Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Quan điểm và thực hành về chăm sóc sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.56 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

QUAN ĐIỂM VÀ THỰC HÀNH VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN
TUỔI VỊ THÀNH NIÊN
Võ Triệu Đạt*, Nguyễn Duy Tài**

TÓM TẮT
Giới thiệu: Việt Nam là một trong 10 nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới, bình quân có khoảng 600.000
trường hợp phá thai hàng năm. Các nghiên cứu trong nước cho thấy vị thành niên (VTN) Việt Nam thiếu kiến
thức và kỹ năng về chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Mục tiêu: Nghiên cứu mức độ quan tâm của cha mẹ, thầy cô và nhân viên y tế về chăm sóc sức khỏe trẻ vị
thành niên.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện một nghiên cứu định tính sử dụng phương pháp phỏng
vấn sâu bán cấu trúc cho 36 đối tượng nghiên cứu là cha mẹ, thầy cô và nhân viên y tế.
Kết quả: Đối tượng phụ huynh: 4/10 các bà mẹ tán thành giáo dục giới tính (GDGT) toàn diện cho con họ
độ tuổi VTN, 3/10 các bà mẹ không muốn GDGT cho con mình quá sớm, 3/10 bà mẹ không đồng ý GDGT cho
con họ. Chỉ có 1 bà mẹ là quan tâm sâu sắc đến con mình, số còn lại thừa nhận ít hoặc không quan tâm đến con
họ. Đối tượng thầy cô: 15/20 các thầy cô ủng hộ chương trình GDGT toàn diện, 3/20 thầy cô muốn trì hoãn đợi
đến lúc các em học lên cấp 3, 2/20 thầy cô giáo phản đối GDGT ở nhà trường. Đối tượng nhân viên y tế: tất cả
đều ủng hộ GDGT toàn diện cho các em VTN. Họ cũng là những nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản cho các em VTN.
Kết luận: Mức độ quan tâm của phụ huynh và thầy cô đối với trẻ VTN trên phương diện quan điểm và
thực hành vẫn chưa có sự đồng thuận về GDGT toàn diện cho các em. Đối với nhân viên y tế thì mức độ quan
tâm về sức khỏe sinh sản VTN rất cao. Nhân viên y tế là người trực tiếp tư vấn và truyền thông về sức khỏe sinh
sản hiệu quả.
Từ khóa: kiến thức, kỹ năn của chăm sóc sức khỏe sinh sản, trẻ vị thành niên

ABSTRACT
VIEWPOINT AND PRACTICE IN ADOLESCENT REPRODUCTIVE HEALTH CARE


Vo Trieu Dat, Nguyen Duy Tai
Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 145 - 152
Background: Vietnam is one of 10 countries having the highest abortion rate in the world, with an average
of 600.000 cases of abortion each year. National researchs have shown lack of knowledge and skills for
reproductive health care in vietnamese adolescents.
Objectives: To learn about concern level (in the field of point of view and practice) of the subjects involved
(parents, teachers, health care professionals) to adolescents about reproductive health.
Methods: Qualitative research conducted by a semi-structured interview on 36 subjects including parents,
teachers and health care professionals. All the interviews were recorded. The later collection and information
analysis were based on the listening of recording tape of the conversations between interviewer and study
subjects.
Results: In parents:4/10 of the mothers agree with comprehensive sex education to their children, 3/10 don’t

* Bác sĩ Bệnh viện Pháp - Việt, ** Bộ môn Sản, Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS Võ Triệu Đạt

Sản Phụ Khoa

ĐT: 0903856439

Email:

145


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

approve this sex education too early to their children, 3/10 oppose teaching their children about sex. Only one

