Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Bước đầu áp dụng kỹ thuật nội soi sau phúc mạc ngã hông lưng trong mổ cắt chóp nang thận và sạn niệu quản đoạn trên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.13 KB, 12 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

37 BƯỚC ĐẦU ÁP DỤNG KỸ THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC NGÃ
HÔNG LƯNG TRONG MỔ CẮT CHÓP NANG THẬN VÀ SẠN NIỆU QUẢN
ĐOẠN TRÊN
Nguyễn Văn Hiệp 1 , Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng 2 , Phạm Phú Phát 3 , Nguyễn Văn Ân 2,
Nguyễn Ngọc Tiến2, Đào Quang Oánh 4 , Nguyễn Tế Kha 2, Nguyễn Hoàng Đức2

TÓM LƯC
Mục tiêu: phẫu thuật nội soi ít xâm lấn là khuynh hướng phát triển chung của phẫu thuật, ngành niệu
khoa cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên, niệu khoa có điểm đặc thù là phẫu thuật đại đa số ở vùng sau phúc
mạc nên phát triển phẫu thuật nội soi vùng sau phúc mạc là hướng đi thích hợp và nhiều triển vọng. Tại KhoaBộ môn Niệu bệnh viện Bình Dân đã phát triển phẫu thuật nội soi ổ bụng từ khoảng đầu năm 2001 và nội soi
sau phúc mạc vùng hông lưng từ tháng 8 / 2002. Bài viết này nhằm tổng kết các trường hợp nội soi sau phúc
mạc vùng hông lưng mà bước đầu chúng tôi đã áp dụng trong điều trò ngoại khoa nang thận và sạn niệu quản
đoạn trên.
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: chúng tôi có hai nhóm bệnh nhân: nhóm 17 bệnh nhân nang thận
có triệu chứng và nhóm 36 bệnh nhân sạn niệu quản đoạn trên có chỉ đònh can thiệp. Nhóm nang thận được
áp dụng kỹ thuật này từ 8/2002 và nhóm sạn niệu quản đoạn trên từ 3/2003, thời điểm tổng kết là cuối tháng
8/2003. Trên cả hai nhóm này đều áp dụng chung kỹ thuật vào vùng sau phúc mạc vùng hông lưng sau khi
bơm túi nước tách vùng hông lưng và bơm hơi CO2 để tạo khoảng trống làm việc, dùng 3 hoặc 4 trocar với
trocar cho ống kính nội soi nằm phía trên mào chậu và trên đường nách giữa, 2 trocar làm việc trên đường
nách sau. Đánh giá kết quả theo 2 nhóm riêng biệt ngay trong thời gian nằm viện hậu phẫu.
Kết quả: trên 17 bệnh nhân nang thận có tuổi trung bình 51,9, có 6 nam và 11 nữ, 7 nang bên phải và 10
nang bên trái. Kích thước nang trung bình là 66,6mm với 6 nang cực trên, 1 nang cực giữa, 9 nang cực dưới, 1
nang cạnh bể thận. Thể tích túi nước bơm trung bình là 443ml, chủ yếu dùng 3 trocar, chỉ 2 trường hợp dùng 4
trocar. Hai trường hợp tìm nang lúc mổ khó vì nang cực trên ở mặt trước và nang cực dưới rất lớn. Thời gian
mổ trung bình là 99,7 phút. Thời gian có lại nhu động ruột sau mổ là 1,54 ngày; thời gian rút ống dẫn lưu là
2,9 ngày; thời gian nằm viện sau mổ: 3,92 ngày. Có 3/17 trường hợp (17,6%) phải chuyển mổ hở, đều là các
nang thận cực trên và trong thời gian đầu. Biến chứng sau mổ chỉ có 1 trường hợp nhiễm trùng vết đặt trocar.


Ba mươi sáu bệnh nhân sạn niệu quản đoạn trên có tuổi trung bình 46,6, có 17 nam và 19 nữ, mổ lấy ra 21
sạn bên phải và 16 sạn bên trái với 37 sạn trên 36 bệnh nhân. Vò trí sạn: khúc nối bể thận-niệu quản: 7 ; mỏm
ngang LIII: 10 ; mỏm ngang LIV: 5 ; giữa L III-LIV: 12 ; giữa LIV-LV: 2. Kích thước sạn trung bình là 16,56 mm.
Phim hệ niệu có cản quang có 3 trường hợp thận ứ nước độ I, 27 thận ứ nước độ II, 3 thận ứ nước độ III, 3
trường hợp không rõ; 20 trường hợp chức năng thận tốt, 11 chức năng trung bình và 5 chức năng thận xấu.
Hai trường hợp đầu có đặt thông niệu quản trước mổ. Thể tích túi nước bơm là 387ml; dùng 3 trocar trong 28
trường hợp, dùng 4 trocar trong 8 trường hợp. Cắt xẻ niệu quản chủ yếu bằng dao lạnh, chỉ 2 trường hợp xẻ
bằng dao nóng, khâu lại niệu quản từ 1-3 mũi. Ba trường hợp có đặt lưu thông niệu quản khi mổ. Thời gian mổ
1

