Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
RỐI LOẠN LIPID MÁU Ở BỆNH NHÂN HIV/AIDS ĐIỀU TRỊ ARV BẬC 2
TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI
Võ Thanh Nhơn*, Nguyễn Hữu Chí**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Điều trị HIV/AIDS bằng ARVs có thể kéo dài suốt đời, vì vậy những tác dụng phụ không
mong muốn có thể xuất hiện, trong đó rối loạn lipid là một vấn đề mới được đề cập gần đây.
Mục tiêu: Khảo sát rối loạn lipid ở bệnh nhân nhiễm HIV điều trị ARV phác đồ bậc 2 tại Bệnh viện Bệnh
Nhiệt Đới.
Phương pháp: Tiền cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: Rối loạn lipid máu trong nghiên cứu được ghi nhận ở 159/217(73,3%) bệnh nhân nhiễm
HIV/AIDS được điều trị bằng ARVs bậc 2, trong đó rối loạn kiểu nhóm 1 (tăng cholesterol + triglycerid) là 89
(41%) bệnh nhân, nhóm 2 (tăng cholesterol + triglycerid + LDL‐C) là 84 (38,7%) và nhóm 3 (tăng cholesterol +
triglycerid + LDL‐C và giảm HDL‐C) là 52 (24%). Tăng Cholesterol được ghi nhận 47,9% (Trị số trung bình
5,42 ± 1,84 mmol/L), Triglycerid 71,4% (Trị số trung bình 4,35 ± 3,34 mmol/L), LDL ‐C 58,1% (Trị số trung
bình 4,68 ± 3,31 mmol/L) và giảm HDL‐C 35% (Trị số trung bình 1,17 ± 0,50 mmol/L). Rối loạn lipid máu có
liên quan đến với tuổi và nồng độ Hb.
Kết luận: Điều trị HIV/AIDS bằng phác đồ bậc 2 có thể gây ra rối loạn lipid máu. Cơ chế gây rối loạn này
cũng như thay đổi nồng độ lipid trong quá trình điều trị và cách xử trí cần có nhiều nghiên cứu tiếp theo.
Từ khóa: rối loạn lipid máu, HIV/AIDS, ARV.
ASTRACT
DYSLIPIDEMIA IN HIV/AIDS PATIENTS TREATED BY THE SECOND LINE ARVS IN THE HOSPITAL FOR
TROPICAL DISEASES
Vo Thanh Nhon, Nguyen Huu Chi
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 401 ‐ 411
Background: The treatment of HIV/AIDS patients lasts a lifetime, so several undesirable side effects may
occur, including dyslipidemia.
Objective: To examine dyslipidemia in HIV/AIDS patients under the second line ARVs in the Hospital for
Tropical Diseases.
Methods: Prospective, cross‐sectional descriptive.
Results: In our study dyslipidemia were recorded in 159/217(73.3%) HIV/AIDS patients treated by the
second line ARV. Of 159 patients, the increase in cholesterol and triglyceride (group 1) noted in 89 (41%), the
increase in cholesterol, triglyceride and LDL‐C (group 2) in 84 (38.7%), and the increase in cholesterol,
triglyceride and LDL‐C, decrease in HDL‐C (group 3) in 52 (24%). The elevated cholesterol in the blood observed
in 47.9 % patients with the average value of 5.42 ± 1.84 mmol/L, elevated triglyceride in 71.4 % with the average
value of 4.35 ± 3.34 mmol/ L, elevated LDL ‐ C in 58.1 % with the average value of 4.68 ± 3.31 mmol/L,
decreased HDL‐C in 35% with the average value of 1.17 ± 0.50mmol/L. The dyslipidemia were associated with
the age, hemoglobin concentration, duration of HIV infection, duration of treatment with the first line and second
* BV đa khoa Tiền Giang ** Bộ môn Nhiễm ĐH Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: BSCKII Nguyễn Thành Nhơn
ĐT: 0984982435
Nhiễm
401
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
line ARVs, immunocompromised state,... but the differences did not show the statistical significance.
Conclusion: The HIV/AIDS patients in the Hospital for Tropical Diseases of Ho Chi Minh City treated by
the second line ARVs presented the dyslipidemia but the mechanism of these disorders, the change of lipid profiles
during the treatment, the management of the abnormalities were not mentioned in this study.
Keywords: dyslipidemia, HIV/AIDS. second line ARV.
trị bằng phác đồ bậc I có tỉ lệ rối loạn chuyển
ĐẶT VẤN ĐỀ
hóa lipid máu khoảng 35,5% (12) đến 48% (3), đối
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, từ năm 1981 đến
với phác đồ bậc II là 66,7% (10) cho đến 83%(4). Tại
nay có khoảng hơn 60 triệu người đã bị nhiễm
Việt Nam, một nghiên cứu tác dụng phụ của 2
HIV, trong đó khoảng 25 triệu người đã chết vì
phác đồ ARV bậc I thực hiện từ 7/2006 – 6/2008
AIDS. Mỗi ngày có gần 7.000 người nhiễm mới
tại Bệnh viện Đống Đa (Hà Nội), tỉ lệ rối loạn
và gần 5.000 người chết vì AIDS. Ở Việt Nam, từ
chuyển hóa lipid máu lần lượt là 40,8% với phác
ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào cuối
đồ D4T, 3TC, NVP (1a) và 16,3% với phác đồ
năm 1990, tính đến 30/11/2012, số trường hợp
D4T, 3TC, EFV (1c)(14). Nghiên cứu của Nguyễn
nhiễm HIV hiện còn sống là 208.866, tử vong
Thành Dũng trên 129 bệnh nhân điều trị bằng
62.184 và số bệnh nhân AIDS là 59.839.
phác đồ ARV bậc 2 cho thấy có sự gia tăng trị số
Năm 1997 được xem là cột mốc quan trọng
cholesterol và triglycerid sau 12 tháng điều trị(7).
trong lịch sử điều trị nhiễm HIV/AIDS. Đó là
Tuy nhiên, nghiên cứu vừa nêu chưa khảo sát
thời điểm bắt đầu dùng thuốc kháng retrovirus
rối loạn lipid máu ở phác đồ có thuốc ức chế
hiệu quả cao (highly active antiretroviral
protease như Lopinavir/Ritonavir (LVP/r), thuốc
therapy = HAART) với việc phối hợp cùng lúc 3
chủ lực trong phác đồ bậc II dùng cho bệnh
thuốc ARV trong một phác đồ. Số bệnh nhân
nhân bị thất bại điều trị với phác đồ bậc 1.
