Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

U trùng di trú: Hình ảnh siêu âm phần mềm và nội tạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.11 KB, 4 trang )

ẤU TRÙNG DI TRÚ: HÌNH ẢNH SIÊU ÂM PHẦN MỀM VÀ NỘI TẠNG
Thanh Xuân *

TÓM TẮT
Từ đầu năm 2000 đến nay, phòng siêu âm MEDIC tiếp nhận 17 bệnh nhân có những tổn thương phần mềm
và tổn thương gan không rõ ràng trên siêu âm. Hình ảnh siêu âm gan rất giống của sán lá gan, nhưng huyết
thanh chẩn đoán (HTCĐ) sán lá gan âm tính. Để xác đònh nguyên nhân, chúng tôi đề nghò thử HTCĐ một số
ký sinh trùng (KST) khác có khả năng gây bệnh ở người.
Kết quả: HTCĐ Toxocara dương tính ở 10 bệnh nhân có giá trò từ 1/800 đến 1/1600, trong đó 6 trường
hợp có tổn thương đa ổ ở gan, 4 trường hợp có tổn thương phần mềm dưới da. HTCĐ Gnathostoma dương tính
ở 7 trường hợp, từ 1/800 đến 1/3200, trong đó 3 trừơng hợp tổn thương gan, 1 trường hợp tổn thương vách dạ
dày, 3 trường hợp tổn thương phần mềm. Ghi nhận có 3 trường hợp dương tính với cả hai loại KST. Qua đó,
chúng tôi muốn cảnh báo: 1/ về một số loại KST khác gây bệnh tại gan có biểu hiện lâm sàng và hình ảnh
siêu âm rất giống sán lá gan; 2/ về các thương tổn dưới da do KST.

SUMMARY
LARVA MIGRANS:
ULTRASOUND FINDINGS OF SOFT TISSUE AND INTERNAL ORGANS
Thanh Xuân * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Special issue of Parasitology - Vol. 5 - Supplement of No 1 - 2001: 71 - 74

From the beginning of the year 2000, Medic Ultrasound Department received seventeen patients with soft
tissue and hepatic lesions, the later is Fasciola hepatica-like hepatic lesions on ultrasound. The Fasciola
hepatica sero-diagnosis is negative in these patients, so other parasitic sero-diagnosis was performed, in
order to find out the causative parasites.
Results: Toxocara sero-diagnosis positive in 10 patients (value = 1/800 – 1/1,600), in which 6 cases
present hepatic multifocal lesions, 4 cases present subcutaneous lesions. Gnathostoma sero-diagnosis positive
in 7 patients (value = 1/800-1/3,200), in which 3 patients present hepatic lesions, one presents gastric wall
lesion, 3 present soft tissue lesions. We noticed 3 cases in which the rsero-diagnosis is positive for both kinds
of parasites. So we suppose:1/ In VietNam, beside Fasciola hepatica, there are another parasites, which can
cause hepatic lesions. 2/ Some forms of subcutaneous tissue lesions may be due to larva migrans. Ultrasound
scan is valuable in detecting such a lesion.


Gnathostoma. Đây là các loại ký sinh trùng ký sinh
MỞ ĐẦU
ở ruột chó, mèo (Toxocara), hoặc ký sinh trong ruột
Trong thời gian gần đây, phòng siêu âm
các loài hải sản như cá, cua, nghêu, sò, ốc, hến
MEDIC có tiếp nhận một số bệnh nhân có những
(Gnathostoma = giun đầu gai)... có thể di trú ở cơ
tổn thương phần mềm và nội tạng, nhất là ở gan, có
thể người và gây bệnh. Từ một vài khảo sát ban
hình ảnh không rõ ràng. Từ sau những nghiên cứu
đầu, chúng tôi xin ghi nhậân một số hình ảnh về siêu
về bệnh lý sán lá gan ở Việt Nam trong vài năm trở
âm, bước đầu nghiên cứu về thương tổn phần mềm
lại đây, chúng tôi lưu ý đến một số ký sinh trùng
và nội tạng do các loại ký sinh trùng này gây ra.
khác có thể ký sinh tình cờ ở người và gây bệnh.
* Bác Só Siêu Âm, phòng siêu âm trung tâm Y Khoa MEDIC