Phó Giám Đốc, Trưởng Khối Niệu bệnh viện Bình Dân
Khoa Niệu B bệnh viện Bình Dân
3 Khoa Niệu A bệnh viện Bình Dân
4 Trưởng khoa Niệu B bệnh viện Bình Dân
2

254

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Nghiên cứu Y học

trung bình: 105,4 phút. Bệnh nhân có nhu động ruột lại sau 1,78 ngày; thời gian dùng thuốc giảm đau sau mổ:
4,4 ngày; rút ống dẫn lưu sau 5,2 ngày; nằm viện sau mổ: 5,47 ngày. Có 4 / 36 trường hợp (11,1%) chuyển mổ
hở trong đó một do làm thủng phúc mạc tìm không thấy niệu quản, một do chảy máu do tổn thương tónh mạch
sinh dục, một do tăng cao thán khí (CO2) trong máu, một do bệnh nhân mập. Tai biến khi mổ: 2 tăng áp suất
khí CO2 máu lúc mổ trong đó 1 trường hợp phải chuyển mổ hở, 1 trường hợp tổn thương tónh mạch sinh dục

gây chảy máu phải chuyển mổ hở. Thời kỳ hậu phẫu có 5/ 32 trường hợp (15,6%) phải đặt thông JJ niệu quản
và đặt sau mổ 6,8 ngày vì xì nước tiểu nhiều. Các biến chứng khác gồm: 1 trường hợp tràn khí dưới da bụng, 1
nhiễm trùng vết đặt trocar.
Kết luận: trong bước đầu áp dụng kỹ thuật nội soi sau phúc mạc vùng hông lưng, kết quả trên là đáng
khích lệ với tỉ lệ thành công là 86,8% (46 / 53 trường hợp), tỉ lệ chuyển mổ hở là 13,2% (7 / 53 trường hợp), tỉ lệ
biến chứng sau mổ tương đối ít. Vấn đề tổ chức ê kíp mổ nội soi thành thạo nhòp nhàng và nâng cao kỹ năng
thao tác của phẫu thuật viên có ý nghóa rất quan trọng trong tỉ lệ thành công chung. Phẫu thuật cắt chóp nang
thận và cắt mở niệu quản đoạn trên lấy sỏi là tương đối dễ thực hiện, khi đã thao tác thành thục chúng tôi sẽ
hướng đến các phẫu thuật phức tạp hơn như tạo hình khúc nối bể thận-niệu quản, cắt thận đơn giản, cắt tuyến
thượng thận, cắt thận rộng,.....

ABSTRACT
INITIAL APPLICATION OF LAPAROSCOPIC RETROPERITONEOSCOPY
FOR RENAL CYSTS UNROOFING AND UPPER URETEROLITHOTOMY
Nguyen Van Hiep, Nguyen Phuc Cam Hoang, Pham Phu Phat, Nguyen Van An, Nguyen Ngoc Tien,
Dao Quang Oanh, Nguyen Te Kha, Nguyen Hoang Duc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 *
Supplement of No 1 * 2004: 254 – 265

Objectives: Less-invasive endoscopic procedues is the current trend in surgery, including urology.
Nevertheless, urology has the characteristic of operations mainly in the retroperitoneum, hence,
retroperitoneoscopy is the appropriate and promising approach. At the Department of Urology of Binh Dan
hospital, we have developped laparoscopy since the beginning of year 2001 and laparoscopic
retroperitoneoscopy since August 2002. This paper is to summarize the operations for renal cysts and upper
ureteral calculi using the flank retroperitoneoscopic approach.
Materials and method: we had two groups of patients: 17 patients with symptomatic renal cysts and 36
patients with upper ureteral calculi not responding to medical treament. The renal cysts group operated since
August 2002 and the ureteral stones group operated since March 2003, the time of closing is by the end of
August 2003. In these two groups we applied the same technique of entering the retroperitoneum in the flank
region by using an expanding balloon and insufflation of carbon dioxide to create a working space. We used 3
to 4 trocars with the trocar for laparoscope placed over the iliac crest, in the mid-axillary line, 2 working trocars

