Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Xác định tỷ lệ dương tính của mycobacterium tuberculosis và mycobacterirum khác mycobacterium tuberculosis trong các trường hợp lao da bằng phản ứng chuỗi polymerase (polymerase chain

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.8 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

XÁC ĐỊNH TỶ LỆ DƯƠNG TÍNH CỦA MYCOBACTERIUM
TUBERCULOSIS VÀ MYCOBACTERIRUM KHÁC MYCOBACTERIUM
TUBERCULOSIS TRONG CÁC TRƯỜNG HỢP LAO DA BẰNG PHẢN ỨNG
CHUỖI POLYMERASE (POLYMERASE CHAIN REACTION)
Nguyễn Thị Bích Liên*, Nguyễn Tất Thắng**

TÓM TẮT
Mở đầu: Lao da là bệnh hiếm gặp, việc chẩn đoán bệnh khó. Trước đây việc chẩn đoán lao da chủ yếu dựa
vào lâm sàng, các phương pháp như soi, cấy vi khuẩn hoặc dựa vào giải phẫu bệnh thường có độ nhạy và độ đặc
hiệu kém. Gần đây vai trò của các chủng Mycobacterium khác Mycobacterium tuberculosis (MOTT) đã được đặt
ra và đã phát triển cùng với đại dịch nhiễm HIV, các chủng MOTT gây tổn thương da nhiều hơn chủng
Mycobacterium tuberculosis (MT). Đặc biệt sự khác biệt về điều trị của chủng MT và MOTT đã đặt ra vấn đề
phải chẩn đoán chính xác tổn thương lao da là do chủng nào. Ngày nay sinh học phân tử đã phát triển giúp chẩn
đoán xác định một số bệnh mà các phương pháp thông thường còn hạn chế như lao da.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định được giá trị của phản ứng chuỗi PCR trong chẩn đoán lao da do MT và
MOTT.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca lâm sàng nghi ngờ lao cóc đến khám tại khoa
khám bệnh Bệnh viện Da liễu TP. Hồ Chí Minh từ 5/2010 đến 4/2011.
Kết quả: Tổng cộng có 29 trường hợp lao cóc được nghiên cứu, trong đó tỷ lệ lao da do MT là 36%, tỷ lệ lao
da do MOTT là 64%. Trong các xét nghiệm chẩn đoán lao da, IDR dương tính chỉ gợi ý đã nhiễm lao, giải phẫu
bệnh có độ nhạy thấp 24% và không thể phân biệt nhiễm MT với MOTT, cấy vi khuẩn tuy là tiêu chuẩn vàng để
chẩn đoán nhưng độ nhạy thấp 4%, còn phản ứng PCR có độ nhạy 84% và độ đặc hiệu 75%.
Kết luận: Phản ứng PCR có ưu thế hơn IDR, giải phẫu bệnh, cấy vi khuẩn trong chẩn đoán lao da do MT
và MOTT.
Từ khóa: Mycobacterium tuberculosis, Mycobacterium khác Mycobacterium tuberculosis (MOTT), phản
ứng chuỗi Polymerase.


ABSTRACT
DETERMINING THE POSITIVE RATE OF MYCOBACTERIUM TUBERCULOSIS AND
MYCOBACTERIUM OTHER THAN MYCOBACTERIUM TUBERCULOSIS IN THE SKIN
TUBERCULOSIS BY POLYMERASE CHAIN REACTION
Nguyen Thi Bich Lien, Nguyen Tat Thang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 198 - 205
Background: Skin tuberculosis is an uncommon disease and difficult to be diagnosed. Formerly the
diagnosis of this disease was mainly based on clinical features and other methods such as smear, culture or
histopathology which often had poor sensitivity and specificity. Recently, the role of MOTT strains has been
recognized and developed along with HIV/AIDS pandemic. These strains cause more skin lesions than MT strain.

* Bệnh viện Da Liễu TP. HCM **Bộ môn Da Liễu – Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS Nguyễn Tất Thắng
ĐT: 0903350104,
email:


198

Chuyên Đề Nội Khoa II


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

Especially the difference between the treatments of MT strain and MOTT strains leads to the issue of accurate
indentification of the strain causing the tuberculosis lesion. Today, the development of molecular biology has
enabled the confirmed diagnosis of some diseases such as skin tuberculosis that the conventional methods were
still limited.