đang được điều trị hiện nay tại Việt Nam ước
Với mong muốn góp phần tìm hiểu thêm
tính vào khoảng 68.000 bệnh nhân, trong đó có
vấn đề trên, đề tài của chúng tôi được thực hiện
63.490 bệnh nhân người lớn và 3.567 trẻ em. Từ
với mục tiêu là khảo sát rối loạn lipid ở bệnh
khi áp dụng HAART, tỷ lệ mắc bệnh và tử vong
nhân nhiễm HIV điều trị ARV phác đồ bậc 2 tại
của bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS giảm xuống
Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới (BV BNĐ).
song hành với sự trỗi dậy độc tính và tác dụng
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
phụ của thuốc trên nhiều cơ quan của người
bệnh. Bất thường về chuyển hóa như rối loạn
Thiết kế nghiên cứu
phân bố mỡ, rối loạn chuyển hóa lipid, tăng
Tiền cứu mô tả cắt ngang
đường huyết và kháng insulin. Tác dụng phụ
Đối tượng nghiên cứu
của thuốc có thể làm giảm sự gắn bó của bệnh
Dân số mẫu
nhân với HAART, đồng thời làm gia tăng nguy
cơ bệnh tim mạch.
Bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS đến khám
Điều trị HIV/AIDS kéo dài suốt đời, nhiều
tác dụng phụ không mong muốn có thể xuất
hiện, trong đó rối lọan chuyển hóa lipid là một
vấn đề mới được nêu lên gần đây. Trên thực
hành, kiểm tra rối loạn sinh học ở người nhiễm
HIV được thực hiện một cách rộng rãi khi bắt
đầu sử dụng thuốc ức chế protease, một loại
thuốc được sử dụng trong phác đồ bậc 2. Nhiều
nghiên cứu cho thấy bệnh nhân HIV/AIDS điều
402
ngoại trú tại BVBNĐ.
Dân số nghiên cứu
Bệnh nhân HIV/AIDS đang điều trị ARV bậc
2 tại BVBNĐ
Cỡ mẫu
Dựa vào công thức tính cỡ mẫu trong thiết
kết cắt ngang mô tả.
Z
× p (1 − p )
n =
2
(1 − α / 2 )
d
2
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
‐ α = xác xuất sai lầm loại 1 là 0,05 → Z(1‐α/2) =
1,96
‐ p = 0,66: Tỉ lệ rối loạn lipid máu trên bệnh
nhân HIV điều trị phác đồ bậc II [68].
‐ Sai số cho phép d= 0,1
⇒ n = 200
Tiêu chuẩn chọn mẫu
‐ Tuổi ≥ 15
‐ Nhiễm HIV được xác định khi mẫu huyết
thanh dương tính cả 3 xét nghiệm kháng thể
HIV bằng 3 loại sinh phẩm khác nhau (theo quy
định của Bộ Y Tế VN):
+ XN 1 (sàng lọc): Architect HIV Ag/Ab
Combo (hãng Abbott Laboratories Hoa kỳ), xét
nghiệm này định tính kháng nguyên p24 của
HIV và các kháng thể đối với HIV túyp 1 và
týp 2.
+ XN 2: AxSym HIV ½ (hãng Abbott), xác
định kháng thể HIV.
+ XN 3: COBAS HIV Combi (Công ty
Roche), xét nghiệm định tính kháng nguyên
HIV‐1 p24 và kháng thể HIV‐1 nhóm O và
kháng thể HIV‐2.
‐ Có chỉ định điều trị ARV theo “Hướng dẫn
chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS” của Bộ Y tế
tháng 08/2009 và sửa đổi bổ sung năm 2011.
‐ Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Phụ nữ có thai sử dụng ARV phòng ngừa
lây truyền mẹ‐con. Bệnh nhân có tiền sử rối
loạn lipid máu, bệnh tiểu đường và bệnh lý
tim mạch từ trước. Bệnh nhân nhiễm HBV,
HCV kèm theo.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Mẫu máu nghiên cứu được tiến hành lấy tại
phòng khám ngoại trú HIV/AIDS BVBNĐtừ
tháng 12/ 2011 đến tháng 12/ 2012.
Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được nhập và phân tích bằng phần
mềm SPSS phiên bản 11.5. Các biến số không
liên tục được tính toán theo tỷ lệ % và kiểm định
bằng phép kiểm χ2 có hay không hiệu chỉnh
Nhiễm
Nghiên cứu Y học
Fisher. Các biến số liên tục được tính toán theo
số trung bình bằng phép kiểm Mann‐Whitney.
Giá trị p<0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Từ tháng 12/20011 đến tháng 12/2012, tổng
cộng có 217 bệnh nhân điều trị ARV bậc 2 đủ
tiêu chuẩn chọn lựa được đưa vào nghiên cứu.
Tỉ lệ bệnh nhân bị rối loạn lipid máu
Bảng 1: Tỉ lệ bệnh nhân bị rối loạn rối loạn lipid máu
Nhóm rối loạn
Rối loạn 1 trị số lipid
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Tần số (n)
159
89
84
52
Tỉ lệ (%)
73,3
41
38,7
24
Bệnh nhân có rối loạn ít nhất 1 trong 4 trị số
lipid (cholesterol toàn phần, triglycerid, LDL‐C,
HDL‐C) là 159, chiếm tỉ lệ 73,3%. Rối loạn kiểu
nhóm 1 (tăng cholesterol + triglycerid) là 41%.
Rối loạn lipid máu kiểu nhóm 2 (tăng cholesterol
+ triglycerid + LDL‐C) là 37,8%. Rối loạn lipid
máu kiểu nhóm 3 (tăng cholesterol + triglycerid
+ LDL‐C và giảm HDL‐C) là 24%.
Các chỉ số lipid ở bệnh nhân dùng ARVs
bậc 2
Bảng 2: Trị số Cholesterol, triglycerid, LDL‐C, HDL‐
C (Mmol/L)
Chỉ số lipid máu
Cholesterol (Mmo/L)
Triglycerid (Mmo/L)
LDL-C (Mmo/L)
HDL-C (Mmo/L)
Trung bình
5,42±1,84
4,35±3,34
4,68±3,31
1,17±0,50
Trung vị (IQR)
5,11 (3,0- 6,2)
3,52 (2,0 – 5,2)
4,22 (2,53- 5,71)
1,15 (0,77-1,64)
Tỉ lệ rối loạn lipid trong phác đồ bậc 2
Bảng 3: Tần số (n) và tỉ lệ (%) rối loạn lipid máu.
Yếu tố
Tần số (n,%) Trung bình ±SD
4,03 ± 0,79
Cholesterol Bình thường 113 (52,1)
(Mmo/L)
Tăng
104 (47,9)
6,93 ± 1,40
Bình
thường
62
(28,6)
1,76
± 0,34
Triglycerid
(Mmo/L)
Tăng
155 (71,4)
5,38± 3,45
Bình thường
91 (41,9)
2,39± 0,44
LDL-C
(Mmo/L)
Tăng
126 (58,1)
6,34 ± 5,62
Bình thường 141 (65,0)
1,46 ± 0,39
HDL-C
(Mmo/L)
Giảm
76 (35,0)
0,66 ± 0,2
Tăng cholesterol (Mmo/L) trong phác đồ
ARV bậc 2 của nghiên cứu có tỉ lệ 47,9% với trị
403
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
số trung bình 6,93 ± 1,40. Tăng triglyceride
(Mmo/L) trong phác đồ ARV bậc 2 của nghiên
cứu có tỉ lệ 71,4% và có trị số trung bình 5,38±
3,45. Tăng LDL‐C (Mmo/L) trong phác đồ ARV
bậc 2 của nghiên cứu có tỉ lệ 58,1%, trị số trung
bình 6,34 ± 5,62. Giảm HDL‐C (Mmo/L) trong
phác đồ ARV bậc 2 của nghiên cứu có tỉ lệ
71,4%, trị số trung bình 0,66 ± 0,2.
nhân bình cân và thiếu cân có tỉ lệ rối loạn lipid
máu không khác nhau ở ở cả 3 nhóm với p lần
lượt là 0,747, 0,893 và 0,436).
