
thành citrullin và methylamin dưới tác động của 
enzym 
dimethylarginin 

84

dimethylaminohydroase  (DDAH),  DDAH  được 
xem như chất điều hòa nồng độ ADMA(3). 
Trong các sinh vật bậc cao, bao gồm cả con 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
người,  có  2  dạng  của  DDAH  đã  được  xác  định 

dựa trên vị trí của gen được mã hóa trên nhiễn 
sắc thể. DDAH I được mã hóa bởi gen nằm trên 
nhiễm sắc thể 1, DDAH II được mã hóa bởi gen 
trên nhiễm sắc thể số 6. Hai dạng DDAH phân 
phối  ở  các  mô  khác  nhau  nhưng  có  chức  năng 
tương  tự.  Có  sự  tương  hợp  giữa  biểu  hiện  của 
DDAH I với NOS thần kinh (nNOS) và DDAH 
II với NOS nội mô (eNOS), tuy nhiên cả hai loại 
DDAH có tác dụng tương tự và không giới hạn 
ở  những  tế  bào  hay  mô  riêng  biệt  nào.  Ở  con 
người, DDAH II tỏ ra phổ biến hơn. 
Homocystein  máu  có  tác  dụng  ức  chế  hoạt 
tính của DDAH, đặc biệt là DDAH II(2,7) làm tăng 
lượng ADMA, gây tăng ức chế NOS, làm  giảm 
tổng lượng NO tạo thành, gây ra tình trạng rối 
loạn cương dương. 
Nhằm tìm hiểu vai trò của tăng homocystein 
máu trong bệnh lý rối loạn cương dương ở Việt 
Nam, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “khảo sát 
mối  tương  quan  giữa  homocystein  máu  và  rối 
loạn cương dương ở nam giới”. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên  cứu  khảo  sát  trên  50  bệnh  nhân  rối 
loạn cương với nhóm chứng là 50 người không 
rối loạn cương được chọn từ những bệnh nhân 
đến khám tại phòng khám Nam khoa bệnh viện 
Bình Dân từ tháng 03/2013 đến 8/2013. Tất cả các 
đối  tượng  được  phỏng  vấn  với  bảng  câu  hỏi 

IIEF‐5,  rối  loạn  cương  được  chẩn  đoán  khi  kết 
quả  đánh  giá  theo  tiêu  chuẩn  IIEF‐5  đạt  từ  21 
điểm trở xuống. 

Phương pháp nghiên cứu 
Phỏng  vấn  trực  tiếp  bệnh  nhân  tại  phòng 
khám Nam khoa bệnh viện Bình Dân theo bảng 
câu hỏi IIEF‐5. Bệnh nhân được hỏi tiền sử bệnh, 
các thuốc đang sử dụng, được đo huyết áp và đo 
chiều cao, cân nặng, chỉ số khối cơ thể BMI được 
tính  là  tỉ  số  giữa  khối  lượng  (kg)  với  bình 
phương chiều cao cơ thể của người đó (m). 

Nghiên cứu Y học

cholesterol,  LDL  cholesterol,  HDL  cholesterol, 
triglycerid.  Định  lượng  homocystein  toàn  phần 
trong  huyết  tương  với  chất  bảo  quản  được  sử 
dụng  là  potassium  EDTA,  trên  máy  Architect 
i2000SR với thuốc thử của hãng Abbott. Các xét 
nghiệm được thực hiện tại khoa Hóa Sinh bệnh 
viện  Thống  Nhất  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  với 
phương  pháp  miễn  dịch  hóa  phát  quang 
(chemiluminescent microparticle immunoassay). 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Bảng 1. Một số đặc điểm giữa nhóm rối loạn cương 
và nhóm không rối loạn cương 
Yếu tố nguy cơ
Tuổi

BMI
Cholesterol toàn
phần
HDL – cholesterol
LDL – cholesterol
Triglycerid

Nhóm không
rối loạn
cương
45,5 ± 7,81 41,68 ± 8,44
23,61± 2,54 22,94 ± 1,81

0,016
0,146

5,41 ± 0,94

5,24 ± 1,18

0,438

1,08 ± 0,14
2,96 ± 0,96
2,87 ± 1,59

1,27 ± 0,32
3,10 ± 0,85
2,27 ± 1,77


0,397
0,409
0,110

Nhóm rối
loạn cương

p

Kết  quả  khảo  sát  trên  nhóm  rối  loạn  cương 
và  nhóm  không  rối  loạn  cương  được  thể  hiện 
trên bảng 1 cho ta thấy độ tuổi ở nhóm rối loạn 
cương cao hơn nhóm không rối loạn cương một 
cách có ý nghĩa thống kê (45,5 ± 7,81 so với 41,68 
± 8,44 với p = 0,016). Các yếu tố chỉ số khối cơ thể 
BMI,  cholesterol  toàn  phần,  HDL  –  cholesterol, 
LDL  –  cholesterol,  triglycerid  không  thấy  có  sự 
khác biệt giữa hai nhóm. 
Bảng 2. Một số đặc điểm về yếu tố nguy cơ giữa 
nhóm rối loạn cương và nhóm không rối loạn cương 
Nhóm rối Nhóm không rối
loạn cương
Yếu tố nguy cơ loạn cương
n (%)
n (%)
Hút thuốc lá
17 (34)
17 (34)
Béo phì
33 (66)