mother has real and deep concern and overall closeness to her child, the others admit to having little or no
concerns of their children. In teachers: 15/20 support comprehensive sex education program, 3/20 want to delay
until their pupils getting to high schools, and 2/20 protest against sex education in school. In health professionals:
all of them support teaching comprehensive sex education to adolescents. They are also suppliers of reproductive
health care services to adolescents.
Conclusions: Concern level of parents and teachers to adolescents in the field of viewpoint and practice is
not unanimous on the matter of comprehensive sex education. With health care professionals, concern level about
adolescent reproductive health is very high. Health professionals are those who directly communicate and give
adolescents advices about reproductive health effectively.
Key words: knowledge, skills for reproductive health care, adolescents.
nói chung và những người đóng vai trò giáo dục
ĐẶT VẤN ĐỀ
và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho VTN nói
Việt Nam là một trong 10 nước có tỷ lệ phá
riêng trong mối liên quan đến việc mang thai
thai cao nhất thế giới, bình quân có khoảng
tuổi VTN. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên
600.000 trường hợp phá thai hàng năm(2). Theo
cứu đề tài: “Quan điểm và thực hành về chăm
số liệu của Trung tâm Chăm sóc Sức khoẻ Sinh
sóc sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên” với
sản TP.HCM, tỷ lệ phá thai của vị thành niên
mục tiêu: Tìm hiểu mức độ quan tâm (trên
(VTN) nữ có xu hướng gia tăng trong những
phương diện quan điểm và thực hành) của các
năm gần đây tại TP. HCM (tỷ lệ phá thai VTN
đối tượng có liên quan (cha mẹ, thầy cô, nhân
/tổng số phá thai trong các năm 2005, 2006, 2007
viên y tế) đối với trẻ vị thành niên về sức khỏe
lần lượt là 0,79;0,85;và 2,01%)(11).

sinh sản.
Tỷ lệ quan hệ tình dục ở VTN đang có
TỔNG QUAN Y VĂN
khuynh hướng gia tăng 0,62% (trong số này, tỷ
Trên toàn thế giới, tỷ lệ có thai ở VTN thay
lệ ở trẻ nam là 0,5% và ở trẻ nữ là 0,12%)(3) , đồng
đổi từ 143/1000 trẻ VTN ở các nước Châu Phi
thời tuổi bắt đầu quan hệ tình dục của các em
cho đến 2,9 /1000 ở Hàn Quốc(13). Theo báo cáo
còn quá sớm (14 tuổi)(1). Ở độ tuổi này, trẻ VTN
của Ngân Hàng Dữ Liệu Trẻ Em thuộc tổ chức
vẫn chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm để thực
Child Trends, hơn 1/3 các trường hợp thai VTN
hiện 1 hành vi tình dục an toàn. Việc quan hệ
kết
thúc bằng việc phá thai(8). Sở dĩ các trẻ lại
tình dục sớm và dễ thay đổi bạn tình ở trẻ VTN
quyết định phá thai vì chúng có mối quan tâm to
đã dẫn đến một số vấn đề trong xã hội hiện nay:
lớn về việc liệu đứa bé trong bụng sẽ làm thay
tăng tỷ lệ mang thai ở trẻ VTN (62,6% ở nông
đổi cuộc sống của chúng (như kết thúc việc học
thôn và 71% ở thành thị), tăng tỷ lệ phá thai ở
hành), các trẻ quan tâm về vấn đề tài chính hay
VTN (10%)(1), tăng nguy cơ nhiễm HIV và các
nhận thấy rằng chúng chưa đủ trưởng thành để
bệnh lây truyền qua đường tình dục.
có thể làm mẹ.
Cho đến nay, các nghiên cứu trong nước đã
Dù các bậc cha mẹ có nghĩ thế nào, họ vẫn có

cho thấy VTN Việt Nam thiếu kiến thức và kỹ
sức ảnh hưởng rất lớn trên quyết định của con
năng về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Và hiện
họ
về tình dục. Nghiên cứu của tác giả Blum,
đang có đề tài nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố
R.M và Rinehard, P.M. (1998) khẳng định về vai
nguyên nhân góp phần làm tăng tỷ lệ có thai
trò của mối quan hệ là trên hết. Sự gần gũi giữa
ngoài ý muốn ở VTN như thiếu sự quan tâm
cha mẹ và con cái, chia sẻ mọi hoạt động, cha
chăm sóc của gia đình , nhà trường và các cơ
mẹ thường xuyên có mặt ở nhà, sự quan tâm,
quan y tế. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào đi
chăm sóc và hỗ trợ của cha mẹ, tất cả đều kết
sâu phân tích về quan điểm của ngành giáo dục
hợp với việc giảm nguy cơ quan hệ tình dục

146

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
sớm và mang thai tuổi VTN. Những trẻ VTN
có sự liên kết gần gũi với bố mẹ có khả năng
kiêng tình dục cao hơn, đợi được đến khi
chúng lớn hơn để có thể bắt đầu quan hệ, có ít
bạn tình hơn, và sử dụng biện pháp tránh
thánh thường xuyên hơn(5).

Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản tại
nhà trường góp phần không nhỏ tạo nền tảng
kiến thức cho các em lứa tuổi VTN. Nhìn chung,
chương trình GDGT được áp dụng ở nhà trường
tại các nước trên thế giới hiện nay đi theo 1 trong
2 khuynh hướng là giáo dục giới tính toàn diện
(Comprehensive Sex Education) và giáo dục giới
tính chỉ dựa vào kiêng quan hệ tình dục (Abstinence
- Only Sex Education). Nhiều bằng chứng cho
thấy chương trình GDGT chỉ dựa vào kiêng
quan hệ tình dục dẫn đến hậu quả nặng nề
không dự đoán được do từ chối VTN tiếp cận
thông tin cần thiết để tự bảo vệ bản thân. Trong
khi đó chương trình GDGT toàn diện có thể dẫn
đến những thay đổi hành vi tích cực ở VTN và
làm giảm thai ngoài ý muốn và các bệnh lây qua
đường tình dục. Các bằng chứng cũng cho thấy
chương trình này không khuyến khích VTN bắt
đầu tuổi quan hệ tình dục sớm hơn và không
khuyến khích VTN có nhiều bạn tình hơn(6).
Các chuyên gia, tổ chức và viện chăm sóc
sức khỏe sinh sản có thể là những lực lượng
nòng cốt trong nỗ lực của cộng đồng để ngăn
ngừa thai tuổi VTN. Trong khi các nhà chăm sóc
sức khỏe là những người cung cấp các dịch vụ
và giáo dục ban đầu cho VTN và cha mẹ tại các
văn phòng, phòng khám, bệnh viện hay những
cơ sở y tế khác, bản thân họ cũng có thề tham
gia và liên minh có ý nghĩa trong công tác phòng
ngừa thai tuổi VTN trong cộng đồng(12).

Ở Việt Nam, theo Điều tra Quốc gia về Vị
thành niên và Thanh niên (SAVY) năm 2003 lần
đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam với 7.584
thanh thiếu niên trong độ tuổi 14-25 ở 42 tỉnh,
thành phố từ những vùng thành thị lớn nhất cho
tới vùng nông thôn xa xôi với sự phối hợp giữa
Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê, Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

(UNICEF) thấy rằng(3): Phương tiện thông tin đại
chúng, đặc biệt Tivi, là nguồn thông tin phổ biến
nhất về sức khỏe sinh sản. Các nhà chuyên môn
(thầy thuốc, giáo viên) xếp thứ hai, nhóm thiếu
niên ở trường thường nhận được thông tin từ
giáo viên. Nhóm thanh niên nam 22-25 tuổi
thường nhận được thông tin từ bạn bè. Thanh
thiếu niên nữ thường kiếm tìm nguồn thông tin
từ gia đình đặc biệt từ cha mẹ nhiều hơn thanh
thiếu niên nam. Nhóm nữ 14-17 tuổi kể hoặc hỏi
người khác về hiện tượng dậy thì của mình
nhiều hơn các chị lớn đã từng hỏi/kể; đây là một
điều đáng khích lệ cho thấy nhận thức đã tăng
lên và có sự cởi mở hơn trong việc trao đổi
những vấn đề thầm kín.

PHƯƠNG PHÁP – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu được thiết kế là nghiên cứu định
tính sử dụng phương pháp “Phỏng vấn sâu bán
cấu trúc” dành cho từng đối tượng nghiên cứu
là cha mẹ, thầy cô và nhân viên y tế.

Dân số nghiên cứu
Những bậc phụ huynh của nữ VTN sinh từ
năm 1992 – 1997 đến khám, tư vấn, phá thai
hoặc sanh tại BV Hùng Vương; những cán bộ
giảng dạy ở trường học; nhân viên y tế tại BV
Hùng Vương.

Cỡ mẫu
Chúng tôi lập kế hoạch tính số lượng từng
đối tượng nghiên cứu như sau:

Đối tượng thầy cô
Chọn phỏng vấn tại một trường phổ thông
cấp hai và một trường phổ thông cấp ba của
Huyện Củ Chi; một trường phổ thông cấp hai và
một trường phổ thông cấp ba của quận 3 tại
TP.HCM. Đối với mỗi trường, phỏng vấn lần
lượt 01 hiệu trưởng, 01 thầy hoặc cô giáo chủ
nhiệm, 01 phụ trách y tế trường, 01 giám thị và
01 cán bộ công tác Đoàn.
Đối tượng cha mẹ
Dự tính phỏng vấn 10 người là cha, mẹ của
các nữ VTN có thai đến BV HV để thực hiện các
dịch vụ về chăm sóc sức khỏe sinh sản.


