Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật một thì trong điều trị tắc ruột do ung thư đại tràng trái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.26 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT MỘT THÌ  
TRONG ĐIỀU TRỊ TẮC RUỘT DO UNG THƯ ĐẠI TRÀNG TRÁI 
Vũ Hoàng Hà* 

TÓM TẮT 
Mở đầu: phẫu thuật điều trị tắc ruột do ung thư đại tràng (UTĐT) trái vẫn là thách thức đối với các phẫu 
thuật viên. Nghiên cứu này đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật một thì điều trị tắc ruột do UTĐT trái tại bệnh 
viện Nhân dân Gia định trong gần 10 năm từ 1.1999 – 6.2008. 
Thiết kế nghiên cứu: Chúng tôi nghiên cứu hồi cứu đánh giá kết quả sớm 27 BN, gồm 12nam, 15 nữ, có 
tuổi trung bình 54.5 ± 14.6; 15 (55.6%). 17 (55.6%) BN được đánh giá trước mổ theo ASA I, II; 12 (44.4%) có 
ASA III. 
Kết quả: 17(66.5%) TH tắc ở đại tràng chậu hông, 6 TH (18.5%) u gây tắc ở đại tràng xuống, 4 TH(15%) 
tắc ở đại tràng góc lách. Rửa đại tràng trong mổ được thực hiện ở 21 BN, 6 TH chỉ xả phân trước khi cắt nối. Tỷ 
lệ tử vong 0%, xì dò 0%, thời gian nằm viện trung bình 9 ± 3 ngày 
Kết luận: phẫu thuật một thì điều trị tắc ruột do UTĐT trái cho kết quả tốt ở những BN có ASA từ I – III. 
Từ khóa: ung thư đại tràng, tắc ruột. 

ABSTRACT 
THE RESULT OF ONE STAGE SURGERY MANAGEMENT OF LEFT‐SIDED COLONIC 
OBSTRUCTION 
Vu Hoang Ha * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 113 ‐ 120 
Background: Surgical management of left‐sided colonic obstruction is a surgical challenge. This study was 
performed to review our management of patients with left colon obstruction by one stage surgery presenting to 
the Nhân dân Gia định Hospitals approximate a 10‐year period, 1.1999 to 6.2008. 
Study Design: We did a retrospective chart review early outcome of 27 patients who had one stage surgery 
management (12 male and 19 female; mean age 54.5 years). 100% had obstructing colorectal cancer.  
Results:  Sites  of  obstruction  were  sigmoid  colon,17  (66.5%);  descending  colon,  6  (18.5%);  and  splenic 


flexure, 4 (15%). Seventeen patients had ASA score before surgery I, II; twelve had III. Intraoperative colonic 
lavage was undertaken in 21 cases, 6 patients had single stage only with bowel decompression before anastomosis. 
Morbidity after surgery was 19%, anastomotic leak was 0%, none die during post – operation. Average time after 
surgery was 9 days.  
Conclusion: single stage surgery treatment left colonic obstruction would have good result in patients who 
have ASA score I – III. 
Keywords: colonic cancer, colonic obstruction. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tắc ruột là một cấp cứu ngoại khoa thường 
gặp. Nguyên nhân, đặc điểm lâm sàng, phương 
pháp điều trị khác nhau giữa tắc ruột non và tắc 

đại  tràng.  Trong  số  tắc  đại  tràng,  ung  thư  là 
nguyên nhân thường gặp nhất(11,12,14). Ở các nước 
Âu – Mỹ, ung thư đại trực tràng (UTĐTT) đứng 
hàng  đầu  trong  ung  thư  của  đường  tiêu  hóa, 
đứng hàng thứ hai sau ung thư phổi ở nam và 

* Bộ môn Ngoại – Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BSCKII. Vũ Hoàng Hà 
Email:    ĐT: 0917114941 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

113


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

sau ung thư vú ở nữ giới(1,2). Ở Việt nam và các 
nước Đông nam Á, UTĐTT đứng hàng thứ hai 
(sau ung thư dạ dày) trong ung thư đường tiêu 
hóa và hàng thứ tư trong các loại ung thư (sau 
ung thư phổi, vú và dạ dày theo thứ tự). Số liệu 
trong và ngoài nước cho thấy khoảng 9 – 29% số 
trường hợp UTĐTT đến bệnh viện vì tắc ruột(8,29).  
Phẫu thuật (PT) điều trị tắc ruột do UTĐTT 
thường  phức  tap,  do  vừa  phải  giải  quyết  biến 
chứng  tắc  ruột  vừa  phải  điều  trị  bệnh  ung  thư 
mà  thường  đã  ở  giai  đoạn  tiến  triển.  Tỷ  lệ  tử 
vong  trong  phẫu  thuật  tắc  ruột  do  UTĐTT  của 
những  năm  50,  60  của  thế  kỷ  XX  thường  trên 
20% (8,9), chủ yếu do biến chứng nhiễm trùng. 
Phẫu thuật một thì điều trị tắc ruột do UTĐT 
trái  được  chấp  nhận  rộng  rãi  với  rửa  đại  tràng 
trong  mổ.  Trong  10  năm  gần  đây,  với  sự  phát 
triển của chuyên ngành gây mê hồi sức, sự phát 
hiện  những  thuốc  kháng  sinh  mới,  cùng  với 
những  thành  tựu  trong  nghiên  cứu  về  sinh  lý 
đại  tràng  và  thực  nghiệm  phẫu  thuật  đại  tràng 
trên động vật, một số tác giả đã thực hiện cắt đại 
tràng  trái  nối  ngay  trong  cấp  cứu  sau  khi  xả 
phân mà không phải rửa đại tràng trong mổ.  
Ở Việt nam, phẫu thuật điều trị tắc ruột do 
UTĐT  trái  trước  đây  chủ  yếu  được  thực  hiện 
qua  hai,  ba  thì  mổ  nếu  u  còn  cắt  được.  Trong 
mười  năm  gần  đây  một  số  trung  tâm  lớn  bắt 