Objective: To determine the value of polymerase chain reaction (PCR) in the diagnosis of skin tuberculosis
due to MT and MOTT.
Methods: This dercriptive case series study of tuberculosis verrucosa cutis (warty tuberculosis), clinically
suspected patients of the outpatient department of Hospital of Dermato- Venereology, Ho Chi Minh City during
the period from 5/2010 to 4/2011.
Results: Of the 29 tuberculosis verrucosa cutis diagnosed patients, 36% had cutaneous tuberculosis due to
MT and 64% cutaneous tuberculosis due to MOTT. In diagnosis of cutaneous tuberculosis, positive IDR only
suggests tuberculosis infection, histopathology has a low sensitivity of 24% and can not distinguish between
MOTT and MT infections, although bacterial culture is a golden standard for diagnosis, it still has a low
sensitivity of 4%. PCR has a sensitivity of 84% and a specificity of 75%.
Conclusions: PCR has the advantage over IDR, histopathology, bacterial culture in the diagnosis of skin
tuberculosis due to MT and MOTT.
Keywords: Mycobacterium tuberculosis, Mycobacterium khác Mycobacterium tuberculosis (MOTT),
Polymerase chain reaction (PCR).

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lao là bệnh nhiễm khuẩn do
Mycobacterium tuberculosis gây ra, cho đến nay
vẫn thu hút được sự quan tâm rất lớn của các
nhà chuyên môn trên thế giới vì tỷ lệ mắc bệnh,
tỷ lệ tử vong, di chứng và hậu quả về mặt kinh
tế xã hội đi kèm. Nhất là trong những năm gần
đây, sự lan rộng của hội chứng suy giảm miễn
dịch mắc phải đã ảnh hưởng nặng nề đối với
bệnh lao ở những nước đang phát triển.
Đối với da, vi khuẩn lao cũng xâm nhập qua
da và gây nên nhiều dạng lâm sàng như lao cóc,
gôm lao, lupút lao, loét lao, ban lao…
Tại Việt Nam, trong các dạng lao da, lao cóc
là dạng phổ biến nhất theo các công trình

nghiên cứu trước đây.
Tuy tỷ lệ bệnh lao da không cao như những
bệnh ngoài da khác nhưng việc chẩn đoán bệnh
khó. Trước đây, việc chẩn đoán lao da chủ yếu
dựa vào lâm sàng, các phương pháp khác như
khảo sát trực tiếp vi khuẩn bằng kính hiển vi
hay nuôi cấy từ các mẫu bệnh phẩm hoặc dựa
vào kết quả sinh thiết da thường có độ đặc hiệu
và độ nhạy kém.

Chuyên Đề Nội Khoa II

Hơn nữa gần đây, vai trò của các chủng
Mycobacterium khác Mycobacterium tuberculosis
(MOTT) càng được đặt ra và tầm quan trọng về
lâm sàng của các chủng này đã phát triển cùng
với dịch nhiễm HIV. Các chủng MOTT có mặt
khắp nơi trong đất, nước và gây tổn thương da
nhiều hơn chủng Mycobacterium tuberculosis
(MT). Đặc biệt sự khác biệt về điều trị của chủng
MT và MOTT đã đặt ra vấn đề phải chẩn đoán
chính xác tổn thương lao da là do chủng nào.
Từ trước đến nay ở Việt Nam chưa có
nghiên cứu nào thực hiện để đánh giá tình trạng
nhiễm MT và MOTT trên tổn thương lao da.
Do đó, để đánh giá tỷ lệ dương tính của
nhiễm MT và MOTT trên da phải cần những kỹ
thuật chẩn đoán nhanh, có độ nhạy và độ đặc
hiệu cao.
Ngày nay sinh học phân tử đã mở ra nhiều

hướng đối với việc chẩn đoán xác định một số
bệnh mà các phương pháp thông thường còn
hạn chế hay chưa thực hiện được trong đó có
bệnh lao(1,8). Đã có nhiều công trình trên thế giới
nghiên cứu về lĩnh vực này và đã có những kết
quả tốt.

199


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Với mong muốn giúp chẩn đoán nhanh,
chính xác, cũng như xác định tỷ lệ dương tính
của nhiễm MT và MOTT trên bệnh nhân lao da,
đề tài đã được thực hiện.