147


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Đối tượng nhân viên y tế
Dự kiến phỏng vấn 10 nhân viên y tế gồm
Bác sĩ và nữ hộ sinh đang công tác tại BV
Hùng Vương, có tham gia chăm sóc sức khỏe
sinh sản VTN.
Như vậy, tổng số các đối tượng nghiên cứu
cho cả 3 nhóm dự tính sẽ là 40 người.
Nghiên cứu được thực hiện tại hai nơi: BV
Hùng Vương và Trường học. Phỏng vấn được
thực hiện từ tháng 12/2009 đến tháng 06/2010.

Các biến số nghiên cứu
Gồm 2 loại sau
- Biến số về sự quan tâm của cha mẹ dành
cho con cái của họ, được chia thành 3 mức độ:
+ Mức độ 1: Cha mẹ luôn dành sự quan tâm
một cách tốt nhất cho con của họ.
+ Mức độ 2: Cha mẹ có quan tâm đến con em
của họ nhưng không thường xuyên và không
sâu sắc.
+ Mức độ 3: Cha mẹ thường xuyên và hầu
như không nói chuyện với con cái của họ.
- Biến số về quan điểm của cha mẹ, thầy cô

và nhân viên y tế về vấn đề GDGT toàn diện cho
các em VTN:

- Thực hành của cha mẹ về GDGT toàn diện
cho con họ. Bản thân họ đã làm gì để cung cấp
thông tin cho con cái họ.

Những vấn đề phỏng vấn sâu thầy cô
- Quan điểm của thầy cô về GDGT toàn
diện và GDGT chỉ dựa trên kiêng nhịn quan hệ
tình dục.
- Ý kiến của thầy cô về việc triển khai GDGT
trong nhà trường, mức độ triển khai .
- Kỹ năng thực hành của thầy cô về giảng
dạy GDGT học đường.

Những vấn đề phỏng vấn sâu cán bộ y tế
- Quan điểm của cán bộ y tế về GDGT toàn
diện và GDGT chỉ dựa trên kiêng nhịn quan hệ
tình dục.
- Việc triển khai công tác tư vấn sức khỏe
sinh sản trong nhà trường với sự hỗ trợ của cán
bộ y tế.
- Việc cung cấp dịch vụ sức khỏe sinh sản
cho VTN tại cơ sở y tế hiện nay.
Quá trình phỏng vấn sẽ được ghi âm lại.
Phần thu thập và phân tích thông tin sau đó sẽ
dựa vào việc nghe lại đoạn băng ghi âm đoạn
đối thoại giữa phỏng vấn viên và đối tượng
nghiên cứu.


+ Quan điểm 1: Hoàn toàn đồng ý và ủng hộ
phải GDGT toàn diện cho các em VTN.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

+ Quan điểm 2: Đồng ý với việc GDGT toàn
diện cho các em VTN, nhưng muốn trì hoãn
đến lúc các em học lên cấp 3 là thích hợp và
đúng lúc.

Quan điểm
Quan điểm 1: Chỉ có 4/10 các bà mẹ tán
thành GDGT cho con của họ độ tuổi VTN. Họ
cho rằng giáo dục sớm cho các em sẽ là hành
trang giúp các em tự tin bước vào đời, vẽ cho các
em những hướng đi đúng giúp các em chủ động
phòng tránh việc mang thai ngoài ý muốn nếu
có quan hệ với bạn trai. Suy nghĩ của một số bà
mẹ khi được hỏi về GDGT toàn diện so sánh với
GDGT chỉ dựa vào kiêng QHTD cho rằng tình
dục là một bản năng, mà bản năng thì không thể
nào ngăn cản được. Họ thích nói với con họ một
cách đầy đủ hơn là chỉ ép con họ không được
quan hệ.

+ Quan điểm 3: Không đồng ý việc GDGT
toàn diện cho các em cũng như hạn chế chương
trình GDGT ở nhà trường.


Nội dung phỏng vấn sâu
Những vấn đề phỏng vấn sâu cha mẹ:
- Quan điểm của cha mẹ về GDGT toàn diện
(trong đó có hướng dẫn phòng tránh thai và
dùng bao cao su) và GDGT chỉ dựa trên kiêng
quan hệ tình dục.