in the posterior axillary line. Assessment of outcome performed in two separate groups right in the post-op
period.
Results: in 17 patients with renal cysts: mean age of 51.9 with 6 males and 11 females, 7 on the right and
10 on the left-hand side. Average diameter of cysts is of 66.6mm with 6 upper-pole cysts, 1 mid-pole cyst, 9
lower-pole cysts, and 1 parapelvic cyst. Mean balloon inflation: 443 ml, using mainly 3 trocars, 4 trocars in
only two cases. In two cases the detection of renal cyst was difficult because one of upper-pole position,
anterior surface and one giant lower pole cyst. Mean operation time: 99.7 minutes. Post-op bowel movements

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

255


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

in 1.54 days; removal of drain in 2.9 days; post-op hospital stay: 3.92 days. In 3 / 17 cases (17.6%) did we
resort to lumbotomy, all of which were upper-pole cysts and in initial phase of the learning curve. Post-op
complications were minimum: only 1 infection at the trocar site. Thrity six patients with upper ureteral stones
have the average age of 46.6, with 17 males and 19 females, 21 ureteral stones removed on the right-hand
side and 16 ureteral stones on the left-hand side with 37 stones for 36 patients. Stone sites: 7 UPJ stones, 10 LIII
stones, 5 LIV stones, 12 L III-IV stones, and 2 LIV-V stone. Mean stone size: 16.56mm. IVU revealed 3 mild
hydronephrosis, 27 moderate hydronephrosis, 3 severe hydronephrosis, 3 of unknown; 20 cases with good
renal function, 11 with fair renal function, and 5 with poor renal function. In 2 initial cases was a ureteral
catheter placed pre-operatively. Mean balloon inflation: 387ml. Three trocars were used in 28 cases, and 4
trocars in 8 cases. We performed ureterolithotomy using a cold knife, in only 2 cases did we use a hot one. We
put one to three stitches for ureteral repair. In 3 cases did we place an indwelling ureteral catheter. Mean
operation time: 105.4 minutes. Post-op bowel movements in 1.78 days; post-op analgesic administration time:
4.4 days; removal of drain in 5.2 days; post-op hospital stay: 5.47 days. In 4 / 36 cases (11.1%) did we resort to

lumbotomy in which one was caused by peritoneal penetration and ureter not found, one severe haemorrhage
because of gonadal vein injury, one severe intraoperative hypercarbia, and one because of obesity. Intraoperative incidence: two intraoperative hypercarbia of which one lead to lumbotomy, one haemorrhage by
gonadal vein injury leading to lumbotomy. In post-op period, 5 / 32 cases (15.6%) needed placement of a
ureteral stent at 6.8 days because of urine leakage. Other complications comprise: one subcutaneous
emphysema, one infection at the trocar site,
Conclusions: in the initial application of laparoscopic retroperitoneoscopy, these results appear
encouraging in terms of good success rate: 86.8% (46 / 53 cases), acceptable lumbotomy rate: 13.2% (7 / 53
cases), complications in post-op period were quite few. Organizing a skilled and harmoneous laparoscopic
team and improving the surgeon’s competence are very important for gross success rate. The renal cysts
unroofing and ureterolithotomy are easy-to-do procedures, when expert we will move towards more
sophisticated procedures such as UPJ reconstruction, simple nephrectomy, adrenalectomy, radical
nephrectomy,.....
đoạn trên lấy sạn. Nội soi sau phúc mạc vùng hông
ĐẶT VẤN ĐỀ
lưng còn có thể giải quyết nhiều bệnh lý khác ở
Phẫu thuật nội soi ổ bụng có hai ngã vào: ngã
đường tiểu trên nhưng đòi hỏi kỹ thuật, kinh nghiệm,
xuyên phúc mạc và ngã sau phúc mạc. Phẫu thuật
và dụng cụ nội soi phức tạp mà chúng tôi chưa thể
niệu khoa có đặc điểm là can thiệp chủ yếu ở vùng
thực hiện trong hoàn cảnh hiện tại. Bài viết này
sau phúc mạc nên việc áp dụng phẫu thuật nội soi
nhằm tổng kết các trường hợp nội soi sau phúc mạc
qua ngã sau phúc mạc ngoài những ưu điểm tránh
vùng hông lưng để cắt chóp nang thận đơn độc và cắt
tiếp xúc trực tiếp với các cơ quan trong ổ bụng nó còn
mởû niệu quản đoạn trên lấy sạn mà chúng tôi đã thực
là đường vào trực tiếp và quen thuộc đối với các bác só
hiện trong vòng một năm từ tháng 8 / 2002 đến 8 /
niệu khoa. Tại Khoa-Bộ môn Niệu bệnh viện Bình