Các yếu tố liên quan đến rối loạn lipd máu
Thời <5 năm
gian 5-10 năm
nhiễm
>10 năm
HIV
Mối liên quan giữa rối loạn lipid máu và cơ
địa bệnh nhân
Bảng 4: Rối loạn lipid máu liên quan đến cơ địa
(n=217)
Yếu tố
Giới
Tuổi
BMI
Nhóm 1 (n,%) Nhóm 2 (n,%)
Nam
Nữ
<40
≥ 40
63 (40,9%)*
26 (41,3%)
65 (37,6%)*
24 (55,8%)
TC
BC
43 (42,2%)*
46 (40%)
Nhóm 3
(n,%)
60 (39%)** 40 (26%)***
24 (38,1%) 12 (19,1%)
61 (35,1%)**
38
24 (54,5%) (21,8%)***
14 (32,6%)
39 (38,2%)***
17
45 (39,1%) (28,1%)***
29 (23,2%)
* p= 0,961; ** P=0,950 và *** p= 0,278).
Giới tính
Ở bệnh nhân rối loạn lipid nhóm 1 và nhóm
2, tỉ lệ rối loạn của nam và nữ tương đương
nhau lần lượt là 40,9% vs 41,3%, 39% vs 38,1%.
Đối với rối loạn lipid kiểu nhóm 3, phái nam có
tỉ lệ rối loạn lipid máu cao hơn nữ (26% vs
19,1%) nhưng không có khác biệt thống kê.
Rối loạn lipid máu liên quan đến tuổi
bệnh nhân
So sánh ở hai lứa tuổi >40 và <40, rối loạn
lipid ở nhóm ≥40 nhiều hơn. Tỉ lệ rối loạn lipid
nhóm 1 là 55,8% (so với 37,6%), nhóm 2 là 54,5%
(so với 35,1%) với p <0,05. Riêng ở bệnh nhân có
rối loạn lipid nhóm 3, lứa tuổi >40 tuổi có tỉ lệ rối
loạn lipid máu cao hơn (32,6% vs 21,8%) nhưng
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p= 0,14).
Rối loạn lipid máu liên quan đến BMI
Trong nghiên cứu của chúng tôi, dựa vào
BMI chúng tôi chia bệnh nhân ra hai loại: thiếu
cân (TC) và bình thường (BT). BMI của bệnh
404
Mối liên quan giữa rối loạn lipid máu và thời
gian nhiễm HIV
Bảng 5: Thời gian nhiễm HIV
Yếu tố
Nhóm 1 (n,%)
Nhóm 2
Nhóm 3
(n,%)
(n,%)
20 (36,4%)* 19 (43,5%)** 12 (21%)***
64 (43,5%) 60 (45,8%) 38 (25,9%)
5 (33,3%)
3 (33,3%) 2 (13,3%)
*p=0,375, ** p= 0,561 và *** p= 0,308)
Ở bệnh nhân có thời gian nhiễm HIV 5‐10
năm, tỉ lệ rối loạn lipid máu ở cả 3 kiểu nhóm
cao hơn so với bệnh nhân có thời gian nhiễm <5
năm. Tuy nhiên, sự khác biệt này lại không có
giá trị thống kê với p lần lượt là 0,375, 0,561 và
0,308.
Mối liên quan giữa rối loạn lipid máu và các
giai đoạn lâm sàng(GĐLS)
Bảng 6: Giai đoạn lâm sàng liên quan đến rối loạn
lipid máu
LS 1+2
Nhóm 1 Nhóm 2 (n,%)
(n,%)
76 (43,3%)* 71 (40,6%)**
LS 3+4
13 (44,6%)
Yếu tố
GĐLS
13 (44,6%)
* p= 0,140, ** p= 0,230 và *** p= 0,668
Nhóm 3
(n,%)
43
(24,6%)***
9 (21,4%)%)
Tỉ lệ rối loạn lipid máu tương tự nhau ở các
giai đoạn lâm sàng với p lần lượt là 0,140, 0,230
và 0,668)
Mối liên quan rối loạn lipid máu liên quan
đến tiền sử dùng ARV bậc 1
‐ Thời gian điều trị ARV bậc 1
Tỉ lệ rối loạn lipid kiểu nhóm 1ở bệnh nhân
có thời gian điều trị <12 tháng, 12‐36 tháng và
>36 tháng tương đương nhau (39,5%, 41,6% và
42%). Đối với rối loạn kiểu nhóm 2 và 3 cho
thấy bệnh nhân nào có tiền sử điều trị 12‐26
tháng có tỉ lệ rối loạn lipid máu cao hơn so
bệnh nhân điều trị <12 tháng và >36 tháng
nhưng khác biết không có ý nghĩa thống kê với
p lần lượt là 0,940, 0,866 và 0,098.
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Bảng 7: Rối loạn lipid máu liên quan đến tiền sử điều
trị ARV bậc 1
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Yếu tố
(n,%)
(n,%)
(n,%)
<12 30 (39,5%) * 28 (36,8%)** 12 (15,8%)***
Thời
gian
12-36 42 (41,6%) 41 (40,6%) 41 (40,6%)
điều trị
>36
17 (42%)
15 (37,5%) 15 (37,7%)
(tháng)
d4T
Có
40 (40,8%)* 36 (36,7)** 27 (27,6%)***
Không 49 (41,1%) 48 (40,3%) 25 (21%)
NVP
Có
36 (38%)* 34 (37%)** 20 (21%)***
Không 53 (42,4%) 50 (40%)
50 (40%)
EFV
Có
54 (42,5%)* 51 (40,2%)** 32 (25,2%)***
Không 35 (38,9%) 33 (33,7%) 20 (22,2%)
Nghiên cứu Y học
sử dụng ở cả 3 nhóm (ở nhóm 1: 40,8% vs 41,1%;
ở nhóm 2: 40,3% vs 36,7% và ở nhóm 3: 27,6% vs
21%) với p lần lượt là p=0,975; 0,588 và 0,261.
‐ Tiền sử điều trị NVP
Bệnh nhân có tiền sử điều trị NVP có tỉ lệ
rối loạn lipid máu tương tự như bệnh nhân
không dùng thuốc này với p lần lượt là 0,628;
0,649 và 0,510.