148

Đối tượng phụ huynh

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
- Quan điểm 2: Gặp ở 3/10 các bà mẹ. Có
nhiều lý do được đưa ra để biện hộ cho việc
không muốn dạy cho các con biết quá sớm về
những chuyện “tế nhị” như vậy, nhưng điều
dẫn đến một điểm chung là sợ các con hư hỏng
sớm, biết càng trễ càng tốt. Và họ chỉ muốn nói
chuyện với con họ về tình dục khi các em đã đến
giai đoạn cấp 3 vì theo họ thời điểm đó là vừa
phải, không sớm cũng không muộn.
- Quan điểm 3: chiếm 3/10. Họ cho rằng, dạy
cho các em về giới tính và tình dục là vẽ đường
cho hươu chạy, là điều không nên làm.

Thực hành
- Quan tâm mức độ 1: Trong số 10 bà mẹ thì

chỉ có duy nhất 1 bà mẹ thể hiện sự quan tâm
đến con mình một cách rất cụ thể: Dành thời
gian nói chuyện với con mình, theo dõi mọi sinh
hoạt của con, nói chuyện với con về sức khỏe
sinh sản, có tư vấn về ngừa thai, thậm chí người
mẹ còn để ý đến tình trạng kinh nguyệt của con
hàng tháng, theo dõi lượng máu kinh, lượng
băng vệ sinh, ngày hành kinh để chắc chắn là
con mình có kinh vào tháng đó.
- Quan tâm mức độ 2: Chiếm 2/10. Họ có
quan tâm đến con em của họ nhưng không
thường xuyên và không sâu sắc. Họ cũng có hỏi
han về việc học của con, có nói chuyện tâm sự
với con nhưng chỉ một cách chung chung và
không đào sâu tìm hiểu cặn kẽ những suy nghĩ
cũng như những khó khăn, sở thích, hay tâm sự
mà con họ đang gặp phải.
- Quan tâm mức độ 3: Đa số các bà mẹ (7/10)
đều thừa nhận không có sự quan tâm, lo lắng và
gần gũi đến con của mình. Điều đó bao gồm cả
việc không bao giờ truyền đạt vấn đề GDGT cho
con mình.

Đối tượng thầy cô giáo
Quan điểm
- Quan điểm 1: 15/20 các thầy cô ủng hộ
chương trình GDGT toàn diện và cho rằng cần
thiết phải đưa GDGT vào trường học. Khi được
hỏi về thời điểm nào cần đưa GDGT vào học
đường thì tất cả đều ủng hộ quan điểm GDGT


Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

cho các em ngay từ sớm sẽ hướng dẫn các em đi
đúng đường và góp phần làm giảm tỷ lệ mang
thai ngoài ý muốn ở lứa tuổi rất trong sáng của
các em.
- Quan điểm 2: 3/20 thầy cô giáo chưa đồng
ý với việc GDGT cho các em ngay từ sớm mà
muốn trì hoãn đợi đến lúc các em trưởng thành
hơn một chút. Họ cho rằng, nếu cung cấp cho
học sinh những thông tin quá sớm và giúp
chúng phòng ngừa thai cũng như các bệnh lây
truyền qua đường tình dục sẽ tạo điều kiện đẩy
các học trò này vào hoạt động tình dục sớm và
bừa bãi.
- Quan điểm 3: Có 2/20 thầy cô giáo phản đối
việc áp dụng GDGT vào nhà trường. Họ kịch liệt
phản đối và cho rằng điều đó là hoàn toàn
không có lợi mà ngược lại là “con dao hai lưỡi”
sẽ tạo điều kiện cho các em tò mò đưa đến hành
vi không tốt. Vả lại, các em còn quá nhỏ, chưa
thể hiểu được vấn đề một cách thấu đáo.

Thực hành
- Trong số 20 giáo viên đang công tác tại 4
trường học thì chỉ có 4 người là đang đứng trực
tiếp giảng dạy các bài học giới tính cho các em

học sinh. Đó chính là các cán bộ phụ trách y tế
tại 4 trường học. Cả 4 giáo viên đều thấy rằng
nội dung GDGT hiện tại vẫn chưa đầy đủ, chưa
đi sát với thực tế, nhất là thiếu những buổi dạy
cho các em về thực hành các biện pháp tránh
thai nào thích hợp với lứa tuổi của các em. Họ
rất đồng tình với việc bổ sung thêm một số nội
dung GDGT vào chương trình học chính khoá
cũng như đưa môn học này thành một môn học
cụ thể dành cho các em học sinh.
- Tại hai trường học ở quận 3 Tp.HCM có
hợp tác với các Bác sĩ ở Bệnh Viện Phụ Sản hay
các chuyên gia tâm lý tổ chức những buổi học,
tư vấn và giải đáp những thắc mắc của các bạn
học sinh về mọi khía cạnh tâm sinh lý sức khoẻ
sinh sản. Đây là chương trình nằm trong khuôn
khổ của GDGT học đường đang được triển khai
trong tất cả các trường học, cao đẳng và Đại Học
tại TP.HCM thời gian gần đây. Đối với những
thầy cô giáo ở ngoại thành, họ cũng mong muốn