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Xác định được giá trị của phản ứng chuỗi
PCR trong chẩn đoán lao da do MT và MOTT.
Mục tiêu chuyên biệt
Xác định được tỷ lệ dương tính của nhiễm
MT và MOTT trên bệnh nhân lao da.
So sánh PCR và các phương pháp khác
trong chẩn đoán lao da do MT và MOTT.

Dị ứng với thuốc, viêm gan do thuốc.

Có thai, ngưng điều trị vì lý do khác.

Phương pháp nghiên cứu
Các bước tiến hành
BN được chọn sẽ được khám và làm bệnh án
theo mẫu riêng.
Được tiến hành làm các xét nghiệm
chẩn đoán.
Điều trị theo nguyên nhân và theo dõi đánh
giá đáp ứng điều trị. Chúng tôi xem đáp ứng
điều trị với thuốc kháng lao hay thuốc điều trị
MOTT là tiêu chuẩn chẩn đoán lao da do MT
hay MOTT.

Xác định được độ nhạy và độ đặc hiệu của
phản ứng chuỗi PCR trong chẩn đoán lao da do
MT và MOTT.

Các xét nghiệm chẩn đoán
XN thường quy: CTM, VS.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Sinh thiết da làm giải phẫu bệnh, cấy vi
khuẩn, phản ứng PCR.

Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca.

Đối tượng nghiên cứu

Dân số nghiên cứu
29 bệnh nhân có thương tổn là mảng sùi
màu đỏ tím tiến triển ly tâm, lâm sàng hướng
đến chẩn đoán lao cóc đến khám tại Khoa Khám
bệnh, Bệnh viện Da Liễu Thành phố Hồ Chí
Minh từ tháng 5/2010 đến tháng 4/2011.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Nghiên cứu chọn lao cóc vì đây là dạng
thường gặp nhất trong các dạng lao da. Tất cả
các bệnh nhân thoả các điều kiện sau sẽ được
chọn vào nghiên cứu.
Được chẩn đoán dạng lao da (lao cóc) trên
lâm sàng với các triệu chứng: mảng sùi màu đỏ
tím, tiến triển chậm, ly tâm, tẩm nhuận, bóp đau
và chảy mủ.
Không có chống chỉ định thuốc kháng lao.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ
Không tuân thủ điều trị kháng lao.
Ngưng thuốc kháng lao với bất cứ lý do gì.

200

XN chẩn đoán: - IDR.

Xét nghiệm giải phẫu bệnh được thực hiện
tại phòng Giải phẫu bệnh – BV. Da liễu
TP.HCM. Cấy vi khuẩn tại khoa Vi sinh BV.
Phạm Ngọc Thạch và phản ứng PCR tiến hành ở

công ty Nam Khoa.

Phân tích số liệu
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm
SPSS 14.0.
Kết quả thống kê mô tả được tính theo tần
số, tỷ lệ % và được trình bày dưới hình thức
bảng.
Kết quả thống kê phân tích dùng phép kiểm
Chi bình phương với độ tin cậy 95%, rút ra kết
quả, đối chiếu với các xét nghiệm khác như cấy
vi khuẩn, giải phẫu bệnh, IDR, PCR.
Tính độ nhạy và độ đặc hiệu.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 5/2010 đến 4/2011 có 29 trường hợp
lao cóc được chọn vào nhóm nghiên cứu với kết
quả như sau.

Một số đặc điểm dịch tễ học
Phái tính

Chuyên Đề Nội Khoa II


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Nam mắc bệnh nhiều hơn nữ (62,1% so với
37,9%).

Tuổi

Nhỏ nhất là 17, lớn nhất là 58, tuổi trung
bình là 39,6912,22, đa số thuộc nhóm tuổi 31-40
(31%).
Nơi cư trú
Đa số ở các tỉnh (68,96%).
Nghề nghiệp
Nông dân và công nhân chiếm đa số
(55,16%).
Trình độ học vấn
Phần lớn có trình độ cấp 2 (48,27%).

Đặc điểm lâm sàng

MT
MOTT
Âm tính
Tổng

Nghiên cứu Y học
6
16
7
29

20.7
55.2
24.1
100.0

20.7

75.9
100.0

Nhận xét: Tỷ lệ phát hiện MT là 20,7%, tỷ lệ phát
hiện MOTT là 55,2%. Trong 16 trường hợp MOTT,
định danh được 5 trường hợp (2 trường hợp là M.
marium, 1 trường hợp M. smegmatis, 1 trường hợp
M.intracellulare, 1 trường hợp M. genavense).