‐ Tiền sử điều trị EFV
Bệnh nhân có tiền sử điều trị EFV có rối loạn
* p= 0,940, ** p= 0,866, *** p= 0,098
lipid máu không khác biệt nhiều hơn ở cả 3 kiểu
‐ Tiền sử điều trị bằng d4T
rối loạn, tỉ lệ lần lượt là 42,5% vs 38,9%; 40,2% vs
Bệnh nhân có tiền sử điều trị d4T trong
nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ rối loạn lipid
33.7% và 25,2% vs 22,2%, không có ý nghĩa
thống kê với p lần lượt là 0,592, 0,603 và 0,631.
máu không khác nhau so với bệnh nhân không
Mối liên quan giửa rối loạn lipid máu và ARV bậc 2
Bảng 8: Rối loạn lipid máu liên quan đến thời gian và phác đồ ARV bậc 2
Yếu tố
Thời gian điều trị (tháng)
Công thức ARV2 (n=205
<12
12-36
>36
TDF, 3TC, LPV/r
TDF, AZT, 3TC, LPV/r
‐ Thời gian điều trị ARV
Bệnh nhân có thời gian điều trị càng lâu tỉ lệ
rối loạn lipid máu càng nhiều hơn. Tỉ lệ rối loạn
lipid máu kiểu nhóm 1 với thời gian điều trị <12
tháng, 12‐36 tháng và trên 36 tháng tương
đương nhau (40%, 39,3% và 38,9%). Đối với rối
loạn kiểu nhóm 2 và nhóm 3, bệnh nhân có thời
gian điều trị trên 36 tháng, tỉ lệ rối loạn lipid
Nhóm 1 (n,%)
28 (40%)*
35 (39,3%)
35 (38,9%)
72 (41,4%)
13 (41,9%)
kê với p lần lượt là 0,785; 0,947 và 0,953.
‐ Công thức ARV bậc 2
Bệnh nhân điều trị phác đồ TDF, 3TC, LPV/r
và TDF, AZT, 3TC, LPV/r có tỉ lệ rối loạn lipid
máu tương tự nhau.
Nhiễm
Nhóm 3 (n,%)
14 (20%)***
22 (24,7%)
16 (27,5%)
40 (23%)
10 (32,3%)
Mối liên quan rối loạn lipid máu và yếu tố
cận lâm sàng
Bảng 9: Liên quan các yếu tố cận lâm sàng với rối
loạn lipid máu
Yếu tố
T CD4+
(TB/mm3)
ALT (IU/L)
máu nhiều hơn (42% vs 37,2% và 37,9%; 27%
vs24% và 20% nhưng không có khác biệt thống
Nhóm 2 (n,%)
26 (37,1%)**
33 (37,9%)
26 (42,6%)
67 (38,5%)
13 (41,9%)
Hb (g/L)
<200
Nhóm 1
Nhóm 2
(n,%)
(n,%)
24 (45,3%)* 22 (41,5%)**
≥ 200 65 (39,6%) 64 (38,5%)
≥ 45 72 (44,2%)* 68 (41,7%)**
<45
≥ 12
<12
17 (31,5%) 16 (29,6%)
76 (42%) 71 (49,2%)
13 (36%) 13 (36,1%)
Nhóm 3
(n,%)
13
(24,5%)***
39 (23,8%)
40
(24,5%)**
12 (22,2%)
47 (26%)*
5 (13,9%)
Rối loạn lipid máu liên quan đến tế bào T
CD4+ (TB/mm3)
Bệnh nhân có tế bào T CD4+<200 tỉ lệ rối loạn
lipid máu nhiều hơn ở cả 3 kiểu nhóm (45,3% vs
39,6%; 41,5% vs 38,5% và 24,55 vs 23,8%) nhưng
405
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
không có ý nghĩa thống kê với p lần lượt là
0,467; 0,630 và 0,912.
Rối loạn lipid máu liên quan đến ALT (IU/L)
Bệnh nhân có ALT ≥ 45 (IU/L) có tỉ lệ rối loạn
lipid máu nhiều hơn so với bệnh nhân có ALT
bình thường (44,%2 vs 31,5%; 41,7% vs 29,6% và
24,5% vs 22,2%) nhưng không có khác biệt thống
kê với p lần lượt là 0,100; 0,144 và 0,792.
Rối loạn lipid máu liên quan đến nồng độ Hb
(g/L)
Ở bệnh nhân có Hb≥ 12 g/L, tỉ lệ rối loạn
lipid máu cao hơn so với bệnh nhân thiếu máu
(Hb<12 g/L). Đối với rối loạn lipid kiểu nhóm 3,
có tỉ lệ rối loạn lần lượt ở bệnh nhân không thiếu
máu và thiếu máu lần lượt là 26% và 13.9% với
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p= 0,049.
BÀN LUẬN
Rối loạn lipid máu theo phân nhóm ở phác
đồ ARV bậc 2
Kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có ít
nhất 1 rối loạn lipid máu chiếm tỉ lệ 73,3% và
không có liên quan đến các yếu tố dịch tễ, lâm
sàng và tiền sử điều trị ARV bậc 1. Kết quả này
tương tự như nghiên cứu của EoinG(4),
Marianne(8). Phân chia nhóm rối loạn lipid máu
trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ
bệnh nhân có rối loạn lipid máu nhóm 1 là 41.%,
nhóm 2 là 38,7% và nhóm 3 là 24%. Các nghiên
cứu của Katherine (2010)(6), Nery (2011)(10) và
Nawakete (2012)(9) cũng cho kết quả tương tự.
Các chỉ số rối loạn lipid trong phác đồ bậc
2
Sự thay đổi Cholesterol ở phác đồ ARV bậc 2
Thay đổi cholesterol đã được ghi nhận rất
sớm ở phác đồ ARV bậc 2. Nghiên cứu của
chúng tôi thực hiện trên 217 bệnh nhân cho thấy
tỉ lệ phần trăm được ghi nhận như sau:
Cholesterol tăng 48% với trị số trung bình
5,42±1,84 Mmol/L, trong đó bệnh nhân dùng
phác đồ ABC, ddI, LPV/r tăng cao nhất (66,6%).
Tuy nhiên, cỡ mẫu nghiên cứu của phác đồ này
quá nhỏ (n= 6/217) nên không thể hiện được sự
406
chính xác. Mức độ tăng cholesterol trong nghiên
cứu của chúng tôi không biệt với nhiều nghiên
cứu trên thế giới. Trong nghiên cứu của
Marianne(8) ở Pháp năm 2008, tỉ lệ tăng
cholesterol được ghi nhận là 57% (cao hơn trong
nghiên cứu của chúng tôi). Một nghiên cứu của
Catarian(2) thực hiện trên 12.531 bệnh nhân thực
hiện năm 2011 tại Tanzania cho thấy tỉ lệ tăng
Cholesterol dao động từ 23 đến 76% tương tự
với kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi.