2003.
Dân đã bắt đầu thực hiện phẫu thuật nội soi ổ bụng
TỔNG QUAN:
từ đầu năm 2001 (31) bằng ngã qua phúc mạc trong
phẫu thuật bướu tuyến thượng thận, nang thận, dãn
Lòch sử: (17, 27)
tónh mạch tinh, sỏi niệu quản….. với kết quả đáng
Năm 1969, Bartel thực hiện lần đầu tiên thực
khích lệ. Từ tháng 8 năm 2002 chúng tôi bắt đầu
hiện nội soi sau phúc mạc với máy nội soi trung thất.
thực hiện nội soi sau phúc mạc vùng hông lưng để
Năm 1974, Sommerkamp sinh thiết thận bằng kỹ
cắt chóp nang thận (25) và sau đó là cắt xẻ niệu quản

256

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
thuật nửa mở (semi open) dùng máy soi hông lưng
(lumboscope). Whickham (1979) lần đầu tiên bơm
hơi vùng sau phúc mạc để cắt mở niệu quản lấy sạn
qua nội soi sau phúc mạc với một máy nội soi ổ bụng
tiêu chuẩn. Kaplan và cộng sự (1979) nội soi sau phúc
mạc ở chó dùng khí nitrous oxide. Wickham và Miller
báo cáo nội soi sau phúc mạc ở tử thi bơm khí CO2.
Hald và Ramussen (1980) thực hiện nội soi vùng
chậu sau phúc mạc trong những trường hợp ung thư
bàng quang và tiền liệt tuyến. Mazeman (1986) và

Wurtz (1985) báo cáo kinh nghiệm nạo hạch chậu-bòt
ngã sau phúc mạc.
Eshghi và cộng sự (1985) dùng máy soi ổ bụng
để theo dõi một trường hợp lấy sạn thận san hô qua
da trên một trường hợp thận lạc chỗ ở vùng chậu.
Weinberg và Smith (1988) cắt thận qua nội soi qua da
ở heo bằng cách hút chủ mô thận qua đường mở
thận ra da với một máy hút siêu âm nội soi (CUSA)
sau khi lấp mạch động mạch và tónh mạch thận.
Meretyk và cộng sự (1992) báo cáo một trường hợp
gắp vật lạ ở vùng sau phúc mạc qua một đường hầm
qua da. Mặc dù Clayman và cộng sự thực hiện cắt
thận qua nội soi sau phúc mạc trong buổi đầu nhưng
sau đó họ lại ủng hộ ngã qua phúc mạc. Việc Gaur
(1992) (14) mô tả kỹ thuật nội soi sau phúc mạc với
một bong bóng để làm nở rộng khoảng sau phúc mạc
đã mở ra chân trời mới trong nội soi ổ bụng trong
niệu khoa.
Tại Việt Nam: lần đầu tiên, Lê Đình Khánh (23)
báo cáo 7 trường hợp phẫu thuật nội soi sau phúc
mạc điều trò sỏi niệu quản vào tháng 3/ 2002, sau đó
Đoàn Trí Dũng (13) báo cáo 14 trường hợp sạn niệu
quản vào tháng 3/ 2003.

Chỉ đònh nội soi sau phúc mạc
Theo Gaur (17) thì tất cả các phẫu thuật trên
tuyến thượng thận, thận, bể thận, niệu quản, bọng
đái, và tiền liệt tuyến đều có thể thực hiện qua ngã
nội soi sau phúc mạc.
Trong cắt mở lấy sạn (lithotomy): có thể mở

thận lấy sạn, mở bể thận, mở niệu quản lấy sạn nếu
không có điều kiện tán sỏi ngoài cơ thể, nội soi niệu