đầu  thực  hiện  phẫu  thuật  một  thì,  tuy  nhiên, 
nhìn  chung  lựa  chọn  phương  pháp  phẫu  thuật 
vẫn còn khác nhau ở các phẫu thuật viên.  
Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này 
với những mục tiêu sau: 
Xác  định  tỷ  lệ  biến  chứng  liên  quan  đến 
phẫu thuật 
‐  Bục miệng nối gây viêm phúc mạc. 
‐  Rò miệng nối ra ngoài (không viêm phúc 
mạc),  Áp  xe  tồn  lưu,  bung  thàng  bụng,  nhiễm 
trùng vết mổ, nhiễm trùng khác. 

ĐỐI TƯỢNG ‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp nghiên cứu 
Hồi cứu, cắt ngang, mô tả.  

114

Thời gian nghiên cứu 
Từ 01/1/1999 đến 30/6/2008.  

Địa điểm nghiên cứu 
Bệnh viện Nhân dân Gia định. 

 Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Tất cả các bệnh nhân tắc ruột do UTĐT trái 
được điều trị phẫu thuật tại bệnh viện Nhân dân 
Gia  định  trong  thời  gian  nghiên  cứu,  có  chẩn 
đoán xác định sau mổ, hồ sơ – bệnh án cất giữ 

tại phòng lưu trữ của bệnh viện.  
Đại tràng trái trong nghiên cứu được tính từ 
đại  tràng  góc  lách  đến  chỗ  nối  đại  tràng  chậu 
hông – trực tràng. 
Các bệnh  nhân  được  phẫu  thuật  một  thì  có 
các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến phẫu thuật ở 
mức độ vừa phải (ASA I, II, III). 

Tiêu chuẩn loại trừ 
‐  Tất cả các bệnh nhân tắc ruột do ung thư 
di căn từ nơi khác đến gây tắc ở ĐT trái.  
‐  BN được PT tắc ruột do UTĐT trái ở cơ sở 
khác,  sau  đó  chuyển  đến  bệnh  viện  Nhân  dân 
Gia định để mổ thì hai, hay vì biến chứng của thì 
mổ đầu. 
‐  Bệnh nhân bị thất lạc hồ sơ – bệnh án.  
‐  BN tắc ruột do UTĐT trái không còn khả 
năng cắt bỏ hoặc có các yếu tố nguy cơ theo ASA 
từ IV  

Thu thập số liệu 
Tất  cả  hồ  sơ  bệnh  án  tắc  ruột  do  UTĐT  từ 
góc lách đến đại tràng chậu hông được thu thập 
dữ liệu theo một mẫu biểu thống nhất về các chi 
tiết: 
‐Giới,  tuổi,  địa  chỉ;  ngày  vào  viện,  ngày  ra 
viện.  
‐  Lý do vào viện.  
‐  Chẩn  đoán  của  phòng  khám,  chẩn  đoán 
trước mổ, chẩn đoán sau mổ.  

‐  Bệnh  nội  khoa  ảnh  hưởng  đến  cuộc  mổ, 
đánh ‐ giá  bệnh  nhân  trước  mổ  theo  ASA 
(American Society of Anesthesiologist grade):  

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ASA  I:  bệnh  nhân  khỏe  mạnh,  không  mắc 
bệnh kèm theo.  

65 trở lên có 24 TH (36,36%). Một TH 80 tuổi (lớn 
tuổi nhất) được phẫu thuật một thì  

ASA  II:  bệnh  nhân  mắc  một  bệnh  nhẹ, 
không ảnh hưởng đến chức năng các cơ quan 
trong cơ thể.  

Tuổi trung bình của BN phẫu thuật một thì: 
54,5 ± 14,6. 

ASA III: bệnh nhân mắc một bệnh nặng, gây 
ảnh hưởng đến chức năng các cơ quan trong cơ 
thể.  

Đánh giá BN trước mổ theo ASA 
Bảng 1: Tương quan giữa phương pháp PT và đánh 

giá BN trước mổ theo ASA: 

ASA  IV:  bệnh  nhân  mắc  một  bệnh  nặng, 
thường xuyên đe dọa đến tính mạng bệnh nhân 
và gây suy sụp chức năng các cơ quan trong cơ 
thể.  
ASA  V:  bệnh  nhân  đang  hấp  hối,  có  thể  tử 
vong trong vòng 24 giờ dù mổ hay không mổ.  
ASA VI: bệnh nhân đã chết não, có thể lấy cơ 
quan để ghép.  
‐  Biên bản phẫu thuật: đánh giá tình trạng 
bụng, vị trí u, xâm lấn, di căn, phương pháp mổ, 
thời gian tính từ lúc rạch da đến khi đóng bụng 
xong, tai biến trong mổ.  
‐  Biến  chứng  trong  thời  kỳ  hậu  phẫu, 
nguyên nhân tử vong.  
‐  Thời gian hậu phẫu.  
‐  Kết quả giải phẫu bệnh lý  
  Riêng  bệnh  nhân  tắc  ruột  do  UTĐT  ở  vị 
trí khác, chúng tôi chỉ tôi chỉ thu thập một số dữ 
liệu để tham khảo như tuổi, giới,  địa  chỉ,  lý  do 
vào viện, chẩn đoán, phương pháp mổ, nguyên 
nhân tử vong hậu phẫu.  