Kết quả điều trị
Điều trị
PCR
MT
MOTT
Âm tính
Tổng

RHZ
6
0
4
10

Sulfa+
Doxy
0
11
3
14


Clari
+Cipro
0
2
0
2

Rifa +
Clari
0
3
0
3

Tổng
6
16
7
29

Tất cả sang thương đều có những đặc điểm
lâm sàng điển hình của dạng lao cóc.

Nhận xét

Kích thước sang thương: sang thương kích
thước
trung
bình
(20-50cm2)

chiếm 34,5%.

Các trường hợp PCR MT (+)
Sau điều trị bằng phác đồ RHZ, tất cả sang
thương (100%) đều lành trong vòng 8-14 tuần.
Bệnh nhân vẫn tiếp tục điều trị đủ thời gian của
phác đồ điều trị lao.

Thời gian mắc bệnh trung bình là 84,66 
93,00 tháng.
Không ghi nhận được tiền căn lao của cá
nhân cũng như gia đình bệnh nhân.

Kết quả các xét nghiệm trong chẩn đoán
lao da
Phản ứng lao tố (IDR): tất cả 29 trường hợp
đều dương tính.
Đường kính nhỏ nhất 2mm, đường kính lớn
nhất 22mm.

Giải phẫu bệnh
Hình ảnh GPB
Lao cóc
Viêm da mạn
Tổng

Số ca
7
22
29


Tỷ lệ %
24.1
75.9
100.0

Tỷ lệ % cộng dồn
24.1
100.0

Nhận xét: 24,1% có hình ảnh giải phẫu bệnh là lao da.

Cấy vi khuẩn
Một trường hợp cấy vi khuẩn có kết quả
Mycobacterium tuberculosis.
Phản ứng PCR
PCR

Số ca

Tỷ lệ %

Chuyên Đề Nội Khoa II

Tỷ lệ % cộng
dồn

Các trường hợp MOTT (+)
1 trường hợp không đáp ứng sau 4 tuần
điều trị, đổi Itraconazol đáp ứng sau 8 tuần.

4 trường hợp đáp ứng chậm sau 4 tuần, đổi
Clarithromycin + Ciprofloxacin đáp ứng tốt, các
trường hợp này đều là những trường hợp thời
gian mắc bệnh kéo dài > 2 năm.
1 trường hợp tổn thương sùi nhiều phải
phối hợp phẫu thuật cắt bỏ.

Các truờng hợp MOTT âm tính
Truờng hợp (15) điều trị thử bằng
Trimethoprim/ Sulfamethoxazole + Doxycycline
có đáp ứng.
Trường hợp (18,24) không đáp ứng với
Trimethoprim/ Sulfamethoxazol, chấm nitơ lỏng
sang thương lành sau 4-6 tuần.
Trường hợp (23) PCR MT (), PCR MOTT
(), lâm sàng điển hình, thời gian mắc bệnh lâu
20 năm, chúng tôi quyết định điều trị MT, sau 8

201


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

tuần không đáp ứng, điều trị Itraconazol đáp
ứng sau 8 tuần.
Có 1 trường hợp (26) PCR MT (), PCR
MOTT () nhưng do bệnh nhân có biểu hiện lâm
sàng điển hình, thời gian mắc bệnh đã 20 năm,

nên chúng tôi quyết định điều trị MT, kết quả
giảm 30% sau 2 tuần, khỏi bệnh sau 12 tuần.
Trường hợp (3) PCR MT (), PCR MOTT ()
nhưng kết quả cấy dương tính, chúng tôi điêu
trị MT, kết quả sang thương lành sau 8 tuần.
Trường hợp (17) PCR MT (), PCR MOTT ()
nhưng giải phẫu bệnh lý cho hình ảnh lao da,
lâm sàng điển hình chúng tôi điều trị MT sang
thương lành sau 10 tuần.
Như vậy, nếu xem kết quả điều trị là tiêu
chuẩn để hỗ trợ chẩn đoán thì sau điều trị:

Âm

6

3

9

Tổng

25

4

29

 = 4,19


p>0,05.

2

Độ nhạy: 76%.
Độ đặc hiệu: 75%.
Giá trị tiên đoán dương: 95%.
Giá trị tiên đoán âm: 33,33%.