149


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

có những buổi học ngoại khoá có chuyên viên
tâm lý về hướng dẫn cho các em, nhưng có lẽ

chưa có điều kiện tổ chức như ở thành phố nên
vẫn chưa triển khai được.

Đối tượng nhân viên y tế
Dự kiến của chúng tôi là phỏng vấn 10 nhân
viên y tế tại Phòng sanh, phòng khám phụ khoa
và Khoa kế hoạch hoá gia đình BV Hùng
Vương. Nhưng sau khi phỏng vấn đến người
thứ 6, chúng tôi thấy tất cả đều trả lời cùng một
ý kiến và quan điểm. Lúc này, mục tiêu nghiên
cứu đã đạt được nên chúng tôi dừng lại không
phỏng vấn nữa.

Quan điểm
- Tất cả các đối tượng phỏng vấn đều ủng
hộ quan điểm 1, tức hoàn toàn đồng ý và ủng
hộ phải GDGT toàn diện cho các em VTN nhất
là ở giai đoạn cấp 2 của các em (lớp 7 - 8) nhằm
trang bị sớm cho các em về kiến thức giới tính
và tính dục, đặc biệt là các biện pháp ngừa thai
thích hợp để các em tự tin và không bị bỡ ngỡ
trước những tình huống bất ngờ và “nhạy
cảm”, đồng thời giảm được tỷ lệ mang thai và
nạo phá thai VTN.
Thực hành
- Nhân viên y tế là những người tư vấn,
cung cấp kiến thức cho các em về sức khỏe sinh
sản tại Bệnh Viện đồng thời cũng là những nhà
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
cho các em Vị thành niên.

- Ngoài việc chăm sóc SKSS cho các em tại
trường, các nhân viên y tế còn sẵn sàng hợp tác
với nhà trường để tổ chức những buổi nói
chuyện, tư vấn SKSS cho các em khi có yêu cầu.

BÀN LUẬN
Quan điểm của các bậc phụ huynh vẫn chưa
có sự thống nhất về GDGT cho các em VTN.
Vẫn còn tồn tại cả 3 quan điểm 1, 2 và 3 trong số
phụ huynh mà chúng tôi phỏng vấn. Điều này
tương đồng với nghiên cứu của hai tác giả Bùi
Thanh Mai và Hoàng Thị Hoa tiến hành nghiên
cứu ở VTN cho thấy cha mẹ và người thân

150

không được coi là nguồn cung cấp thông tin
chính cho vấn đề này(4). Kết quả là các em tự tìm
hiểu, thu nhận kiến thức qua sách báo và qua
những người bạn nên kiến thức không những
không đầy đủ mà đôi lúc còn sai.
Hầu như tất cả phụ huynh đều thừa nhận sự
quan tâm dành cho các con họ tập trung ở mức
độ 2 và mức độ 3. Nghĩa là chỉ dừng lại ở mức
độ quan tâm ít, không thường xuyên đến không
quan tâm kèm theo không có cơ hội nói chuyện
với con họ về giới tính kể cả hướng dẫn con họ
về biện pháp tránh thai. Kết quả này cũng đã
ủng hộ cho nghiên cứu của tác giả Blum, R.M và
Rinehard, P.M. (1998) khẳng định về vai trò của