Sự thay đổi Triglyceride ở phác đồ ARV bậc 2
Thay đổi triglyceride máu là trị số thay đổi
lớn nhất trong phác đồ bậc II có thuốc ức chế
men protease (protease inhibitors = PI). Trong
một nghiên cứu gộp của Eoin G(8) năm 2011 cho
thấy tỉ lệ tăng triglyceride máu trong phác đồ
ARV bậc II là 83%. Tỉ lệ tăng Triglyceride máu
trong nghiên cứu của chúng tôi là 71,4% với
nồng độ trung bình là 4,35±3,34 Mmol/L. Tỉ lệ
này thấp hơn trong nghiên cứu của Eoin G(4)
thực hiện năm 2011, nhưng cao hơn nghiên cứu
của Marianna(8) (28%).
Sự thay đổi HDL‐C ở phác đồ ARV bậc 2
Giảm trị số HDL‐C trong phác đồ ARV bậc 2
là một trong những nguy cơ bệnh tim mạch ở
bệnh nhân HIV điều trị ARV. Nghiên cứu của
chúng tôi nhận thấy trị số HDL giảm 35% trong
tổng số 217 bệnh nhân (trị số trung bình HDL‐C
1,17±0,50 mmol/L). Trong nghiên cứu của
Marianne(8), tỉ lệ giảm HDL‐C là 22% sau 20
tháng điều trị phác đồ ARV bậc 2. Nghiên cứu
của Periard D(14) và cộng sự trên 93 bệnh nhân
thực hiện năm 1999 cũng cho thấy HDL‐C
không thay đổi trên bệnh nhân điều trị ARV bậc
2. Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi không
phù hợp với một số nghiên cứu trên thế giới,
nhưng vì đây là nghiên cứu lần đầu thực hiện tại
Việt Nam nên cần có nhiều nghiên cứu có cỡ
mẫu lớn hơn để xác định vấn đề này. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu của Marianna(8) cũng xác nhận
sự giảm HDL‐C trong phác đồ ARV có chứa PI
cũng đang còn nhiều tranh cãi và có những kết
quả khác nhau.
Sự thay đổi LDL‐C ở phác đồ ARV bậc 2
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Điều trị ARV có PI đã chứng minh được
hiệu quả làm giảm tải lượng virus khi bệnh
nhân thất bại với phác đồ ARV bậc I(7). Trong
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ tăng
LDL‐C ở phác đồ ARV bậc II là 58,1% với trị số
trung bình là LDL‐C 4,68 ± 3,31 mmol/L. Trong
nghiên cứu do Nawakatare(9) thực hiện tại
Tazania trên hơn 5.000 bệnh nhân cho thấy mức
tăng LDL‐C là 53%. Như vậy, mức tăng LDL‐C
trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một
số nghiên cứu được thực hiện trên thế giới.
Các yếu tố liên quan đến rối loạn lipid máu
Mối liên quan giửa rối loạn lipid máu và tuổi
bệnh nhân
Theo Jean PM, Hội Lão khoa Châu Âu
(European Geriatric Medicine ‐EGM), quá trình
lão hóa của con người bắt đầu xuất hiện ở tuổi
40 trở lên. Ở lứa tuổi này con người bắt đầu có
biểu hiện giảm sút về trí tuệ, đồng thời xuất hiện
các rối loạn về chuyển hóa và có khả năng rối
loạn lipid máu. Nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy có sự rối loạn lipid khác nhau ở 2 nhóm
tuổi này. Trong rối loạn lipid máu nhóm 1, bệnh
nhân điều trị ARV bậc 2 ở lứa tuổi từ 40 trở lên tỉ
lệ rối loạn là 55,8%, trong khi dưới 40 tuổi chỉ
chiếm 37,6%. Ở bệnh nhân có rối loạn kiểu
nhóm 2 cũng có sự khác biệt, lứa tuổi từ 40 trở
lên tỉ lệ rối loạn lipid máu 54,5% so với 35,1% ở
lứa tuổi dưới 40. Ở bệnh nhân có rối loạn nhóm
3 cũng cho kết quả tương tự: lứa tuổi >40 có tỉ lệ
rối loạn cao hơn lứa tuổi <40. Nghiên cứu của
Marianne(8) thực hiện trên 1172 bệnh nhân năm
2008 tại Pháp xác định tuổi lớn hơn 40 có liên
quan đến rối loạn lipid máu nhiều hơn. Một
nghiên cứu khác của Katherine V(6) thực hiện
2001 cho thấy loạn dưỡng mỡ có liên quan đến
tuổi và tăng nhiều hơn ở lứa tuổi từ 40 trở lên.
Như vậy, rối loạn lipid máu có liên quan đến
tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với
những nghiên cứu này. Riêng ở bệnh nhân >40
có rối loạn nhóm 3 cao hơn nhưng lại không có ý
nghỉa thống kê. Điều này có thể cỡ mẫu của
chúng tôi còn nhỏ chưa chứng minh được sự
khác biệt. Mặt khác, rối loạn lipid máu hỗn hợp
Nhiễm
Nghiên cứu Y học
thường thay đổi chủ yếu các tăng cholesterol,
triglyceride, LDL‐C và giảm HDL‐C trong bệnh
nhân HIV/AIDS vẫn còn chưa thống nhất nên
cần có thêm những khảo sát rối loạn lipid máu ở
nhóm này với những cỡ mẫu lớn hơn.
Mối liên quan giữa giới tính và rối loạn lipid
máu ở bệnh nhân sử dụng phác đồ ARV bậc 2
Trong 217 bệnh nhân, nam chiếm 71%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rối
loạn lipid kiểu nhóm 1 ở nam và nữ lần lượt là
40,9 và 41,3%, ở nhóm 2 là 39% và 38,1% và ở
nhóm 3 là 26% và 19,1%. Như vậy, rối loạn lipid
máu ở bệnh nhân sử dụng phác đồ ARV bậc 2
không có sự khác nhau về giới tính. Nghiên cứu
của Marianne(8) cho thấy giữa nam và nữ tỉ lệ rối
loạn lipid máu tương tự nhau. Một nghiên cứu
khác của Nery(10) thực hiện tại Brazil cũng cho
thấy không có khác biệt về rối loạn lipid máu ở
hai phái. Như vậy, bệnh nhân sử dụng phác đồ
ARV bậc 2 không có sự khác biệt rối loạn lipid
máu giữa nam và nữ.
Mối liên quan giữa BMI và rối loạn lipid máu
ở bệnh nhân sử dụng phác đồ ARV bậc 2
Rối loạn lipid máu liên quan đến BMI được
nhắc đến trong nhiều nghiên cứu trên thế giới.