Do đó, trước những tổn thương nghi ngờ, chúng tôi
đề nghò xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán, ghi
nhận có phản ứng (+) đối với các loại ký sinh trùng
khác, đặc biệt thường gặp là Toxocara,

Chuyên đề ký sinh trùng

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng

1



-Bệnh nhân đến phòng siêu âm có tổn thương
phần mềm dưới dạng phù nề dưới da hoặc ở nội
tạng (thường nhất ở gan) không rõ ràng với huyết
thanh chẩn đoán Toxocara (+), và/hoặc
Gnathostoma (+).

-Các trường hợp tổn thương phần mềm: 7 bệnh
nhân, trong đó 6 trường hợp sưng nề vùng má và mí
mắt, 1 trường hợp sưng vùng chân. Không trường
hợp nào có sốt. Các sang thương do Gnathostoma
biến mất sau vài ngày, dù chưa đặc trò.

Phương tiện khảo sát

Xét nghiệm

- Các máy siêu âm B-mode, sau đó được khảo
sát lại với máy siêu âm màu Toshiba Core Vision
với các đầu dò 7,5 Mhz để khảo sát phần mềm và
3,5 Mhz để khảo sát bụng.

AFP (-):

Phương pháp nghiên cứu

100% các trường hợp có tổn thương gan.
VS

tăng: 2/ 17 cas có thử VS, tăng nhẹ 40-60mm.

Các trường hợp còn lại không thử.

Hồi cứu, cắt ngang, mô tả. Ghi nhận các tổn
thương nghi ngờ:

Chức năng gan

Nội tạng: thường nhất là ở gan, sau đó thử
huyết thanh chẩn đoán một số các loại KST thường
gặp: sán lá gan, Toxocara, Gnathostoma, amibe,
giun lươn. Chọn lọc các kết quả có huyết thanh
chẩn đoán dương tính đối với Toxocara và/hoặc
Gnathostoma.

Huyết thanh chẩn đoán:

3 trường hợp có thử men gan, tăng gấp đôi.
- Toxocara (+) 10 bệnh nhân, trò số từ 1/800 
1/1600
- Gnathostoma (+) 7 bệnh nhân, trrò số từ 1/800
 1/3600.
Eosinophile tăng từ 4-12 % ở 6/17 bệnh nhân.

Phần mềm dưới da: có thể ở bất kỳ vùng nào
trong cơ thể. Tiến hành xét nghiệm và chọn kết
quả tương tự.

Soi đáy mắt

KẾT QUẢ


Hình ảnh siêu âm vùng gan

Số lượng bệnh nhân: 17.

Thương tổn ở gan

Tỷ lệ nam/ nữ: 11 / 6.
Lứa tuổi: từ 9- 82 tuổi.
Tiền căn
có nuôi chó mèo trong nhà
có ăn thức ăn sống chưa qua nấu chín (7/7)
Triệu chứng lâm sàng
-Đối với các trường hợp có tổn thương gan:
10/10 bệnh nhân có đau âm ỉ hạ sườn P từ vài tháng
trở lại đây, ăn uống kém, khó tiêu. Một trường hợp
sốt cao 40 độ trong 3 ngày, kèm nôn ói, xanh xao.
Số còn lại sốt nhẹ, âm ỉ, sụt cân, mệt mỏi.

Một trường hợp có soi đáy mắt bình thường.