25 (50)
Tăng huyết áp
8 (16)
6 (12)
Đái tháo đường
10 (20)
9 (18)

p
0,942
0,130
0,592
0,837

Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về các 
yếu tố  nguy cơ như  hút  thuốc  lá,  béo  phì,  tăng 
huyết áp, đái tháo đường. 

Xét  nghiệm  máu:  định  lượng  nồng  độ 
homocystein  toàn  phần  lúc  đói,  glucose, 

Niệu Khoa 

85


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014


Biểu đồ 1. Mối tương quan giữa nồng độ 
homocystein với thang điểm IIEF5 

 

 Biểu đồ 2. Biểu đồ đường cong ROC nồng độ 
homocystein máu trong chẩn đoán rối loạn cương 

Về  kết  quả  nổng  độ  homocystein  giữa  2 
nhóm, bảng 3 cho ta thấy nồng độ homocystein 
máu  ở  nhóm  rối  loạn  cương  cao  hơn  nhóm 
không rối loạn cương một cách có ý nghĩa thống 
kê với p = 0,003. 
Bảng 3. So sánh nồng độ homocystein máu giữa 
nhóm rối loạn cương và nhóm không rối loạn cương 
Nồng độ
homocystein máu
t
p
trung bình ± độ lệch
chuẫn (µmol/l)
Nhóm rối loạn cương
16,46 ± 6,82
-3,040 0,003
Nhóm không rối loạn
12,72 ± 5,31
cương

Nồng  độ  homocystein  của  bệnh  nhân  rối 
loạn  cương  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có 

giá trị trung bình là 16,46 ± 6,82 μmol/l. So sánh 
với  các  nghiên  cứu  khác:  tác  giả  Adel  Al‐
Hunayan tiến hành nghiên cứu bệnh chứng trên 
97 bệnh nhân đái tháo đường có rối loạn cương 
với  nhóm  chứng  là  97  bệnh  nhân  đái  tháo 
đường  không  rối  loạn  cương,  kết  quả  nồng  độ 
homocystein trung bình của nhóm bệnh rối loạn 
cương là 11,2 ± 3,5 μmol/l(5) khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với nghiên cứu chúng tôi với t = 6,1894, 
p < 0,001. 
Tác giả Tevfik Demir đã tiến hành khảo sát 
trên 62 bệnh nhân đái tháo đường type 2 tuổi từ 
40  đến  70  có  rối  loạn  cương,  kết  quả  nồng  độ 
homocystein trung bình là 15,5 ± 6,9 μmol/l, (t = 
0,7358, p = 0,4634) (4) tương tự với kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi. 

86

 
Biểu đồ 3: Biểu đồ độ nhạy và độ đặc hiệu của nồng 
độ homocystein máu trong chẩn đoán rối loạn cương 
Biểu  đồ  2  và  biểu  đồ  3  cho  thấy,  diện  tích 
dưới  đường  cong  ROC  là  0,8092  với  nồng  độ 
homocystein  máu  ở  mức  12,28  μmol/l  là  điểm 
cắt  tối  ưu  để  chẩn  đoán  rối  loạn  cương  với  độ 
nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 76% và 74%. Giá 
trị  này  tương  đương  với  kết  quả  của  tác  giả 
Tevfik Demir (4) đã công bố là 12,1 μmol/l với độ 
nhạy là 84% và độ đặc hiệu là 79%. 

Bảng 4: phân tích logictic giữa nồng độ homocystein 
máu với các yếu tố nguy cơ 
Rối loạn cương Mfx
Homocystein
Tuổi
Hút thuốc lá
Béo phì
Tăng huyết áp
Đái tháo đường