Xử lý số liệu 
Các số liệu thu thập được mã hóa, xử lý trên 
phần mềm SPSS.  

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm chung 

Giới 
12 nam, 15 nữ, tỷ lệ nam / nữ: 0.8 
Tuổi 
Trong  66  TH  tắc  ruột  do  UTĐT  trái  được 
điều trị, tuổi nhỏ nhất là 22 có 1 TH, lớn nhất là 
90  có  1  TH,  tuổi  trung  bình  60,2  15.  Tập  trung 
nhiều ở lứa tuổi từ 40 ‐ 80 có 54 TH (81,8%), từ 

Vị Trí Tắc 
4  TH  (15%)  tắc  ở  đại  tràng  góc  lách,  5  TH 
(18.5%)  u  gây  tắc  ở  đại  tràng  xuống,  còn  lại  17 
TH (66.5%) tắc ở đại tràng chậu hông. 

Phẫu thuật 
Phương pháp phẫu thuật: 
Trong 66 trường hợp tắc ruột do UTĐT trái 
có 50 TH u còn cắt bỏ được chiếm 75,75%. Trong 
số 50 TH này, 27 TH được làm PT một thì và 23 
TH được PT dự tính theo kiểu hai thì. Cả 23 TH 
đều  được  PT  thì  một,  sau  đó  chỉ  có  6/23  TH 
(26%)  được  hoàn  tất  PT  thì  hai  tại  bệnh  viện 
Nhân dân Gia định. 
Trong số 27 TH phẫu thuật một thì, 19 TH 
chúng tôi rửa  đại  tràng  trong  khi  mổ  qua  gốc 
ruột  thừa  sau  khi  cắt  ruột  thừa,  1  TH  mở  hồi 
tràng  để  rửa  (do  bệnh  nhân  đã  mổ  viêm  ruột 
thừa trước đó). Có 6 TH xả phân sau khi đã cắt 
đại  tràng,  phục  hồi  lưu  thông  tiêu  hóa  không 
rửa ĐT; một TH cắt gần toàn bộ đại tràng trên 
BN tắc ở ĐT chậu hông và đã có dấu hiệu hoại 

tử ở ĐT phải. Không có TH nào chúng tôi mở 
hồi  tràng  hoặc  dẫn  lưu  manh  tràng  ra  da  để 
bảo vệ miệng nối.  
Tất cả 9 TH nối đại tràng‐trực tràng, miệng 
nối  nằm  trong  phúc  mạc  và  được  nối  bằng 
tay.Chúng  tôi  khâu  nối  hai  lớp,  lớp  trong  bằng 
chỉ vicryl 3/0, lớp ngoài bằng chỉ soie 3/0 cho 27 
miệng nối.  

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

115


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Trong phẫu thuật một thì với rửa xuôi chiều, 
lượng  nước  rửa  chúng  tôi  ghi  nhận  được  thấp 
nhất 3 l, nhiều nhất 27 l. 

Thời gian phẫu thuật 
Thời gian trung bình của phẫu thuật một thì 
nói chung: 195,9 ± 47,8 phút.Trong 27 BN phẫu 
thuật  một  thì,  thời  gian  trung  bình  của  phẫu 
thuật  một  thì,  xả  phân  trước  khi  nối:  160,8  ± 
18,5phút;  thời  gian  trung  bình  của  phẫu  thuật 
một thì, rửa đại tràng xuôi chiều: 198,18 ± 50,27, 
tức  là  dài  hơn  so  với  không  rửa  đại  tràng 

khoảng  40  phút.  Tuy  nhiên,  sự  khác  biệt  này 
chưa có ý nghĩa thống kê (kiểm định t, p = 0,209> 
0,05).  
Một  trường  hợp  cắt  gần  toàn  bộ  đại  tràng 
nối hồi tràng – ĐT chậu hông mất hết 240 phút.  

Tai biến, biến chứng, tử vong 
Tai biến trong mổ 
Chúng tôi không gặp tai biến trong mổ đáng 
kể nào ở tất cả 27 bệnh nhân. 
Biến chứng sau mổ, tử vong: 
Có 7/27 BN trong nhóm PT một thì xuất hiện 
tiêu chảy vào hậu phẫu ngày 3, 4 thường chỉ kéo 
dài  vài  ba  ngày,  không  cần  phải  xử  trí  gì  nên 
chúng  tôi  không  xếp  tiêu  chảy  vào  biến  chứng 
sau mổ. 
 Chúng  tôi  đánh  giá  nhiễm  trùng  vết  mổ 
(NTVM)  khi  vết  mổ  phải  mở  từng  phần  hoặc 
toàn  bộ  để  dẫn  lưu  mủ.  5  TH  (19.5%)  có  biến 
chứng  sau  mổ,  không  TH  nào  xì  miệng  nối,  tử 
vong hậu phẫu 0%. 
Bảng 2: Tỷ lệ biến chứng, tử vong hậu phẫu: 

Thời gian hậu phẫu
Thời  gian  hậu  phẫu  trung  bình  của  phẫu 
thuật một thì: 9 ± 3 ngày.  