Ở vò trí bất kỳ, một hoặc nhiều ổ, không cùng
tuổi, hình ảnh đa dạng, cấu trúc echo dày xen lẫn
vùng echo kém hoặc hoại tử dạng micro áp- xe. Đa
phần có nhiều nốt vôi hóa nhỏ li ti tạo từng chấm
echo dày trong sang thương. Về kích thước:thay
đổi, không nhất đònh, từ 10- 60mm. Bờ sang thương
không đều, hình đa giác hoặc như bản đồ. Có thể
tăng âm nhẹ phía sau. Rim sign (-). Hầu hết không
phân bố mạch máu trong sang thương. Không ghi

nhận trường hợp nào có huyết khối tónh mạch cửa.
Hầu hết trên nền gan to nhẹ hoặc bình thường. Có
vài trường hợp dày vách túi mật như trong biểu
hiện viêm gan cấP. Không trường hợp nào có hạch
mô mềm do Gnathostoma:
rốn gan hoặc Hình
dòch tự3:doTổ
ổ nbụthương
ng.
Sang thương nằm nông dưới da, ngoại vi sang
thương phản âm kém, vùng trung tâm phản âm
dầy. Theo dõi thấy sang thương biến mất sau 1
tuần mặc dù chưa được đặc trò.


Hình 1: Nhiễm Gnathostoma ở gan: Lát cắt xéo
dưới bờ sườn phải cho thấy tổn thương gan có độ
phản âm hỗn hợp, nhiều nốt vôi hoá lấm tấm bên
trong, đường kính khoảng 50 x 60mm

Hình 2: Sang thương đa ổ ở gan phải, dạng micro
áp xe và thâm nhiễm không đồng nhất.
Thương tổn mô mềm

6/ 7 cas ở má và mí mắt, 1 cas ở vùng chân, da
bên dươi sang thương dày lên, echo dày, nhiều
đường song song echo kém trong sang thương.

BÀN LUẬN VỀ HÌNH ẢNH SIÊU ÂM
Tại gan

Sang thương đa ổ, không cùng tuổi, đa dạng và
nhiều vùng hoại tử tạo micro áp xe gần như thường
thấy nhất. Bờ sang thương hình đa cung, bản đồ. Đa
phần có vôi hoá nhỏ li ti, tạo từng chấm echo dày
trong sang thương, điều này rất gợi ý cho chẩn
đoán.

Chuyên đề ký sinh trùng

Nền gan còn lại không đồng nhất. Các trường
hợp tái khám sau 3-4 tháng, ghi nhận có nhiều
vùng echo dày dạng xơ hóa và vôi hóa. Các tính
chất này rất giống với mô tả của bệnh lý gan do sán
lá, gần như không thể xác đònh ngay nguyên nhân
KST ở lần khám đầu tiên. Trên siêu âm doppler
màu không ghi nhận được trường hợp nào có phân
bố mạch máu trong sang thương cũng như huyết
khối trong tónh mạch cửa. Một số trường hợp có dày
vách túi mật đi kèm. Không có trường hợp nào có
dòch màng phổi, màng bụng và màng tim. Từ
những ghi nhận này, chúng tôi tiến hành thử HTCĐ
các loại KST như đã nói, ghi nhận các trường hợp
dương tính đối với Toxocara và Gnathostoma, và
đều có HTCĐ sán lá gan âm tính. Sở dó chúng tôi
chưa tách hai tác nhân gây bệnh riêng biệt được vì
có 3/ 10 bệnh nhân có cùng lúc HTCĐ dương tính
đối với hai loại KST này, và đặc điểm siêu âm lại
rất giống nhau. Điều này xác đònh rằng: không thể
phân biệt được KST gây bệnh khi đơn thuần sử
dụng siêu âm vùng gan. Về HTCĐ, chúng tôi ghi