Người béo phì có BMI cao sẽ có rối loạn lipid
máu nhiều hơn. Nghiên cứu của chúng tôi thực
hiện trên 217 bệnh nhân HIV/AIDS đang điều trị
ARV bậc 2 ghi nhận không có bệnh nhân thừa
cân và béo phì. Rối loạn lipid máu kiểu nhóm 1
cho thấy bệnh nhân thiếu cân và bình cân có tỉ lệ
gần bằng nhau (40% và 42%). Đối với rối loạn
kiểu nhóm 2 cũng không có sự khác biệt (38,2%
và 39,1%). Rối loạn lipid kiểu nhóm 3 ở bệnh
nhân bình cân thường cao hơn bệnh nhân thiếu
cân (32,6% so với 21,8%) nhưng không có sự
khác biệt thống kê. Nghiên cứu của Marianne(9)
ghi nhận nhóm bệnh nhân có BMI cao tỉ lệ rối
loạn lipid máu nhiều hơn. Một nghiên cứu khác
của Carlos D(3) tại Tây Ban Nha trên 710 bệnh
nhân cho thấy bệnh nhân có BMI trên 23 có rối
loạn lipid máu nhiều hơn. Bệnh nhân điều trị
ARV bậc 2 được chỉ định khi thất bại với phác
đồ bậc 1 bao gồm thất bại về lâm sàng, miễn
407
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
dịch và virus. Mặt khác Việt Nam thuộc nhóm
quốc gia đang phát triển nên chế độ dinh dưỡng
cho người dân còn hạn chế. Vì vậy, nghiên cứu
của chúng tôi không có nhóm bệnh nhân thừa
cân và béo phì nên khó phân tích so sánh, tuy
nhiên ở bệnh nhân có rối loạn kiểu nhóm 3 có
BMI bình thường (18,5‐22,99), rối loạn lipid máu
nhiều hơn nhưng không có khác biệt thống kê.
Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi cũng phù
hợp với các nghiên cứu khác trên thế giới nhưng
chưa phân tích được BMI ở nhóm thừa cân và
béo phì so với bệnh nhân thiếu cân.
Liên quan đến thời gian nhiễm HIV và rối
loạn lipid máu ở bệnh nhân sử dụng phác đồ
ARV bậc 2
Trước khi được điều trị bằng ARV, nhiễm
HIV cũng gây ra rối loạn lipid máu. Tăng
cholesterol toàn phần và LDL‐C và giảm HDL‐C
đã được chứng minh trong một nghiên cứu hai
nhóm bệnh nhân nam có HIV dương tính và
HIV âm tính. Ở những bệnh nhân nhiễm HIV này
chưa điều trị ARV đã có tăng nồng độ
triglyceride, LDL‐C và giảm HDL‐C trong huyết
thanh so với nhóm chứng không nhiễm HIV. Do
đó, thời gian nhiễm HIV càng lâu có thể gây rối
loạn lipid máu nhiều hơn so. Nghiên cứu của
chúng tôi ghi nhận ở bệnh nhân có thời gian
nhiễm HIV giai đoạn 5‐10 năm tỉ lệ rối loạn lipid
nhóm 1 cao nhất (43,5%), tương tự như bệnh
nhân có rối loạn kiểu nhóm 2 và 3. Nghiên cứu
Ketharine(6) thực hiện năm 2001 trên 1035 bệnh
nhân cho thấy thời gian nhiễm HIV không liên
quan đến rối loạn lipid máu. Một nghiên cứu
khác của Adewole O(1) và cộng sự thực hiện năm
2010 tại Nigeria trên 130 bệnh nhân nhiễm HIV
cho thấy tăng lipid máu nhưng cũng không có
khác biệt thống kê. So với kết quả nghiên cứu
của chúng tôi với một số nghiên cứu thực hiện
trên thế giới cho thấy tỉ lệ rối loạn lipid máu cao
hơn ở nhóm bệnh nhân có thời gian nhiễm HIV
408
từ 5‐10 năm tương tự như nhau.
Liên quan giữa giai đoạn lâm sàng và rối loạn
lipid máu ở bệnh nhân sử dụng phác đồ ARV
bậc 2
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện tại
phòng khám ngoại trú ở bệnh nhân đã kháng
thuốc phác đồ ARV bậc 1. Giai đoạn lâm sàng
được chia làm hai nhóm: lâm sàng giai đoạn 1và
2 (suy giảm miễn dịch nhẹ) và lâm sàng giai
đoạn 3 và 4 (suy giảm miễn dịch nặng). Tình
trạng rối loạn lipid máu được ghi nhận như sau:
rối loạn kiểu nhóm 1 giữa các giai đoạn lâm
sàng tương tự nhau (43,4% và 44,6%), rối loạn
kiểu nhóm 2 thì giai đoạn lâm sàng 3 và 4 có tỉ lệ
rối loạn lipid máu cao hơn (44,6 vs 40,6%), rối
loạn kiểu nhóm 3 thì có tỉ lệ tương đương nhau.
Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi, giai
đoạn lâm sàng của bệnh nhân không có liên
quan đến rối loạn lipid máu, tương tự như
nghiên cứu của Marianne S(9) thực hiện tại Pháp
năm 2008 và của Periard D(14) năm 1999.
Rối loạn lipid máu liên quan đến thời gian đã
sử dụng phác đồ ARV bậc 1 ở bệnh nhân sử
dụng phác đồ ARV bậc 2
Điều trị ARV làm giảm tải lượng HIV RNA,
phục hồi miễn dịch, cải thiện chất lượng cuộc
sống. Phục hồi miễn dịch đánh giá dựa vào sự
gia tăng tế bào T CD4 +, giảm tải lượng virus
dưới ngưỡng phát hiện, không xuất hiện các
bệnh nhiễm trùng cơ hội. Tuy nhiên, việc điều
trị này thường đưa đến tăng cholesterol toàn
phần, LDL‐C và triglyceride. Trong phác đồ có
thuốc ức chế men sao chép ngược không có gốc
(non‐nucleos(t)ide
reverse
transcriptase
inhibitors = NNRTI), có sự gia tăng cholesterol
toàn phần, LDL‐C và triglycerids, tăng
triglyceride thường không nghiêm trọng như
phác đồ có sử dụng PI. Thời gian điều trị kéo dài
cũng gây rối loạn lipid máu. Nghiên cứu của
chúng tôi thấy bệnh nhân có tiền sử điều trị
ARV bậc 1 từ 12‐36 tháng tỉ lệ rối loạn lipid máu
nhiều hơn. Nghiên cứu của Calza L(2) trên 130
bệnh nhân năm 2005 cho thấy tỉ lệ rối loạn lipid
máu sau 12 tháng điều trị 42,2%. Tỉ lệ trong
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
nghiên cứu của chúng tôi là 40,6%, chỉ nói được
bệnh nhân có tiền sử dùng ARV bậc 1 thời gian
12‐ 36 tháng có rối loạn lipid máu nhiều hơn
nhưng lại không có khác biệt thống kê giữa các
nhóm.
Liên quan tiền căn sử dụng d4T phác đồ ARV
bậc 1 với rối loạn lipid máu ở phác đồ bậc 2
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân
có tiền sử điều trị d4T trước khi chuyển sang
phác đồ ARV bậc 2 tỉ lệ rối loạn lipid máu nhóm
1 là 40,8%, nhóm 2 là 36,7% và nhóm 3 là 27,6%.
Nghiên cứu của Katherin) cho thấy bệnh nhân có
tiền sử điều trị d4T thì tỉ lệ rối loạn lipid máu
nhiều hơn khi chuyển sang phác đồ so với người
không có tiền sử điều trị d4T. Một nghiên cứu
khác của Johannes R(5) và cộng sự thực hiện năm
2004 có tỉ lệ rối loạn lipid máu ở bệnh nhân sử
dụng d4T sau 42 tháng là 27%, tương tự với
nghiên cứu của chúng tôi.