Nghiên cứu Y học

quản tán sạn, hay lấy sỏi qua da hay khi các biện
pháp trên thất bại. Chỉ đònh thường là sạn lớn và
cứng ở bể thận ngoại xoang, sạn dính kẹt (chronically
impacted) ở niệu quản đoạn trên,sạn niệu quản và có
hẹp niệu quản, sạn trong túi ngách đài thận, hay
trong đài thận giãn với chủ mô thận bên trên giãn
mỏng (17,18). Cũng theo Gaur (18) thì sạn niệu quản
càng khó điều trò bằng tán sỏi ngoài cơ thể hay nội soi
niệu quản thì càng dễ với nội soi sau phúc mạc vùng
hông lưng.
Theo điều tra của Hiệp hội Niệu khoa nước Pháp
trong 8 năm từ 1991-1998 trên 5532 bệnh nhân được
mổ nội soi ổ bụng bởi 93 ê kíp (1) thì khoảng 20%
phẫu thuật là qua ngã sau phúc mạc và 80% qua ngã
xuyên phúc mạc. Các phẫu thuật thường làm qua ngã
sau phúc mạc là cắt thận đơn giản, cắt thận tận gốc,
và cắt bỏ tuyến thượng thận. Các phẫu thuật qua ngã
xuyên phúc mạc là cắt thận tận gốc, tạo hình khúc
nối bể thận-niệu quản, phẫu thuật sa sinh dục,
Burch, nạo hạch chậu-bòt, cắt tiền liệt tuyến tận gốc,
cắt cột tónh mạch tinh, cũng như sạn bể thận, sạn
niệu quản. Có vẻ như là trong phẫu thuật đường niệu
dưới thường dùng ngã xuyên phúc mạc còn ở đường
niệu trên thì có tác giả thích ngã sau phúc mạc có tác
giả thích ngã xuyên phúc mạc.

Giải phẫu học của hố thận trong nội
soi sau phúc mạc vùng hông lưng(2,22)
Tiếp cận khoang sau phúc mạc bằng cách dùng
ngón tay bóc tách ở khoang Grynfelt nằm giữa khối
cơ thắt lưng cùng (sacro-lombaire) và cơ chéo trong.
Thủ thuật này bóc tách hố thận bằng cách tách dần
cân thành (fascia parietalis) khỏi cân quanh thận sau
(Zuckerkandle fascia) và phúc mạc. Vô trong cân
thành bao phủ mặt sâu của cơ thành bụng và cơ
vuông thắt lưng đi theo cân chậu (fascia iliaca) bao
phủ cơ thăn (psoas). Phía trước cơ thăn và ở ngang
mức hố thận, cân chậu dính với cân Zuckerkandle,
bao bọc hố thận ở sau và ở trong. Do đó cơ thăn là
ranh giới trong khi bóc tách hố thận bằng ngón tay. Ở
phía ngoài, ngón tay bóc tách đi theo giữa cân thành
và cân nón bên (lateroconal fascia) là do sự dính lại
của hai lá cân quanh thận trước và sau. Dùng ngón

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

257


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

tay đẩy cân nón bên bằng cách đi theo sát cân thành
sẽ giúp ngón tay luôn ở khoang cạnh thận mà không
làm lủng phúc mạc. Việc tách bằng ngón tay trong

khoảng bóc tách vô mạch nằm giữa cân Zuckerkandle
và cân thành và đặt bệnh nhân ở tư thế nằm nghiêng
cổ điển cho phép một đường vào sau phúc mạc đủ
rộng. Bóc tách bằng ngón tay phía sau đường nách
sau giúp tránh làm lủng phúc mạc vì chỗ lật của phúc
mạc sau nằm trước đường nách sau.

mới đây (< 1 tháng).
Bệnh nhân sạn niệu quản

Bệnh nhân sạn niệu quản lưng từ vùng khúc nối
bể thận-niệu quản (bể thận ngoài xoang) đến trên
mào chậu, thường là sạn niệu quản lưng dính kẹt
(impacted) không đáp ứng điều trò nội và tán sỏi
ngoài cơ thể (ESWL). Những bệnh nhân đã có mổ
trước ở vùng hông lưng bên có sạn bò loại trừ (18).
Phương pháp thực hiện
Xét nghiệm tiền phẫu

Công thức máu, đường huyết, chức năng thận,
chức năng đông máu toàn bộ, ECG, X quang phổi,
HIV test nhanh, xét nghiệm nước tiểu: tổng phân
tích nước tiểu, cấy nước tiểu làm kháng sinh đồ.
Chẩn đoán hình ảnh