nhận có phản ứng chéo giữa các loại KST với nhau,
lúc này chúng tôi chọn trò số nào chiếm ưu thế lớn
nhất. Nghiên cứu này của chúng tôi còn quá ít bệnh
nhân và chỉ bước đầu ghi nhận một số tính chất như
trên. Nhân đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh, ngoài
việc nghó đến bệnh lý gan do sán lá do các đặc
điểm siêu âm rất giống với bệnh lý gan do sán lá,
chúng ta nên thử thêm các tác nhân gây bệnh khác
có ấu trùng di trú qua ký chủ tình cờ là người.
Ngoài việc sử dụng siêu âm mang tính sàng lọc các
trướng hợp như đã mô tả, việc chẩn đoán còn cần
rất nhiều các dữ kiện khác phối hợp (LS, CT bụng,
ERCP, XN máu...). Các kết quả về các cận lâm
sàng khác còn ít ỏi và lẻ tẻ, chúng tôi chưa ghi
nhận vào nghiên cứu này.
Tổn thương phần mềm
4 trrường hợp do Toxocara, 3 trường hợp do
Gnathostoma.
- Đa phần bệnh nhân đến khám vì có một vùng
da sưng nề bất thường trong vài ngày, ngứa, nổi
mẩn đỏ.
- Sang thương do Gnathostoma thường là những
nốt cục echo kém dưới da, vùng trung tâm echo

3


dày, di chuyển theo thời gian vài ngày, có thể tự
biến mất. Chúng tôi ghi nhận một trường hợp vừa
tổn thương dưới da, vừa tổn thương nội tạng, đặc

biệt là biểu hiện bằng dày vách dạ dày giống như
hình ảnh u vách dạ dày trên siêu âm, biến mất sau
vài tuần theo dõi.
- Sang thương do Toxocara thường chỉ là tình
trạng dày da bên dưới, có những đường nhỏ echo
kém nằm song song dưới da. Trước đây, khi gặp
những hình ảnh này, chúng tôi thường nghó đến
nguyên nhân của dò ứng, côn trùng đốt...

KẾT LUẬN
Tổn thương mô mềm và nội tạng (hay gặp nhất
ở gan) do KST trong thời gian gần đây mang tính
thời sự. Bệnh lý gan do Fasciola đã được đề cập
khá rõ và chi tiết qua nghiên cứu của các BS ở
bệnh viện Chợ Rẫy. Tổn thương gan do các loại
KST khác đã được ghi nhận lẻ tẻ, bước đầu chúng
tôi tập hợp các trường hợp có HTCĐ ddương tính
đối với Toxocara và Gnathostoma, nhằm:
- Cảnh báo về một số loại KST khác gây bệnh

có biểu hiện tại gan có biểu hiện lâm sàng và hình
ảnh siêu âm rất giống sán lá gan,
- Trước những sang thương nội tạng và mô mềm,
khi nghi ngờ do KST, nên chăng nên thử hết các tác
nhân có thể gặp, tránh bỏ sót.
- Cảnh giác trước nguy cơ nhiễm bệnh cao ở các
gia đình có nuôi chó mèo, các thói quen dùng hải
sản tươi sống và các loại thực phẩm chế biến từ cá
sống mắm sống).
Đây chỉ là nhận đònh bước đầu qua số bệnh

nhân còn ít ỏi trong quá trình làm siêu âm, số liệu
nghiên cứu chưa nhiều, chúng tôi sẽ có hướng
nghiên cứu chi tiết và cụ thể hơn trong thời gian
tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

NGUYỄN THU LIÊN, VÕ XUÂN QUANG, NGUYỄN
PHƯƠNG- Bệnh lý gan do sán lá fasciola: bệnh cảnh lâm sàng
và cận lâm sàng – Kỷ yếu hội nghò khoa học y dược 1998.
TRẦN XUÂN MAI, TRẦN THỊ KIM DUNG, NGÔ HÙNG
DŨNG, LÊ THỊ XUÂN– Ký sinh trùng y học. 1999.
MIYAZAKI J.– Helminthic Zoonoses – Gnathostomiasis,
toxocariasis, Fascioliasis. Chapter 6,25,33.



×