So sánh kết quả PCR và cấy vi khuẩn
Bệnh

Lao

Không Lao

Dương

1

0

1

Âm

24

4


28

Tổng

25

4

29

Cấy

2 = 0,166

p> 0,05.

Độ nhạy: 4%.

9 trường hợp là MT.

Độ đặc hiệu: 100%.

16 trường hợp là MOTT.

Giá trị tiên đoán dương: 100%.

2 truờng hợp là nấm sâu.

Giá trị tiên đoán âm: 13,79%.


2 trường hợp chưa rõ chẩn đoán (có thể là
mụn cóc bội nhiễm, có thể là dày sừng bội
nhiễm…).
Do đó tỷ lệ nhiễm MT trên bệnh nhân lao da
là 36% và tỷ lệ nhiễm MOTT là 64%.

So sánh PCR và các XN chẩn đoán lao khác
Độ nhạy và độ đặc hiệu của PCR trong chẩn
đoán lao da:
Chẩn đoán
PCR
Dương tính
Âm tính
Tổng

2 = 6,55

Không Lao

Tổng

(a) 21
(c) 4

(b) 1
(d) 3

(a +c) 25

b+d) 4


(a+b) 22
(c+d) 7
(a+b+c+d)
29

p = 0,03 <0,05.

Bệnh

Lao

Không Lao

Tổng

6

1

7

Viêm da mạn

19

3

22


Tổng

25

4

29

Giải Phẫu Bệnh
Lao cóc

Giá trị tiên đoán âm: d/c+d = 42,85%.

So sánh kết quả PCR và IDR
Bệnh

Độ nhạy: 24%.
Độ đặc hiệu: 75%.
Giá trị tiên đoán dương: 85,71%.
Giá trị tiên đoán âm: 13,63%.
Nhận xét: Xét nghiệm giải phẫu bệnh có độ nhạy là
24% và độ đặc hiệu là 75%.

Giá trị tiên đoán dương: a/a+b = 95,45%.

202

So sánh kết quả PCR và giải phẫu bệnh

 = 0,002 p> 0,05.

Lao

Độ đặc hiệu: d/b+d = 75%.

Dương

Nhận xét: Cấy vi khuẩn có độ đặc hiệu cao (100%)
nhưng độ nhạy thấp (4%).

2

Độ nhạy: a/a+c = 84%.

IDR

Tổng

Lao

Không Lao

Tổng

19

1

20

So sánh độ nhạy và độ đặc hiệu của các

phương pháp chẩn đoán
PP chẩn
Độ Độ đặc Giá trị tiên đoán Giá trị tiên
đoán nhạy % hiệu %
dương %
đoán âm %
PCR
84
75
95,45
42,85
Giải phẫu
24
77
85,71
13,63
bệnh
Cấy
04
100
100
13,79
IDR
76
75
95
33,33

Chuyên Đề Nội Khoa II



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Nhận xét: Trong các phương pháp chẩn đoán lao da,
PCR là xét nghiệm có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn
các xét nghiệm khác.

BÀN LUẬN
Tình hình dịch tễ, đặc điểm lâm sàng của
bệnh lao da
Dịch tễ học: nhiều tác giả cũng nhận định
phù hợp với kết quả nghiên cứu như tỷ lệ mắc
bệnh của nam nhiều hơn nữ, tuổi mắc bệnh
thường gặp là độ tuổi trung niên (31-40
tuổi)(12,7). Lao da gặp nhiều ở các đối tượng
công nhân, nông dân là hợp lý vì trong quá
trình lao động các đối tượng này dễ bị chấn
thương ở chân tay, tạo điều kiện cho vi khuẩn
lao xâm nhập vào da(6).
Đặc điểm lâm sàng: tất cả sang thương
đều có biểu hiện lâm sàng điển hình của dạng
lao cóc (mảng sùi đỏ tím, tiến triển ly tâm,
bóp đau), là dạng lao da chiếm đa số theo
nghiên cứu của nhiều tác giả. Thời gian mắc
bệnh của các bệnh nhân trung bình từ 84,66 
93,00 tháng, tương đối kéo dài, có lẽ do lao da
không gây các biến chứng trầm trọng nên
bệnh nhân không quan tâm(6).

Giá trị các xét nghiệm trong chẩn đoán lao
da

Các xét nghiệm thường quy như công thức
máu, VS không có giá trị trong chẩn đoán lao
da.
Phản ứng lao tố IDR dương tính chỉ có ý
nghĩa gợi ý đã nhiễm lao.