Siêu âm bụng tổng quát và chụp thận cản quang
đường tónh mạch (UIV). Trên UIV, những trường hợp
thận ứ nước độ 3 hoặc ứ nước mà thận giãn lớn hoặc
chức năng thận trên UIV kém không bò loại trừ.
Nhận biết cơ thăn (psoas) là thì căn bản của phẫu

thuật, nó giúp tiếp cận cuống thận nằm ngay đối
diện. Khi ở bờ ngoài của cơ thăn phẫu thuật viên sẽ
hoặc là đi thẳng vào hố thận băng qua trước cân chậu
để vào lớp mỡ quanh cuống thận hay là dùng dụng
cụ, dưới quan sát trực tiếp, tiếp tục bóc tách hố thận
bằng cách lấy đi một phần cân chậu để phơi trần cơ
thăn. Trong trường hợp cắt thận tận gốc do ung thư
cần lấy đi toàn bộ hốc thận, cần phải bóc tách cân
chậu tối đa trước khi xẻ vào nó để vào cuống thận.
Trong cắt thận đơn giản sẽ xẻ một đường dọc dài ở
phần trong cân Zuckerkandle để thấy niệu quản và
mạch máu sinh dục nằm ở trong hốc thận.

TIÊU CHUẨN CHỌN BỆNH VÀ PHƯƠNG
PHÁP THỰC HIỆN
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân nang thận

Bệnh nhân nang thận có kích thước ≥ 50 mm có
triệu chứng, không có đợt nhiễm trùng nang thận

258

Không cần đặt thông mũi-dạ dày và
thông tiểu ngay trước mổ.
Đặt thông niệu quản trước mổ

Trong sạn niệu quản, chúng tôi không chủ
trương đặt thông niệu quản (dưới sạn) trước mổ hệ
thống tuy trong hai ca đầu chưa có kinh nghiệm

chúng tôi có làm vì sợ xì dò nước tiểu sau mổ.
Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc vùng
hông lưng

Vô cảm: gây mê nội khí quản.
Tư thế bệnh nhân: bệnh nhân được đặt ở tư thế
nằm nghiêng cổ điển với một gối được nâng cao ở eo
lưng, bàn mổ được gấp khoảng 10-15o ở ngang mức
háng. Bệnh nhân được cố đònh bởi 3 vùng tựa: vùng
tựa ở xương mu, ở lưng, và ở mông. Dùng băng quấn
lớn để tăng cường cố đònh bệnh nhân ở vùng háng.
2.5.3. Cách bóc tách vùng sau phúc mạc và đặt
trocar: Bóc tách vùng sau phúc mạc: rạch da ngay
dưới đầu xương sườn 12 trên đường nách sau, dài
khoảng 1.5-2 cm, tách cân cơ lưng (có thể cắt cơ

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
bằng dao điện - mini lumbotomy), dùng ngón tay bóc
tách khoang hông lưng trước như đã nêu (phần cơ
thể học giải phẫu của hố thận....). Sau đó sẽ dùng
bong bóng bơm nước theo kiểu của Gaur
(13,15,16,17) đặt vào khoang cạnh thận sau. Bong
bóng được làm bằng một găng mổ hoặc ngón tay
găng cột vào một ống thông Nelaton, được bơm 400500 ml Saline để bóc tách. Chúng tôi không có loại
trocar bong bóng kiểu “PDB balloon, Origin®
Medsystems” (10). Sau khi xì nước và lấy bong bóng
ra chúng tôi đặt ngay trocar đầu tiên (sử dụng trocar