0,044
0,022
-0,155
0,160
-0,315
-0,051

SE

OR

0,014
0,008
0,128
0,119
0,165
0,162

1,19
1,09

0,54
1,91
0,26
0,82

95% Cl
1,06
1,02
0,19
0,73
0,05
0,23

1,33
1,16
1,50
4,95
1,33
2,91

p
0,002
0,010
0,236
0,186
0,105
0,755

Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  nồng  độ 


Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
homocystein máu không có tương quan với tuổi 
(r = 0,71, p = 0,481). Kết quả này phù hợp với kết 
quả nghiên cứu của tác giả Tevfik Demir(4) khảo 
sát trên 62 bệnh nhân đái tháo đường type 2 có 
rối loạn cương thì ghi nhận không có sự tương 
quan giữa nồng độ homocystein máu và tuổi (r = 
0,02, p = 0,863). 
Nồng độ  homocystein máu của  nhóm  bệnh 
nhân  rối  loạn  cương  có  hút  thuốc  lá  với  nhóm 
bệnh  nhân  rối  loạn  cương  không  hút  thuốc  lá 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ( t = ‐
0,129, p = 0,897). Hay nói cách khác không có sự 
liên  quan  giữa  nồng  độ  homocystein  máu  với 
hút  thuốc  lá.  Đặc  điểm  này  giống  với  kết  quả 
nghiên  cứu  của  các  tác  giả  Tevfik  Demir  (1,4), 
Adel Al‐Hunayan(5). 

luận: 
‐ Nồng độ homocystein máu ở bệnh nhân rối 
loạn cương cao hơn nồng độ homocystein máu ở 
nhóm không rối loạn cương một cách có ý nghĩa 
thống kê với p = 0,003. 
‐  Tăng  homocysteine  máu  là  một  yếu  tố 
nguy cơ độc lập không liên quan với tuổi, chỉ số 
khối cơ thể BMI, hút thuốc lá, tăng huyết áp, đái 
tháo  đường,  cholesterol,  LDL‐cholesterol,  HDL‐

cholesterol, triglycerid máu. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.
3.

Không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê 
giữa  nhóm  bệnh  nhân  rối  loạn  cương  có  tăng 
huyết  áp  với  nhóm  bệnh  nhân  rối  loạn  cương 
không tăng huyết áp (t = ‐1,654, p = 0, 139). Hay 
nói cách khác, ở bệnh nhân rối loạn cương nồng 
độ  homocystein  máu  và  tăng  huyết  áp  không 
liên quan với nhau. Nhận xét này giống với kết 
quả  nghiên  cứu  của  Tevfik  Demir(1,4),  Adel  Al‐
Hunayan(5). 
Chúng  tôi  nhận  thấy  không  có  sự  tương 
quan giữa nồng độ homocystein máu với chỉ số 
khối  cơ  thể  BMI  ở  nhóm  bệnh  nhân  rối  loạn 
cương (r = 0,10, p = 0,924), kết quả này tương tự 
với kết quả của các tác giả Tevfik Demir(1,4), Adel 
Al‐Hunayan(5). 

KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 50 đối tượng rối loạn cương 
ở  phòng  khám  Nam  khoa  bệnh  viện  Bình  Dân 
thành  phố  Hồ  Chí  Minh  chúng  tôi  rút  ra  kết 

Nghiên cứu Y học


4.

5.

6.

7.

8.

Al‐Hunayan A , et al (2008), ʺHyperhomocysteinemia is a risk 
factor  for  erectile  dysfunction  in  men  with  adult‐onset 
diabetes mellitusʺ, Urology. 71(5): 897‐900. 
Demir  T,  et  al  (2006),  ʺHyperhomocysteinemia:  a  novel  risk 
factor for erectile dysfunctionʺ, Metabolism. 55(12): 1564‐8. 
Demir T, Cömlekci A, et al (2008), ʺA possible new risk factor 
in  diabetic  patients  with  erectile  dysfunction: 
homocysteinemiaʺ, J Diabetes Complications. 22(6): 395‐9. 
Ito A, Tsao PS, et al (1999), ʺNovel mechanism for endothelial 
dysfunction: 
dysregulation 
of 
dimethylarginine 
dimethylaminohydrolaseʺ, Circulation. 99(24): 3092‐5 
Liu  LH,  et  al  (2012),  ʺProtection  of  DDAH2  Overexpression 
Against 
Homocysteine‐Induced 
Impairments 
of 

DDAH/ADMA/NOS/NO Pathway in Endothelial Cellsʺ, Cell 
Physiol Biochem. 30(6): 1413‐22. 
Stühlinger MC, et al (2001), ʺHomocysteine impairs the nitric 
oxide 
synthase 
pathway:  role  of  asymmetric 
dimethylarginineʺ, Circulation. 104(21): 2569‐75. 
Stühlinger MC, Oka RK, et al (2003), ʺEndothelial dysfunction 
induced  by  hyperhomocyst(e)inemia:  role  of  asymmetric 
dimethylarginineʺ, Circulation. 108(8): 933‐8. 
Vallance  P, Leiper  J  (2004),  ʺCardiovascular  biology  of  the 
asymmetric 
dimethylarginine: 
dimethylarginine 
dimethylaminohydrolase  pathwayʺ,  Arterioscler  Thromb 
Vasc Biol. 24(6): 1023‐30. 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

01/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 

29/11/2013 


Ngày bài báo được đăng : 

05/01/2014 

 

 

Niệu Khoa 

87



×