Xét nghiệm giải phẫu bệnh
Theo nghiên cứu, giải phẫu bệnh chỉ giúp
phát hiện 24,1% các trường hợp lao da. So sánh
với nghiên cứu của nhiều tác giả như Negi
(73,5%), Umapathy (88%), Zouhair (57%), Garcia
(70,6%), Fenniche (96%), Ngọc Mỹ (15,38%),
Nguyễn Thị Vân (37,5%). Tỷ lệ phát hiện lao da
bằng giải phẫu bệnh thay đổi như trên có thể
phụ thuộc vào kinh nghiệm người đọc và phản
ứng u hạt dạng củ khó phân biệt với các bệnh da
mãn tính khác như nấm sâu, sarcoidoise. Mặt

Chuyên Đề Nội Khoa II

Nghiên cứu Y học

khác, giải phẫu bệnh không thể phân biệt được
lao da do MT hay MOTT(Error! Reference source not found.,12).
Do đó giải phẫu bệnh có mặt hạn chế trong chẩn
đoán lao da.

Cấy vi khuẩn
Cấy vi khuẩn dương tính là tiêu chuẩn vàng
để chẩn đoán lao da, nhưng do lao da là thể lao

ít vi khuẩn nên rất khó tìm được sự hiện diện
của vi khuẩn lao ở sang thương(1,4,8).
Tỷ lệ cấy vi khuẩn dương tính trên môi
trường Lowenstein-Jensen theo Zouhair (9%),
Negi (29,4%), Garcia (77,8%). Kết quả của nghiên
cứu là 3,8%. Do tỷ lệ dương tính thấp của cấy vi
khuẩn và thời gian cho kết quả lâu (4 -6 tuần) đã
làm hạn chế sử dụng kết quả cấy trong chẩn
đoán lao da.

Phản ứng chuỗi PCR
PCR giúp phát hiện 20,7% dương tính
chủng MT và 55,2% dương tính chủng MOTT;
trong 16 trường hợp MOTT định danh được 5
trường hợp.
Nghiên cứu đã thực hiện phản ứng PCR trên
mẫu bệnh phẩm da và cho kết quả khả quan.
Kết quả này cũng phù hợp với nhận định của
nhiều tác giả như Arora (60% dương tính MT),
Negi (PCR dương tính 79,4%), Patmavathy (PCR
dương tính 62,2%).
Mặt khác PCR còn giúp phân biệt lao da do
MT và MOTT, chính điều này đã giúp bệnh
nhân giảm được chi phí, thời gian điều trị. Việc
phát hiện các chủng MOTT trên tổn thương lao
da đã phù hợp với kết quả của nhiều tác giả là
tỷ lệ nhiễm MOTT ngày càng gia tăng(1,2,3,10).
PCR có ưu điểm hơn các xét nghiệm khác
trong chẩn đoán lao da là cho kết quả nhanh
(24-48h) nên có giá trị trong chẩn đoán lao

sớm(11). Đồng thời, PCR cho phép xác định
ngay là nhiễm lao mà không cần làm thêm các
xét nghiệm vi sinh xác định vì với PCR sẽ
phát hiện đoạn ADN đích chỉ đặc hiệu cho
MT hay MOTT(8).
Tuy nhiên qua nghiên cứu PCR không phát
hiện được 4 trường hợp lao da, trong đó có 1

203


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

trường hợp cấy dương tính, và PCR lại dương
tính ở 1 trường hợp không phải lao. Do đó PCR
cũng có mặt hạn chế.

Kết quả điều trị
Tóm lại sau phối hợp giải phẫu bệnh, nuôi
cấy vi khuẩn, PCR và điều trị, trên quần thể
bệnh nhân lao da tỷ lệ nhiễm MT là 36% và
MOTT là 64%. Theo Abdalla, nghiên cứu ở
Brazil nguyên nhân lao da do MT là 42%, do
MOTT là 58%(6). Như vậy, ở Việt Nam sự xuất
hiện các chủng MOTT đã được phát hiện và khả
năng gây bệnh của chúng ngày càng nhiều, cần
được chú ý về mặt dịch tễ và có hướng dẫn điều
trị phù hợp.