Storz 10-mm hay loại trocar Versaport ® 5-12 mm,
không cần đặt nòng) vào đường rạch da đầu tiên này,
khâu bít kín đường rạch da quanh trocar, dùng chỉ
vicryl 1-0. Chúng tôi không có loại trocar “kín hơi”
kiểu Origin® Medsystems. Nối trocar này với đường
dây hơi CO2 để bơm hơi sau phúc mạc đến 14 -15
mm Hg. Đặt ống soi vào trocar này, có thể dùng đầu
ống soi này, dưới quan sát trực tiếp qua màn hình, để
đẩy tiếp những vùng mỡ cạnh thận để làm rộng
thêm khoang làm việc. Sau đó sẽ đặt tiếp các trocar
khác dưới quan sát trực tiếp dưới màn hình (xem vò
trí đặt trocar và dụng cụ bên dưới). Chúng tôi không
áp dụng cách đặt trocar “mù” với mũi trocar áp theo
đầu ngón tay đặt bên trong hố thắt lưng như Abbou
(2, 3).
Vò trí đặt trocar và dụng cụ: chúng tôi áp dụng
cách phân bố các trocar theo Abbou (2, 3): hai trocar
làm việc ở đường nách sau cho người mổ chính (mà
một là trocar đầu tiên), thường là một trocar 10-mm
và 5-mm hoặc hai trocar 10-mm, qua đó người mổ sử
dụng kéo điện và kềm phẫu tích; một trocar 10-mm
ngay trên mào chậu trên đường nách giữa, đặt ống
soi ở trocar này và giao cho người dụng cụ giữ ống soi
đứng ở phía chân bệnh nhân; hai trocar dành cho
người phụ đặt ở đường nách trước, thường dùng
trocar 5-mm. Tối đa là 5 trocar nhưng trong phẫu
thuật sạn niệu quản và nang thận chúng tôi chỉ cần
3-4 trocar với 2 trocar trên đường nách trước là tùy
chọn. Cách phân bố vò trí trocar như vậy có vẻ hợp lý,
dễ thao tác, dễ phối hợp giữa các thành viên kíp mổ

hơn là cách đặt trocar có ống soi nằm giữa thẳng

Nghiên cứu Y học

hàng với hai trocar làm việc như của Gaur (17,18) hay
hình tam giác của Ballanger (6,7).

Vò trí các thành viên ê kíp mổ: phẫu thuật viên chính
đứng ngay sau lưng bệnh nhân, người phụ một đứng
đối diện, ở phía bụng bệnh nhân, và người dụng cụ
viên (giữ camera) đứng phía mông bệnh nhân cùng
bên phẫu thuật viên chính. Màn hình video đặt đối
diện phẫu thuật viên,về phía đầu bệnh nhân, nếu có
thêm một cái nữa sẽ đặt đối diện phụ một. Cách sắp
xếp vò trí ê kíp mổ như vậy là khác với mô hình chuẩn
của Gaur (19).

Cách đi vào hố thận và tìm niệu quản-thận:
đầu tiên phải bám theo cơ thăn phía sau, đi theo cơ
thăn về phía trong đến tối đa, vuông góc với trục của
trocar dưới sườn của phẫu thuật viên. Ở giai đoạn này
thường dùng một “hand-like retractor” để đẩy vén
phúc mạc và Gerota. Khi mặt trước cơ thăn không
thể đi xa hơn nữa thì sẽ xẻ cân phủ cơ thăn để vào
khoang thắt lưng và tìm thấy các mốc giải phẫu như:

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

259



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

tónh mạch sinh dục, niệu quản, tónh mạch chủ dưới
và cuống thận.
Bóc tách niệu quản quanh chỗ sạn nằm, xẻ
niệu quản gắp sạn: xẻ niệu quản bằng dao lạnh,
không có dao lạnh nội soi chuyên biệt kiểu
“retractable endoknife” Cook Urological® nên chúng
tôi dùng một lưỡi dao mổ số 11, mũi nhọn, tra vào
một kẹp mang kim đưa qua trocar 10-mm và cắt mở
niệu quản sau khi dùng một kẹp endo-Babcock kẹp
niệu quản ngay trên chỗ sạn nằm. Nạy sạn ra, gắp
sạn ra ngoài bằng kềm nội soi qua trocar 10-mm.
Kiểm tra sự thông thương của niệu quản bên dưới
bằng cách luồn một thông thở oxy số 8 vào miệng xẻ
niệu quản, bơm nước muối sinh lý vào ống thông.
Khâu lại niệu quản bằng chỉ vicryl 4-0, mũi rời (1-3
mũi), cột nơ trong cơ thể. Vì có khâu niệu quản nên
chúng tôi chủ trương giống như Gaur (15,16,18) là
không đặt thông nòng niệu quản hệ thống hóa. Lau
hay hút sạch vùng mổ và dẫn lưu khoang thắt lưng
bằng ống thông thở oxy số 12 đặt qua trocar 5-mm
phía mào chậu. Đóng các lỗ trocar với khâu cân cơ ở
lỗ trocar 10-mm.
Đối với nang thận: phẫu tích vùng quanh nang,
cắt mở nang hút nước, cắt chóp nang đến sát mép
chủ mô thận lành, đốt cầm máu mép nang, đặt ống

dẫn lưu như trong sạn niệu quản.
Theo dõi hậu phẫu
Chúng tôi cho bệnh nhân nằm viện đến khi ống
dẫn lưu khô hẳn để rút ống trươc khi cho xuất viện.
Ghi nhận ngày bệnh nhân có lại nhu động ruột, mức
độ đau và thời gian dùng thuốc giảm đau, ngày rút
thông dẫn lưu (cũng là ngày xuất viện).