116

BÀN LUẬN  

Khoảng  70  –  95%  trường  hợp  tắc  ruột  do 
ung thư đại tràng (UTĐT) trái còn khả năng cắt 
bỏ được đoạn đại tràng mang u (14,15,20,23). Do phải 
phẫu thuật trong tình trạng đại tràng chưa được 
chuẩn bị, điều trị kinh điển tắc ruột do UTĐTT 
còn cắt được thường phải trải qua nhiều thì mổ 
nhằm  mục  đích  chuẩn  bị  đại  tràng  và  nâng  đỡ 
tổng  trạng  bệnh  nhân,  giảm  thiểu  tỷ  lệ  xì  dò 
miệng nối. Phương pháp  này  tuy  tương  đối  an 
toàn,  nhưng  tai  biến,  biến  chứng  tích  lũy  qua 
nhiều  thì  mổ  tăng  lên  đáng  kể,  thời  gian  nằm 
viện dài, chi phí điều trị tăng. Khối u không cắt 
được  thì  đầu  sẽ  tăng  nguy  cơ  phát  tán  tế  bào 
ung  thư,  làm  giảm  khả  năng  điều  trị  triệt  căn 
cho người bệnh. Ngay cả khi cắt được u, một số 
bệnh  nhân  (BN)  vì  nhiều  lý  do  phải  mang  hậu 
môn nhân tạo (HMNT) vĩnh viễn với nhiều biến 
chứng  của  HMNT  ảnh  hưởng  đến  chất  lượng 
cuộc sống.  
Năm  1968  Muir(17)  mô  tả  kỹ  thuật  rửa  đại 
tràng  trong  khi  mổ.  Năm  1980  Dudley(11)  thực 
hiện  rửa  đại  tràng  trong  khi  mổ  bằng  cách  cắt 
ruột thừa và luồn thông Foley qua gốc ruột thừa. 
Đến năm 1983, Dudley và Radcliffe(25) đã mô tả 
và báo cáo kết quả khả quan của phương pháp 
này.  Từ  đó  rửa  đại  tràng  trong  khi  mổ  được 
nhiều  trung  tâm  áp  dụng  và  được  xem  là  kỹ 
thuật cần thiết trong phẫu thuật một thì điều trị 
tắc ruột do ung thư đại tràng trái với tỷ lệ xì dò 
miệng nối được chấp nhận dưới 5%(28).  


Kết quả phẫu thuật 
Chúng  tôi  không  gặp  các  tai  biến  lớn  trong 
mổ mà y văn nói đến như đứt niệu quản trái, vỡ 
lách, tổn thương mạch máu lớn, chảy phân vào 
ổ  bụng…  có  vài  trường  hợp  có  rỉ  ít  phân  vào 
bụng chỉ cần lau bằng gạc không cần rửa bụng, 
theo dõi hậu phẫu đều không có biến chứng.  
Tỷ  lệ  phẫu  thuật  một  thì  của  chúng  tôi  là 
41%  thấp  hơn  nhiều  so  với  Lee(15):  74,2%; 
Deen(14):  85%;  Poon(23):  81%  nhưng  cao  hơn  của 
Hà  Văn  Quyết(10):  14,75%  và  Phạm  Văn  Tấn(22): 
8,1%.  

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

Thời  gian  mổ  trung  bình  của  PT  một  thì  là 
195,9  ±  47,8  phút,  tuy  nhiên  thời  gian  mổ  khác 
nhau ở từng loại PT một thì. 

cắt  gần  toàn  bộ  ĐT  do  tổn  thương  manh  tràng 
gấp hơn 3 lần nhóm dưới 70 tuổi, khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p = 0,04). 

Chúng tôi có một trường hợp (1,5%) cắt gần 

toàn bộ đại tràng, nối hồi tràng‐ đại tràng chậu 
hông,  thời  gian  mổ  hết  240  phút.  Các  tác  giả 
nước  ngoài  có  tỷ  lệ  cắt  gần  toàn  bộ  ĐT  trong 
phẫu thuật một thì điều trị tắc ruột do UTĐT trái 
khá  cao,  Poon(23):  13/116  TH  (11,2%),  Lee(15): 
26/101  (25,7%),  Hsu(12):  22/127  (17,3%).  Các  tác 
giả  này  đều  ghi  nhận  tỷ  lệ  xì  dò  miệng  nối,  tử 
vong,  thời  gian  nằm  viện  trong  PT  cắt  toàn  bộ 
hay gần toàn bộ ĐT là tương đương với PT cắt 
ĐT trái, nối ruột thì đầu. Có sự khác biệt ở  tần 
suất  đi  cầu,  hồi  tràng  bị  cắt  càng  dài  số  lần  đi 
cầu sẽ càng tăng, mặc dù hiếm khi có tiêu chảy 
nặng. Theo Stephenson (28) 19% số BN này cần sử 
dụng thuốc điều trị tiêu chảy. Tần suất đi cầu sẽ 
cải  thiện  theo  thời  gian  nhưng  sau  4  tháng  sự 
khác biệt giữa hai nhóm (cắt toàn bộ ĐT và cắt 
đoạn ĐT trái) vẫn có ý nghĩa thống kê(7). Do đó, 
cần thận trọng khi chỉ định cắt gần toàn bộ ĐT ở 
những BN có rối loạn cơ vòng hoặc có hội chứng 
ruột ngắn. 

‐  Ung  thư  nhiều  vị  trí,  đa  polip:  Lựa  chọn 
thường là cắt toàn bộ ĐT. 