Liên quan tiền căn sử dụng NVP phác đồ ARV
bậc 1 với rối loạn lipid máu ở phác đồ bậc 2
NVP được ghi nhận ít gây rối loạn lipid máu
hơn so với các thuốc khác trong nhóm NNRTIs.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy giữa bệnh
nhân có và không có tiền sử điều trị NVP không
có khác nhau khi chuyển sang điều trị phác đồ
ARV bậc 2. Nghiên cứu của Marianne S(9) cho
thấy NVP gây rối loạn lipid máu thấp hơn các
thuốc cùng nhóm NNRTIs.
Liên quan tiền căn sử dụng EFV phác đồ ARV
bậc 1 với rối loạn lipid máu ở phác đồ bậc 2
Trong nhóm thuốc NNRTIs, EFV được ghi
nhận gây rối loạn lipid máu nhiều hơn so với
NVP. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận bệnh
nhân có tiền căn sử dụng EFV trước khi chuyển
sang phác đồ ARV bậc 2 tỉ lệ rối loạn lipid máu
nhiều hơn so với không sử dụng ở cả 3 kiểu rối
loạn (42,5% và 38,9%; 40,2% và 33,7%; 25,2% và
22,2%). Một nghiên cứu cắt ngang của Eric W(13)
thực hiện tại Cameroon được tiến hành từ tháng
11 năm 2009 đến tháng 1 năm 2010, 138 bệnh
nhân HIV chưa điều trị ARV và 138 người khác
được điều trị ít nhất 12 tháng với phác đồ bao
Nhiễm
Nghiên cứu Y học
gồm NVP hoặc EFV. Kết quả cho thấy nhóm
dùng EFV thì có tỉ lệ rối loạn lipid máu nhiều
hơn. Như vậy, bệnh nhân có tiền căn sử dụng
EFV tỉ lệ rối loạn lipid máu sẽ cao hơn so với
nhóm bệnh nhân không có sử dụng thuốc này
trước khi chuyển sang phác đồ bậc 2.
Mối liên quan rối loạn lipid máu và thời gian
sử dụng ARV bậc 2
Nghiên cứu của chúng tôi trên 217 bệnh
nhân với thời gian điều trị ARV bậc 2 được chia
ra làm ba loại: dưới 12 tháng, từ 12 đến 36 tháng
và trên 36 tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ
lệ rối loạn lipid máu nhóm 1 ở bệnh nhân có thời
gian điều trị ARV trên 36 tháng nhiều hơn 21‐36
tháng và dưới 36 tháng (44,8%, 39,3% và 40%). Ở
bệnh nhân có rối loạn nhóm 2 được dùng thuốc
trên 36 tháng cũng cao hơn 2 kiểu nhóm còn lại.
Rối loạn kiểu nhóm 3 ở bệnh nhân điều trị từ
trên 36 tháng cao hơn nhóm bệnh nhân điều trị
dưới 12 tháng (27,5% vs 20%). Như vậy, bệnh
nhân có thời gian điều trị ARV lâu hơn có rối
loạn lipid máu nhiều hơn nhưng không có khác
biệt thống kê. Nghiên cứu của Katherine(6) trên
1035 bệnh nhân cho thấy thời điều trị ARV bậc 2
lâu rối loạn lipid máu nhiều hơn (không có khác
biệt thống kê), nghiên cứu của Adewole O(1) năm
2010 tại Nigeria trên 130 bệnh nhân cho thấy
bệnh nhân điều trị ARV trên 12 tháng có rối loạn
lipd máu nhiều hơn so với nhóm dưới 12 tháng.
Thời gian điều trị ARV dài hơn có rối loạn lipid
máu nhiều hơn nhưng không có khác biệt thống
kê. Như vậy, so với một số nghiên cứu trên thế
giới, kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với các
nghiên cứu đã thực hiện.
Mối liên quan rối loạn lipid máu và tế bào T
CD4+ ở bệnh nhân sử dụng ARV bậc 2
Kết quả nghiên cứu liên quan giửa số lượng
tế bào T CD4+ và rối loạn lipid máu của chúng tôi
cho thấy rối loạn kiểu nhóm 1 khi T CD4+ (tế
bào/mm3 máu) dưới 200 là 45,3%, cao hơn bệnh
nhân có số lượng tế bào T CD4+ trên 200. Rối loạn
kiểu nhóm 2 ở bệnh nhân có số lượng tế bào T
CD4+ thấp hơn cũng có rối loạn lipid máu nhiều
hơn (41,5% so với (38,5%). Đối với rối loạn kiểu
409
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
nhóm 3, tỉ lệ rối loạn lipid máu ở bệnh nhân có T
CD4+ dưới 200 và trên 200 tỉ lệ lần lượt là 24,5%
và 23,8%. Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy bệnh nhân có số lượng T CD4+ dưới 200
sẽ có rối loạn lipid máu nhiều hơn (không có
khác biệt thống kê giữa các nhóm), phù hợp với
một số nghiên cứu khác đã thực hiện trên thế
giới. Nghiên cứu của Catharina(3) thực hiện trên
12.513 bệnh nhân ở Tanzania (2011) cho thấy có
sự gia tăng trị số trung bình của triglyceride và
LDL‐C khi số lượng tế bào T CD4+ dưới 200.
Mối liên quan rối loạn lipid máu và ALT ở
bệnh nhân được điều trị phác đồ bậc 2
Nồng độ ALT trung bình trong nghiên cứu
của chúng tôi là 37,16 ± 36,07 IU/L. Kết quả
nghiên cứu cho thấy nhóm 1 tỉ lệ rối loạn lipid
máu khi ALT ≥ 45 và <40 lần lượt là 44,2% và
31.1%. Nhóm 2 (cũng cho kết quả tương tự
(41,7% so với 38,5%) và nhóm 3 kết quả lần lượt
là (24,5% và 22,2%). Tuy có tỉ lệ rối loạn cao hơn
nhưng không có khác biệt thống kê giữa các
nhóm. Tăng men gan kèm rối loạn lipid máu
cũng có thể do bệnh lý chuyển hóa ở gan.
Nghiên cứu của Adewole(1) (2010) cho thấy
không có sự liên quan giữa viêm gan và rối loạn
lipid máu. Tăng men gan liên quan đến rối loạn
lipid máu trên bệnh nhân điều trị ARV bậc 2
chưa được nghiên cứu nhiều. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi chưa phù hợp với một số
nghiên cứu trên thế giới nên cần có nhiều
nghiên cứu cỡ mẫu lớn hơn, thời gian dài hơn để
kết luận vấn đề này.