Hơn nữa, lao da là thể bệnh hiếm gặp, luôn
thách thức các bác sĩ lâm sàng, vi sinh và giải
phẫu bệnh trong việc chẩn đoán. Vai trò gây
bệnh của các chủng MOTT trên tổn thương da
ngày càng nhiều, cần phải được quan tâm để có
thể chẩn đoán và điều trị chính xác.

So sánh PCR với các xét nghiệm chẩn đoán
lao khác
Trong việc chẩn đoán lao da do MT và
MOTT, phản ứng PCR có độ nhạy 84% và độ
đặc hiệu 75% cao hơn xét nghiệm giải phẫu
bệnh lý và nuôi cấy vi khuẩn. Hơn nữa, khi so
sánh phản ứng chuỗi PCR và các xét nghiệm
khác như giải phẩu bệnh và cấy vi khuẩn để
chẩn đoán lao da thì giải phẫu bệnh có độ nhạy
cảm thấp (24%) và không giúp phân biệt nhiễm
MT và MOTT. Còn cấy vi khuẩn tuy là tiêu
chuẩn vàng để chẩn đoán nhưng độ nhạy rất
thấp (4%) và thời gian có kết quả lâu. Do đó,
việc chẩn đoán đúng và sớm là điều rất cần thiết
trong việc quản lý và điều trị bệnh nhân lao da,
cho nên trong điều kiện giải phẫu bệnh và cấy vi
khuẩn còn hạn chế thì PCR rất có giá trị trong
việc chẩn đoán và phân loại nguyên nhân lao
da.
Giá thành của một xét nghiệm PCR trong
chẩn đoán lao da do MT và MOTT có thể chấp
nhận được trong điều kiện kinh tế hiện nay. Một
khi được chẩn đoán đúng, bệnh nhân lao da do

MT sẽ được điều trị theo chương trình chống lao

204

quốc gia hoàn toàn miễn phí. Còn bệnh nhân
lao da do MOTT sẽ được chỉ định thuốc và chọn
lựa thời gian điều trị thích hợp theo từng tác
nhân gây bệnh, tránh được việc dùng thuốc lâu
dài làm ảnh hưởng đến các chức năng sinh học
của cơ thể.
Tuy nhiên, dù PCR có ưu thế hơn IDR, cấy
vi khuẩn, giải phẫu bệnh trong chẩn đoán lao da
nhưng nhưng chẩn đoán cuối cùng là lao da do
MT hay MOTT sẽ không thực hiện được nếu chỉ
đơn thuần dựa vào PCR. Do đó việc khám lâm
sàng kỹ lưỡng, phối hợp với giải phẫu bệnh là
những yếu tố cần thiết trong việc chẩn đoán lao
da do MT và MOTT.

Một số hạn chế của nghiên cứu
Do nghiên cứu chọn đáp ứng điều trị là tiêu
chuẩn để chẩn đoán sau cùng lao da do MT hay
MOTT, nên có những hạn chế:
Không có phác đồ chuẩn để điều trị MOTT.
Những bệnh nhân không đáp ứng điều trị
MT hay MOTT không loại trừ được
kháng thuốc.

KẾT LUẬN
Tỷ lệ nhiễm MT và MOTT trên bệnh nhân

lao da
Sau phối hợp điều trị, giải phẫu bệnh,
nuôi cấy vi khuẩn, PCR, trên quần thể bệnh
nhân lao da tỷ lệ nhiễm MT là 36%, tỷ lệ
nhiễm MOTT là 64%.

So sánh PCR và các xét nghiệm chẩn đoán
lao khác
Xét nghiệm IDR dương tính chỉ gợi ý đã
nhiễm lao.
Giải phẫu bệnh có độ nhạy thấp 24% và
không thể phân biệt nhiễm MT với MOTT.
Cấy vi khuẩn tuy là tiêu chuẩn vàng để chẩn
đoán nhưng độ nhạy thấp 4% và thời gian có kết
quả rất lâu.
Phản ứng chuỗi PCR trong chẩn đoán lao da
có độ nhạy là 84%, độ đặc hiệu là 75%.

Chuyên Đề Nội Khoa II


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Phản ứng chuỗi PCR có ưu thế hơn IDR, giải
phẫu bệnh, cấy vi khuẩn trong chẩn đoán lao
da.