mối quan hệ là trên hết(5).
Mặc dù quan điểm của một số cha mẹ rất
muốn GDGT cho con họ từ sớm, nhưng thực tế
họ không có nhiều thời gian để gần gũi con nên
kéo theo đó là không có cơ hội để trò chuyện với
con họ. Thật vậy, hiện nay dưới sức ép của nền
kinh tế thị trường, nhiều người cho rằng thước
đo sự thành đạt trong xã hội là làm ra càng
nhiều tiền càng tốt. Điều này đưa đến một thực
trạng là cha mẹ trong nhiều gia đình mải mê làm
việc kiếm tiền dẫn đến không có hoặc thiếu sự
quan tâm, lắng nghe tâm sự của con. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, đa số các bà mẹ thừa
nhận không có thời gian để trò chuyện với con
cái của họ, vì nhiều lý do khác nhau: Bận rộn với
công việc, đi công tác thường xuyên, hay do tôn
trọng cuộc sống riêng của mỗi cá nhân. Mặt
khác, việc nói chuyện với con em họ về sức khỏe
giới tính cũng đặt ra cho họ nhiều khó khăn do
không có thói quen và rằng đây là một vấn đề tế
nhị mà không phải một ông bố bà mẹ nào cũng
có thể làm được.
Nhà trường và các thầy cô giáo hiện nay dù
có sự quan tâm nhưng chưa đúng mức về
chương trình GDGT ở học đường. Trong khi
chính các em là những người rất cần tìm hiểu
những thông tin này. Một nghiên cứu của tác giả
Huỳnh Nguyễn Khánh Trang năm 2005 ở đối
tượng học sinh cấp 3 tại TP.HCM cho thấy: Nhu
cầu được học về giới tính tính dục gia tăng theo


Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
tuổi và lớp với mức độ mong muốn rất cần
chiếm 62,1% so với số không có nhu cầu
15,43%(5). Một nghiên cứu khác về kiến thức, thái
độ và hành vi tính dục của 1.017 học sinh tại 4
trường phổ thông trung học tại TP.HCM năm
1999 ghi nhận: Các em mong muốn được biết
thêm các thông tin về tình yêu (68,7%), có thai –
ngừa thai (56,9%), mong muốn nhà trường là nơi
cung cấp thông tin về sức khỏe sinh sản (50,8
%)(8). Điều này có nghĩa là không thể phủ nhận
vai trò của nhà trường trong việc trang bị kiến
thức cho các em. Quan điểm của các giáo viên
chưa thực sự nhất quán về thời điểm cần đưa
chương trình GDGT vào nhà trường. Mặc dù
vậy, quan điểm của các thầy cô lại rất nhất quán
về phương pháp giáo dục. Họ đồng loạt chọn
lựa GDGT toàn diện, trong đó quan trọng là
phải hướng dẫn cho học sinh về các biện pháp
tránh thai, phải có những buổi ngoại khoá
hướng dẫn thực hành sử dụng bao cao su. Quan
điểm này hoàn toàn ủng hộ cho nghiên cứu của
tác giả Kohler và cộng sự (2008) cho thấy rằng(9)
Những trẻ VTN nào được GDGT toàn diện thì
khả năng mang thai ít hơn 60 % so với những trẻ
không được GDGT.

Một điều đáng vui mừng là tất cả các cán bộ
y tế tại BV Hùng Vương được phỏng vấn đều
thể hiện quan điểm rõ ràng, nhất quán về việc
GDGT cho các em càng sớm càng tốt (quan điểm
1). Họ rất đồng tình với phương pháp GDGT
toàn diện cung cấp cho các em những kiến thức
về sinh sản, đặc biệt là cung cấp và hướng dẫn
cho các em về các biện pháp ngừa thai có hiệu
quả và phù hợp cho lứa tuổi VTN như hướng
dẫn cách sử dụng bao cao su, hướng dẫn cách sử
dụng thuốc ngừa thai khẩn cấp hay thuốc viên
ngừa thai uống kết hợp. Họ phản đối việc
GDGT chỉ dựa vào kiêng quan hệ tình dục vì
như thế sẽ không có hiệu quả, vì tình dục là một
bản năng. Có lẽ vì là những người làm trong
nghề y, có kiến thức , có hiểu biết và có tiếp xúc
với các em nên các nhân viên y tế bản thân họ
rất hiểu về những khó khăn và những biến đổi
tâm sinh lý cũng như nhu cầu tìm hiểu về tình
dục ở đối tượng VTN. Họ luôn luôn chủ trương

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

với quan niệm “hướng dẫn cho hươu chạy đúng
đường, vì không vẽ đường thì hươu vẫn chạy”.
Đây là một quan điểm đúng đắn và phù hợp
trong đời sống xã hội hiện nay, bởi vì bằng
chứng là theo một nghiên cứu thuộc Chiến dịch

Quốc gia Ngăn ngừa Mang thai VTN (Mỹ) đã
nghiên cứu 250 chương trình GDGT. Kết luận
của nghiên cứu này là "đại đa số bằng chứng
cho thấy GDGT có đề cập tới tránh thai không
làm gia tăng hoạt động tình dục"(14).
Ngoài quan điểm nhất quán và đồng loạt
trong việc tư vấn GDGT cho các em VTN thì
bản thân các nhân viên y tế còn làm tốt mảng
thực hành “chăm sóc sức khỏe sinh sản” cho
các em, thể hiện ở việc cung cấp dịch vụ chăm
sóc SKSS đầy đủ và “giải quyết” những hậu
quả do thiếu kiến thức về biện pháp ngừa thai
của các em VTN.

KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi có một số
kết luận sau:
- Mức độ quan tâm của phụ huynh đối với
trẻ VTN trên phương diện quan điểm và thực
hành vẫn chưa có sự đồng thuận về GDGT
toàn diện cho các em và sự tiếp xúc, gần gũi
giữa cha mẹ - con cái (không thường xuyên
hay tích cực). Điều này ảnh hưởng đến mức độ
truyền đạt và tư vấn thông tin về sức khỏe
sinh sản cho trẻ VTN.
- Mức độ quan tâm của thầy cô đối với trẻ
VTN là nhất quán về chủ trương GDGT toàn
diện. Tuy nhiên, thời điểm bắt đầu chương trình
GDGT cho các em vào đầu cấp 2 hay đầu cấp 3
chưa được thống nhất.

- Đối với nhân viên y tế thì mức độ quan tâm
về sức khỏe sinh sản VTN rất cao. Nhân viên y
tế là người trực tiếp tư vấn và truyền thông về
sức khỏe sinh sản hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

Báo cáo Bệnh Viện Từ Dũ 2003–2005, www.bvtudu.org.com.
Bộ Y Tế (2004), Niên giám thống kê y tế 2004, trang 101 – 103.
Bộ Y Tế, WHO, UNICEF (2003). Điều tra quốc gia về vị thành
niên và thanh niên Việt Nam (SAVY), trang 36 – 62

151


Nghiên cứu Y học
4.

5.

6.

7.

8.

9.


152

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Bùi Thanh Mai, Hoàng Thị Hoa (1998). Trẻ vị thành niên và
các biện pháp tránh thai: Thực trạng và những câu hỏi. Đại
học Y Khoa Hà Nội.
Blum, R.W & Rinehard, P.M(1998). Reducing the Risk:
Connections that make a difference in the lives of youth.
Center for Adolescent Health and Development, University
of Minnesota. Minneapolis, MN.
Chris Collin (2002), Abstinence only vs Comprehensive sex
Education: What is the arguments ? What is the evidence ? p.
8 – 15
Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2005). Tìm hiểu yếu tố liên
quan hoạt động tình dục ở học sinh cấp 3 tại Thành Phố Hồ
Chí Minh. Y Học TP.Hồ Chí Minh, tập 9 – Phụ bản số 1 –
2005: trang 146 – 151.
Jones, R.K., Darroch, J.E., & Henshaw, S.K. (2002). Patterns of
socioeconomic characteristics of women obtaining abortions
in 2000-2001. Perspectives on Sexual and Reproductive
Health, 34(5), p. 226 - 235.
Kohler PK, Manhart LE, Lafferty WE (2008). Abstinence-only
and comprehensive sex education and the initiation of sexual

10.

11.


12.

13.

14.

activity and teen pregnancy. J Adolesc Health 42 (4) p. 344 –
350.
Nguyễn Đức Trí Dũng (1999). Nghiên cứu về kiến thức, thái
độ và hành vi tính dục của học sinh phổ thông trung học tại
Thành Phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ y học, trang 21 –
50.
Trung tâm sức khỏe sinh sản Tp.HCM (2004,2005,2006,2007),
Báo cáo tổng kết Chương trình bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em
và Kế hoạch hoá gia đình và Chương trình phòng chống suy
dinh dưỡng trẻ em.
The National Campaign to Prevent Teen Pregnancy. (1999).
Get Organized: A Guide to Preventing Teen Pregnancy.
Washington, DC: Author, chapter 10, p. 101 – 109.
Treffers, P.E. (November 22, 2003). Teenage pregnancy, a
worldwide
problem.
Nederlands
tijdschrift
voor
geneeskunde, 147(47), p. 2320 – 5. Retrieved July 7, 2006.
Trenholm C, Devaney B, Fortson K, et al. (2007). Impacts of
Four Title V Section 510 Abstinence Education Programs. p.
59 – 61.


Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em



×