Theo  Hsu(12),  lựa  chọn  cắt  gần  toàn  bộ  ĐT 
còn  phụ  thuộc  vào  kinh  nghiệm  và  ưa  chuộng 
của phẫu thuật viên. Một số tác giả cho rằng cắt 
toàn bộ ĐT sẽ loại bỏ nguy cơ ung thư tiềm tàng 
ở các vị trí khác của ĐT và miệng nối hồi tràng – 
đại tràng an toàn hơn nối đại – đại tràng. Chúng 

tôi có 2 TH đã được cắt đoạn ĐT trái do ung thư, 
sau đó ung thư tái phát gây tắc ruột (1 TH sau 1 
năm, 1 TH sau 10 năm), cả 2 TH này đều không 
cắt được u, phải làm HMNT ở ĐT ngang. 
Finan(7)  nghiên  cứu  đa  trung  tâm  cho  thấy 
phần lớn các tác giả chọn cắt đoạn ĐT do e ngại 
về  biến  chứng  tiêu  chảy  sau  mổ;  việc  lựa  chọn 
cắt đoạn ĐT trái hay cắt toàn bộ, gần toàn bộ ĐT 
phụ thuộc các yếu tố: 
‐  Rách thanh mạc manh tràng: Rách thanh 
mạc manh tràng là do áp lực quá căng ở ĐT trên 
chỗ tắc, khi có rách manh tràng nên chọn cắt gần 
toàn bộ ĐT. Theo nghiên cứu của Poon(23), nhóm 
BN trên 70 tuổi bị tắc ruột do UTĐT trái có tỷ lệ 

‐  Đại  tiện  kém  tự  chủ:  Cắt  đoạn  ĐT  nếu 
không có chống chỉ định nào khác. 
‐  Gia  đình  nhiều  người  mắc  ung  thư  đại 
tràng: Nên cắt toàn bộ đại tràng. 
‐Phẫu  thuật  viên  quen  với  loại  phẫu  thuật 
nào. 
Rửa  đại  tràng  trong  mổ  được  chấp  nhận 
rộng  rãi,  được  coi  như  biện  pháp  cần  thiết  của 
phẫu  thuật  một  thì  điều  trị  các  tổn  ở  ĐT  trái 
trong cấp cứu. Chúng tôi có 20 TH cắt đoạn ĐT 
trái  kết  hợp  rửa  ĐT  xuôi  chiều  trong  mổ  theo 
phương  pháp  của  Dudley  và  Radcliff  mô  tả, 
trong đó 19 TH rửa qua gốc ruột thừa, 1 TH mở 
hồi  tràng  để  rửa  do  BN  đã  cắt  ruột  thừa  viêm 
trước đó; 3 TH ung thư gây tắc ở ĐT góc lách, 5 

TH  ở  ĐT  xuống,  12  TH  ở  ĐT  chậu  hông.  Thời 
gian  mổ  trung  bình  là  198,18  50,27  phút,  thấp 
hơn  thời  gian  của  cắt  gần  toàn  bộ  ĐT.  Lim  và 
cs(16), thực hiện 24 ca mổ tương tự với thời gian 
trung  bình  chỉ  145  phút.  Lượng  nước  rửa  mà 
chúng tôi ghi nhận được thấp nhất là 3 l, nhiều 
nhất là 27 l, trong những BN đầu tiên chúng tôi 
thường sử dụng trên 10 l. Các tác giả khác khá 
thống  nhất  về  thời  gian  rửa  khoảng  30  –  60 
phút(6,14,16,19),  nhưng  lượng  nước  rửa  khác  nhau 
tùy  theo  từng  tác  giả.  Theo  Nguyễn  Hoàng 
Bắc(19), thời gian rửa trung bình là 35 phút, lượng 
nước  rửa  là  13,2  lít.  Nhưng  với  Steel(26)  lượng 
nước rửa chỉ 3‐4 lít, Lim (16): 4 – 8 lít, Edino(6): 3 lít. 
Trong 6 TH cắt ĐT trái xả phân trước khi nối 
không  rửa  ĐT  trong  khi  mổ  có  1  TH  ở  ĐT  góc 
lách, 5 TH ở ĐT chậu hông. Tất cả chỉ PT một thì 
đơn thuần, không kết hợp phẫu thuật nào khác. 
Thời  gian  mổ  trung  bình:  160,8  ±  15  phút,  thấp 
hơn thời gian của PT một thì với rửa ĐT khoảng 
40  phút  (khác  biệt  chưa  có  ý  nghĩa  thống  kê). 
Ngoại trừ biến chứng tiêu chảy hậu phẫu ngày 3 
ở  1  BN  hết  sau  10  ngày,  không  có  biến  chứng 
đáng kể nào khác kể cả NTVM. 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

117



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

 Phẫu  thuật  một  thì  điều  trị  tắc  ruột  do 
UTĐT  trái  bằng  cách  cắt  ĐT  trái  xả  phân  trước 
khi nối dựa trên những căn cứ sau: 
Các  vết  thương  của  ĐT  trái  trong  những 
hoàn  cảnh  nhất  định  (vết  thương  nhỏ,  viêm 
phúc mạc khu trú, không có sốc và tổn thương 
nặng  khác  kết  hợp)  đã  được  chứng  minh  có 
thể khâu kín mà không cần chuẩn bị ĐT có kết 
quả tốt. 
Vi khuẩn nội sinh đại tràng có vai trò sinh lý 
quan  trọng.  Một  số  thực  nghiệm  trên  chuột  đã 
cho  thấy  sự  có  mặt  của  một  số  loại  vi  khuẩn 
cộng  sinh  ở  ruột  (Lactobacillus  acidophilus  La5 
hoặc Escherichia coli X7) làm tăng khả năng liền 
miệng nối ống tiêu hóa và vết thương da chuột.  
Nhiều nghiên cứu cho thấy phẫu thuật ĐT 
trái  theo  chương  trình  không  chuẩn  bị  đại 
tràng,  tỷ  lệ  xì  dò  miệng  nối,  biến  chứng  hậu 
phẫu tương đương với phẫu thuật có làm sạch 
ruột trước mổ(4,13). Rankinic (2007)(25) đã viết: Ở 
Mỹ, nhiều phẫu thuật viên đã không sử dụng 
kháng sinh đường uống trước khi mổ ĐT theo 
chương  trình,  họ  tin  rằng  chúng  không  mang 
lại ích lợi gì hơn so với không sử dụng kháng 
sinh đường ruột. 
Chúng  tôi  thực  hiện  phẫu  thuật  xả  phân 