KIẾN NGHỊ
Dựa trên kết quả nghiên cứu xác định tỷ lệ
dương tính của nhiễm MT và MOTT trên
bệnh nhân lao da, xin được đề xuất một số

kiến nghị sau:
Phát triển mạng lưới y tế cơ sở, đẩy mạnh
việc giáo dục sức khoẻ đặc biệt cho bệnh nhân ở
các tỉnh, khuyến khích người dân đi khám sớm
khi có thay đổi bất thường ngoài da. Các tài liệu
giáo dục sức khoẻ khi biên soạn phải phù hợp
với trình độ học vấn để bệnh nhân dễ tiếp thu.
Khi khám sức khoẻ định kỳ cho các đối tượng
công nhân lao động chân tay nhiều nên chú ý
các sang thương ngoài da để có thể sớm phát
hiện lao da.
Xây dựng phác đồ điều trị lao da do MOTT
để có thể hướng dẫn bác sĩ lâm sàng trong việc
điều trị và theo dõi bệnh nhân lao da.
Hoàn chỉnh hơn thử nghiệm PCR trong chẩn
đoán lao da do MT và MOTT nhằm tăng khả
năng phát hiện và định danh các chủng MOTT.

2.

3.
4.

5.

6.
7.
8.

9.


10.
11.

12.

13.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Abdalla C (2009), “Polymerase chain reaction compared to
orther laboratory findings and to clinical evaluation in the
diagnosis of cutaneous tuberculosis and atypical mycobacteria
skin infection”, Int J Dermatol, 48(1), pp 27-35.

Chuyên Đề Nội Khoa II

Nghiên cứu Y học

Jaime E, Aberto O (2009), “Current treatment of atypical
mycobacteriosis”, Expert Opin Pharmacother, 10 (17), pp 27872799.
Katoch V (2004), “Infections due to non-tuberculous
mycobacteria (NTM)”, Indian J Med Res, 120, pp 290-304.
Negi S, Basir S, Gupta (2005), “Comparative study of PCR,
smear examination and culture for diagnosis of cutaneous
tuberculosis”, J Commun Dis, 37 (2), pp 83-92.
Nguyễn Ngọc Lan (2001), “Nghiên cứu áp dụng kỹ thuật phản
ứng chuỗi polymerase (Polymerase chain reaction) trong chẩn
đoán lao”, Luận án tiến sĩ y khoa. Đại học Y Dược TP. HCM.

Nguyễn Thị Ngọc Mỹ (1996), “Góp phần nghiên cứu bệnh Lao
da”, Luận án thạc sĩ y khoa. Đại học Y Dược TP. HCM.
Nguyễn Thị Vân, Phạm Văn Hiển, Đỗ văn Thành (1996), “Nhận
xét đặc điểm lâm sàng bệnh lao da”, Y học Việt Nam, 179, tr.1-5.
Padmavathy L, Rao L, Veliath A (2003), “Utility of polymerase
chain reaction as a diagnosis tool in cutaneous tuberculosis”,
Indian J Dermatol Venereol Leprol, 69 (3), pp 214-216.
Phạm Hùng Vân (2009), “Polymerase chain reaction”, PCR và
real-time PCR, các vấn đề cơ bản và áp dụng thường gặp, Nhà xuất
bản Y học, tr 9-32.
Streit M, Bregenzer T, Heinzer I (2008),“Cutaneous infections
due to atypical mycobacteria”, Hautarzt, 59 (1), pp 59-70.
Tan S, Tan H, Sun Y (2001), “Clinical utility of polymerase chain
reaction in the detection of Mycobacterium tuberculosis in
different types of cutaneous tuberculosis and tuberculid”, Ann
Acad Med Singapore, 30 (1), pp 3-10.
Võ Thị Bạch Sương, Hoàng Văn Minh, Nguyễn văn Út (1988),
“Khảo sát tình hình lao da điều trị tại Bộ môn Da liễu Đại học Y
dược TP Hồ Chí Minh trong 15 năm (1971-1086)”, Báo cáo khoa
học- Hội nghị khoa học kỹ thuật của tuổi trẻ các trường đại học Y
dược toàn quốc lần thứ IV tháng 5/1988- Học viện Quân y, tr.19-20.
Walter F (1975), “Bacterial diseases”, Histopathology of the skin,
pp 276-283. 65. Welsh O, Vera C (2007), “Cutaneous tuberculosis
confirmed by PCR in three patients with biopsy and culture
negative for Mycobacterium tuberculosis” Int J Dermatol, 46 (7), pp
734-735.

.

205




×