Mối liên quan của Hb đến rối loạn lipid máu ở
bệnh nhân được điều trị phác đồ ARV bậc 2
Điều trị ARV đã cải thiện rõ rệt về lâm sàng,
bệnh nhân hết nhiễm trùng cơ hội, sinh hoạt tốt
hơn và cải thiện tình trạng thiếu máu. Hb trung
bình trong nghiên cứu của chúng tôi 13,66 ± 1,81
g/L. Liên quan giữa rối loạn lipid máu và nồng
độ Hb trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
như sau bệnh nhân có Hb trên 12g/L có rối loạn
lipd máu nhiều hơn nhóm bệnh nhân thiếu
máu. Ở nhóm 3, bệnh nhân điều trị ARV bậc 2,
Hb trên 12g/L rối loạn có liên đến rối loạn lipid
410
máu và có khác biệt giữa 2 nhóm (26% và 13,9%
với p= 0,049). Một nghiên cứu tại Hàn Quốc của
Ozdemir A(11) thực hiện năm 2007 trên 427 bệnh
nhân ghi nhân nhóm bệnh nhân có chỉ số Hb
trên 14g/L sẽ có rối loạn lipid máu nhiều hơn.
Giải thích điều này có thể do Hb <12g/L gặp ở
những bệnh nhân có tình trạng suy kiệt kèm
thiếu máu, BMI sẽ thấp nên tình trạng rối loạn
lipid máu sẽ thấp hơn. Kết quả này cũng phù
hợp với nghiên cứu của chúng tôi. Tuy nhiên,
liên quan giữa chỉ số Hb và rối loạn lipid máu
trên bệnh nhân HIV/AIDS sử dụng ARV bậc 2
chưa được khảo sát nhiều trong các nghiên cứu
trên thế giới.
KẾT LUẬN
Rối loạn lipid máu trong nghiên cứu của
chúng tôi được ghi nhận ở 159/217 (73,3%) bệnh
nhân, trong đó các chỉ số rối loạn kiểu nhóm 1
(tăng cholesterol và triglyceride) là 41%, nhóm 2
(tăng cholesterol, triglyceride và LDL‐C) là
38,7% và nhóm 3 (tăng cholesterol + triglycerid +
LDL‐C và giảm HDL‐C) là 24%. Tăng
Cholesterol được ghi nhận 47,9% bệnh nhân với
trị số trung bình 5,42 ± 1,84 mmol/L, tăng
triglyceride 71,4% với trị số trung bình 4,35 ±
3,34 mmol/L, tăng LDL‐C 58,1% với trị số trung
bình 4,68 ± 3,31 mmol/L và giảm HDL‐C 35%
với trị số trung bình 1,17 ± 0,50 mmol/L.
Các yếu tố tuổi, thời gian nhiễm HIV, thời
gian sử dụng ARV bậc 1, thời gian sử dụng ARV
bậc 2, trị số ALT, Hb có liên quan đến rối loạn
lipid máu nhưng không có giá trị thống kê.
Tóm lại, qua nghiên cứu chúng tôi mới ghi
nhận có rối loạn lipid máu ở bệnh nhân nhiễm
HIV/AIDS nhưng chưa tìm được các yếu tố liên
quan cũng như diễn tiến cơ học nồng độ lipid
trong quá trình điều trị cũng như hậu quả của
rối loạn lipid trên bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
Adewole O, Eze S, Betiku, Anteyi E, Wada I, Ajuwon Z,
Erhabor G, (2010), “Lipid profile in HIV/AIDS patients in
Nigeria”, Afr Health Sci, 10(2), pp. 144–149
Calza L, Manfredi R, Chiodo F., et al, (2011), “Dyslipidaemia
associated with antiretroviral therapy in HIV‐infected
patients” Journals Antimicrobial Chemotherapy, 53(1), pp. 10‐14
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
3.
Carlos D, Aberg J, et al. (2011), “Management of dyslipidemia
in HIV‐infected”, Clinical Infectious Diseases, 37, (5), pp. 613‐
627
4.
Eoin R, Patrick W, (2011), “HIV and HAART‐Associated
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
Dyslipidemia Open Cardiovasc”, Med J, 5, pp. 49–63.
Johannes R, Vielhauer V, Beckmann RA.; Michl G, Wille L,
Salzberger B et al. (2004), “Stavudine Versus Zidovudine and
the Development of Lipodystrophy”, AIDS, 28, pp. 263‐279.
Katherine S, (2010), “Metabolic consequences and therapeutic
options in highly active antiretroviral therapy in human
immunodeficiency virus‐1 infection”, J Antimicrobial
Chemotherapy, 61(2), pp. 238‐245
Lê Bửu Châu (2009), “Diễn biến bệnh nhân nhiễm HIV người
lớn sau điều trị ARV phác đồ bậc 1 tại Bệnh viện Bệnh nhiệt
đới Tp.Hồ Chí Minh”. Luận văn Thạc sỹ Y học.
Marianne S, Raffi F, Capeau J, Willy R, Marie R, Christian P,
et al (2008), “Factors related to lipodystrophy and Metabolic
Alterations in Patients with Human Immunodeficiency Virus
infection receiving highly active antiretroviral therap”, Clin
Infect Dis, 34(10), pp. 1396‐1405.
Nawakatare JM, (2012), “Assement ofrisk factor for
cardiovasculardiseases among HIV infected patiens artending
muhimbili national hospital care and treatment clinic”, Mmed,
30, pp. 470‐491
Nery MW, Martelli CM, Turchi MD, et al. (2011),
“Dyslipidemia in AIDS patients on highly active
antiretroviral therapy”, Braz J Infect Dis, 15(2), pp.151‐155.
12.
13.
14.
15.
Nghiên cứu Y học
relationship between iron deficiency anemia and lipid
metabolism in premenopausal women”, Am J Med Sci, 334(5),
pp. 331‐3.
Pefura EW, Foueudjeu A, KengneAP, Kaze FJ, Ngogang J, et
al. (2011), “First‐line antiretroviral therapy and dyslipidemia
in people living with HIV‐1 in Cameroon”, AIDS Res Ther, 8,
pp. 25‐33.
Pefura Yone EW, Betyoumin AF, Kengne AP, Kaze Folefack
FJ, Ngogang J.. (2011), “First‐line antiretroviral therapy and
dyslipidemia in people living with HIV‐1 in Cameroon: a
cross‐sectional study”, AIDS Res Ther, 33 (8), pp. 1142‐1186.
Périard D, Telenti A, Cheseaux JJ, Halfon P, Reymond
MJ, Marcovina SM. (1999), “Atherogenic dyslipidemia in
HIV‐infected individuals treated with protease inhibitors. The
Swiss HIV Cohort Study”, Mesh, 100(7), pp. 700‐5.
Phạm Bá Hiền, Thẩm Chí Dũng, Trần Viết Tiến và Nguyễn
Văn Mùi, (2009), “Đánh giá tác dụng không mong muốn của
hai phác đồ điều trị bệnh nhân AIDS: Stavudine +
Lamivudine + Nevirapine và Zidovudine + Lamivudine +
Nevirapine”, Tạp chí Y học Dự phòng, 21, pp. 96‐102.
Ngày nhận bài báo: 07/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Ozdemir A, Sevinç C, Selamet U, Türkmen F, (2007), “The
Nhiễm
411