trước  khi  nối  theo  phương  pháp  tương  tự  của 
Hsu(12):  Trước  tiên  di  động  ĐT  chậu  hông,  ĐT 
xuống  và  ĐT  góc  lách;  dùng  2  Kocher  kẹp  ĐT 
trên u ít nhất 5 cm cách nhau 1 cm, cắt ĐT giữa 2 
Kocher,  bọc  đầu  dưới  lại  bằng  gạc  bụng,  đưa 
đầu trên ra khỏi xoang bụng và đặt vào bô chứa 
phân,  vuốt  dọc  ĐT  và  ruột  non  tháo  phân  đến 
khi ruột xẹp hoàn toàn (ruột chứa phân lỏng và 
khí  nên  tháo  phân  thường  dễ  dàng),  tiến  hành 
cắt  đoạn  ĐT  và  nối.  Naraynsingh(18)  dùng  một 
ống dẫn lưu ngực cở 36 F, trong khi Lim(16) dùng 
ống  dẫn  khí  của  máy  thở  luồn  vào  miệng  nối 
trên,  khâu  buộc  ĐT  có  phần  ống  ở  trong,  đầu 
còn lại của  ống  gắn  vào  túi  chứa  phân,  rồi  tiến 
hành  tháo  phân  như  đã  mô  tả.  Thời  gian  tháo 
phân  của  6  TH  từ  5  –  15  phút,  trung  bình  12 
phút.  Thời  gian  thực  hiện  kỹ  thuật  này  của 

118

Naraynsingh(18) là 12 phút, T. – C. Hsu(12) là dưới 
30 phút, Lim(16) là 15 phút.  
Hsu(12) nghiên cứu trên trên 134 TH tắc ruột 
ở ĐT trái, (127 TH do ung thư) được PT một thì 
gồm: 22 TH cắt gần toàn bộ ĐT; 83 TH cắt đoạn 
ĐT; 29 TH cắt đoạn ĐT chậu hông trực tràng do 
tổn thương ở trực tràng; trong số cắt đoạn trực 
tràng có 12 TH nối dưới phúc mạc, không có TH 
nào  được  mở  hồi  tràng  ra  da  để  bảo  vệ  miệng 
nối.  Tất  cả  đều  xả  phân  giảm  áp  trước  khi  nối, 

không rửa ĐT trong mổ. Các phẫu thuật kết hợp 
gồm:  5  TH  cắt  ruột  non,  1  TH  cắt  toàn  bộ  tử 
cung và buồng trứng, vòi trứng, 1 TH cắt buồng 
trứng, vòi trứng trái, 1 TH cắt bán phần dạ dày 
do ung thư kết hợp ở dạ dày, 1 TH cắt lách và 
đuôi  tụy.  Kết  quả:  có  3  BN  (2,3%)  xì  dò  miệng 
nối (3 BN này đều nối bằng máy) 2 phải mổ lại, 
1  thành  đường  rò  mạn  tính  sau  đó  tự  liền.  Hai 
TH (1,5%) tử vong hậu phẫu do ung thư di căn. 
Theo  Hsu  (12),  phương  pháp  xả  phân  trong 
PT một thì có tỷ lệ tử vong và xì dò miệng nối 
thấp  tương  đương  với  phương  pháp  rửa  ĐT 
trong khi mổ, nhưng có những ưu điểm sau:  
Tốn ít thời gian: từ 10 đến dưới 30 phút. 
Ít thao tác nên giảm nguy cơ nhiễm trùng. 
Cần ít phương tiện, đơn giản, dễ thực hiện. 
Ít biến chứng tiêu chảy hậu phẫu so với cắt 
gần toàn bộ ĐT 
Trong PT một thì điều trị tắc ruột do UTĐT 
trái,  các  trung  tâm  thường  áp  dụng  nhiều 
phương pháp PT. Kết quả của PT một thì được 
các  tác  giả  thực  hiện  trong  10  năm  gần  đây  ở 
Bảng 3. 
Lim (2005)(16) thực hiện nghiên cứu tiền cứu, 
thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh 24 TH 
rửa  ĐT  trong  khi  mổ  với  25  TH  chỉ  xả  phân 
trong PT một thì điều trị tắc ruột do UTĐT trái. 
Tất cả các BN của cả hai nhóm đều được nối đại 
tràng  –  đại  tràng  hoặc  đại  tràng  –  trực  tràng 
bằng  máy  nối.  Đặc  điểm  lâm  sàng  tương  đồng 

giữa  hai  nhóm;  không  có  TH  nào  cắt  toàn  bộ, 
gần toàn bộ ĐT hoặc mở HMNT giảm áp để bảo 
vệ miệng nối. Kết quả: thời gian tháo phân trung 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
bình 15 phút, thời gian rửa ĐT là 30 phút, khác 
biệt có ý nghĩa (p = 0,0005); có hai TH xì miệng 
nối đều ở nhóm tháo phân không rửa ĐT, 1 sau 
mổ 7 ngày, 1 sau mổ 11 ngày; tỷ lệ tử vong trong 
vòng  30  ngày  hậu  phẫu  là  6,1%  (2  BN  ở  nhóm 
tháo phân, 1 ở nhóm rửa ĐT), chỉ một BN chết 
do  xì  miệng  nối,  tỷ  lệ  nhiễm  trùng  vết  mổ  đều 
16% cho cả hai nhóm. Lim kết luận: Khác biệt về 
tỷ  lệ  biến  chứng  và  tử  vong  sau  mổ  giữa  hai 
nhóm không có ý nghĩa thống kê. 
Bảng 3: Tỷ lệ xì rò miệng nối, tử vong của các 
phương pháp PT một thì điều trị tắc ruột do UTĐT 
trái trong 10 năm gần đây: 

Nghiên cứu Y học

thì có tỷ lệ tử vong là 10% và xì dò miệng nối 
từ 4 ‐ 6%. 
Chỉ  có  18,5%  BN  của  nhóm  PT  một  thì  có 
biến chứng sau mổ (Bảng 3.3), các biến chứng 
chúng  tôi  ghi  nhận  được  như  NTVM  (11,1%), 
viêm  phổi  (7,4%),  nhiễm  trùng  đường  tiểu 

dưới thường ảnh hưởng ít đến kết quả điều trị. 
BN  trong  nhóm  này  xuất  viện  trung  bình  9 
ngày sau mổ.  

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Các  BN  tắc  ruột  do  UTĐT  trái  được  phẫu 
thuật  một  thì  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
có tuổi trung bình 54,5± 14,6:, tỷ lệ nam / nữ : 
0,8  và  có  các  yếu  tố  nguy  cơ  theo  thang  điểm 
ASA từ I – III. 

Kết quả phẫu thuật 
PT một thì có thời gian mổ trung bình 195,9 
47,8  phút,  tử  vong  0%,  biến  chứng  hậu  phẫu 
18,5%,  tỷ  lệ  xì  rò  miệng  nối  0%,  thời  gian  nằm 
viện sau mổ trung bình 9 3 ngày. 
Có lẽ do chúng tôi chọn bệnh nhân có tổng 
trạng tốt và phần lớn dưới 70 tuổi để thực hiện 
PT một thì, nên chúng tôi không có trường hợp 
tử vong nào ở hậu phẫu trong nhóm PT một thì, 
tỷ  lệ  này  của  các  tác  giả  khác  vào  khoảng  0  – 
22% (Bảng 4).  
Bảng 4: tỷ lệ chết ở hậu phẫu và xì rò miệng nối 
trong PT một thì điều trị tắc ruột do UTĐT trái: 

Từ  kết  luận  trên  chúng  tôi  đưa  ra  những 
kiến nghị như sau: 
Số  lượng  BN  chưa  nhiều  nên  cần  phải  tiến 
hành  nghiên  cứu  thêm,  đa  trung  tâm,  cập  nhật 
phương pháp mới là PT một thì, xả phân không 

rửa ĐT. 
Cần  theo  dõi  thêm  để  đánh  giá  kết  quả  xa 
của phẫu thuật. 
Cần  có  nghiên  cứu  tiền  cứu  có  phân  phối 
ngẫu nhiên để đánh giá hiệu quả của PT một thì 
và nhiều thì trong điều trị tắc ruột do UTĐT trái. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

Tỷ lệ tử vong trong PT một thì điều trị tắc 
ruột do UTĐT trái đã giảm nhiều trong 10 năm 
gần  đây  (Bảng  4.4).  Deans  (1994)(14)  cho  rằng: 
những trường hợp được chọn lựa làm PT một 

4.

Barton McSwain, Robert N. Sadler, F. Beachley Main (1962), 
“Carcinoma  of  the  colon,  rectum  and  anus”,  Annals  of 
surgery; 155 (5): pp. 782 – 793. 
De  Salvo  GL,  Gava  C,  et  al  (2008),  “Curative  surgery  for 
obstruction  from  primary  left  colorectal  carcinoma:  Primary 
or staged resection?”, The Cochrane Library; 1: pp. 1‐ 8. 
Deans  GT,  Krukowski  ZH,  Irwin  ST  (1994),  “Malignant 
obstruction of the left colon”, Bristish Journal of Surgery; 81: 
pp. 1270 – 1276. 

Van  Geldere  D  et  al  (2002),  “Complication  after  colorectal 
surgery  without  mechanical  bowel  preparation”,  J  Am  Coll 
Surg; 194(1): pp. 40 – 47. 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

119


Nghiên cứu Y học 
5.

6.

7.

8.
9.

10.
11.

12.

13.

14.

15.


16.

17.
18.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Dudley  HAF,  Radcliff  AG,  McGeehan  D  (1980), 
“Intraoperative  irrigation  of  the  colon  to  permit  primary 
anastomosis”, Br J Surg; 67: pp. 80 – 81. 
Edino  ST,  Mohammed  AZ,  Anumah  M  (2005), 
“Intraoperative  colonic  lavage  in  emergency  surgical 
treatment of left – sided large bowel lesions”, Tropical Doctor; 
35: pp. 37 – 38. 
Finan PJ (2007), “The management of malignant large bowel 
obstruction: ACPGBI position statement”, Colorectal Disease; 
9(4): pp. 1 – 17. 
Floyd  CE,  Isidore  C,  Jr  (1967),  “Obstruction  in  cancer  of  the 
colon”, Annals of surgery; 165(5): pp. 722 – 731. 
Glenn F, McSherry CK (1966), “Carcinoma of the distal large 
bowel: 32‐year review of 1,026 cases”, Ann Surg; 163: pp. 838–
849. 
Hà Văn Quyết và cs (2005), “Nghiên cứu chẩn đoán và điều 
trị tắc ruột do ung thư đại tràng”, Ngoại khoa; 3: tr. 28 – 36.  
Haridimos  M,  Evangelos  M  et  el  (2007),  “Acute  mechanical 
bowel  obstruction:  Clinical  presentation,  etiology, 
management and outcome”, World J Gastroenterology; 13(3): 
pp. 432 – 437. 
Hsu  TC  (2005),  “Comparison  of  one‐stage  resection  and 
anastomosis  of  acute  complete  obstruction  of  left  and  right 

colon”, The American Journal of Surgery; 189: pp.384 – 387. 
Jung  B  et  al  (2007),  “Multicentre  randomized  clinical  trial  of 
mechanical  bowel  preparation  in  elective  colonic  resection”, 
Bristish Journal of Surgery; 94: pp. 689 – 695. 
Deen  KI,  Madoff  RD  et  al  (1998),  “Surgical  management  of 
left  colon  obstruction:  The  University  of  Minnesota 
experience”, J Am Coll Surg; 187 (6): pp. 573 – 576. 
Lee YM., Law WL, Chu KW, Poon  RTP  (2001),  “Emergency 
surgery  for  obstructing  colorectal  cancers:  A  comparison 
between  right  –  sided  and  left  –  sided  lesions”,  J  Am  Coll 
Surg; 192 (6): pp. 719 – 725. 
Lim  JF,  Tang  CL,  Choen  FS  et  al  (2005),  “Prospective, 
randomized trial comparing intraoperative colonic irrigation 
with manual  decompression  only  for  obstructed  left  –  sided 
colorectal cancer”, Dis Colon Rectum; 48 (2): pp. 205 – 209. 
Muir EG (1968), “Safety in colonic resection”, Proc R Soc Med; 
61: pp. 401 – 408. 
Naraysingh  V;  Rampul  R;  Maharaj  D  et  al  (1999), 
“Prospective  study  of  primary  anastomosis  without  colonic 

19.
20.

21.

22.

23.

24.


25.

26.
27.

28.

29.

lavage for patiens with an obstructed left colon”, The British 
journal of surgery; 86 (10): pp. 1341 – 1343. 
Nguyễn  Hoàng  Bắc  (1998),  “Rửa  đại  tràng  trong  khi  mổ”, 
Ngoại khoa, 2 (4), tr. 5 – 9.  
Nguyễn  Văn  Hải,  Võ  Duy  Long  (2006)  “Kết  quả  của  phẫu 
thuật một thì và nhiều thì trong điều trị tắc ruột do ung thư 
đại tràng”, Ngoại khoa; 3: tr. 77 – 84.  
Okada M. et el (1999), “Experimental study of the influence of 
intestinal  flora  on  the  healing  of  intestinal  anastomoses”, 
Bristish Journal of Surgery; 86: pp. 961 – 965. 
Phạm Văn Tấn, Võ Tấn Long, Bùi Văn Ninh, Dương Huỳnh 
Thiện(2005), “Xử trí tắc ruột do ung thư đại tràng”, Y học Tp 
Hồ Chí Minh; 9 (phụ bản của Số 1), chuyên đè Ngoại khoa: tr. 
99 – 105.  
Poon,  R.  T.  –P;  Law,  W.  –L;  Chu,  K.  –W;  Wong.  J  (1998), 
“Emergency  resection  and  primary  anastomosis  for  left  – 
sided  obstructing  colorectal  carcinoma  in  the  elderly”,  The 
British journal of surgery; 85 (11): pp. 1539 – 1542. 
Radcliff  AG,  Dudley  HAF  (1983),  “Intraoperative  antegrade 
irrigation  on  the  large  intestine”,  Surg  Gynecol  Obstet;  156: 

pp. 721 – 723. 
Rakinic  J  (2007),  “Antibiotics,  Aproaches,  Stratery,  and 
Anastomoses”,  Shackelfords  Surgery  of  the  Alimentary 
Track,  Volum  II,  six  edition,  Saunders  Elsevier;  pp.  2327  – 
2339. 
Steele RJC (1998), “Colonic cancer”, Colorectal surgery, W B 
Saunders : pp. 43–70. 
Scott G. Houghton, De la Medina AR, Sarr MG (2007), “Bowel 
obstruction”,  Maingots  abdominal  operations;11th  Edit,  Mc 
Graw Hill: pp. 479 – 507.  
Stepheson BM et el (1990), “Malignant left – sided large bowel 
obstruction managed by subtotal / total colectomy”, Br J Surg; 
77: pp. 1098 – 1102. 
Trịnh Hồng Sơn, Chu Nhật Minh, Đỗ Đức Vân (1996), “Tắc 
ruột do ung thư đại tràng: nhận xét về chẩn đoán, chỉ định và 
cách xử trí qua 99 trường hợp được mổ cấp cứu tại bệnh viện 
Việt Đức”, Ngoại khoa; 9: tr. 129 – 136.  

 
Ngày nhận bài báo   
 
   
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng:

 

 

13‐03‐2013 

02‐05‐2013 
25–09-2013 

 

120

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  



×