Nang (Siêu âm, UIV)

Vò trí: Nang cực trên: 6 Nang cực dưới: 9
Nang cực giữa: 1 Nang cạnh bể thận: 1
Kích thước (mm): Từ: 51 - 120, Trung bình:
66,6
Phẫu thuật cắt chóp nang thận:

Bơm túi nước tách vùng sau phúc mạc: từ 360 500 ml, trung bình: 443 ml
1 trường hợp sau cùng không cần dùng túi nước.
Số trocar sử dụng: 3 trocar: 15 4 trocar: 2
Thời gian mổ (phút): từ 60 – 140, trung bình:
99,7
Chuyển mổ hở: 3 / 17 trường hợp: đều là nang
cực trên, thuộc nhóm 10 ca đầu.
Hậu phẫu:

Đau sau mổ: Nhiều: 2 / 14 Trung bình: 8 / 14 Ít:
7 / 14
Thời gian dùng thuốc giảm đau (ngày): từ 2 –
8, trung bình: 4,4
Nhu động ruột trở lại (ngày): từ 1 - 3, trung

bình: 1,54
Thời gian rút ống dẫn lưu (ngày): từ 2 – 4,
trung bình: 2,99
Thời gian nằm viện sau mổ (ngày): từ 2 – 7
ngày, trung bình: 3,9
Biến chứng sau mổ

Rất ít: nhiễm trùng chỗ đặt trocar: 1
Bệnh nhân sạn niệu quản
Trong thời gian từ tháng 3/ 2003 đến hết tháng 8
/ 2003 chúng tôi đã thực hiện trên 36 bệnh nhân với
số sạn là 37 viên.

KẾT QUẢ
Bệnh nhân nang thận
Trong thời gian từ tháng 8 / 2002 đến hết tháng
8 / 2003 chúng tôi đã thực hiện trên 17 bệnh nhân.
Bệnh nhân

Bệnh nhân:

Tuổi: từ 20 – 70 tuổi. Trung bình: 46,6 tuổi.
Giới: Nam: 17 Nữ: 19

Tuổi: từ 36 – 66 tuổi. Trung bình: 51,9 tuổi.

Đòa dư: TPHCM: 12 Các tỉnh miền Đông: 12

Giới: Nam: 6 Nữ: 11


Các tỉnh miền Tây: 10 Các tỉnh miền Trung: 2

260

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
ASA: I: 17 II: 18 III: 1
Yếu tố sỏi

Vò trí sỏi: Sỏi bên trái: 16 Sỏi bên phải: 20
Sỏi khúc nối: 7 Sỏi L3 (mỏm ngang): 10
Sỏi L3 – L4: 12 Sỏi L4 (mỏm ngang): 5
Sỏi L4 – L5: 2
Kích thước sỏi (mm): Từ: 8 – 30, Trung bình:
16,6

Nghiên cứu Y học

1 trường hợp làm lủng phúc mạc, bơm hơi CO2
không tốt, tìm không ra niệu quản.
1 trường hợp rối loạn nhòp tim trong khi mổ có
lẽ do tăng khí CO2 trong máu.
1 trường hợp bệnh nhân mập, thì tìm niệu quản
kéo dài, sạn nằm một phần nội xoang.
Tai biến trong khi mổ

Số lượng sỏi: 37 sạn của 36 bệnh nhân (một
bệnh nhân có 2 viên sạn niệu quản lưng bên phải).


Vỡ bong bóng bơm nước: 2 (1 trường hợp vẫn
tiếp tục mổ nội soi; 1 trường hợp sau đó phải chuyển
mổ hở vì thủng phúc mạc lỗ lớn mà không phải do vỡ
bong bóng).

Độ ứ nước của thận và niệu quản (UIV): Độ I: 3
Độ II: 27 Độ III: 3 Không rõ: 3

Thủng phúc mạc: 2 (1 trường hợp thủng lớn
không bơm hơi được, chuyển mổ hở).

Chức năng thận (UIV): Tốt: 20 Trung bình: 11
Xấu: 5

Tăng khí CO2 máu nặng (hypercarbia) khi mổ:
2, (1 trường hợp có rối loạn nhòp tim phải chuyển mổ
hở).

Cấy nước tiểu trước mổ:

Thực hiện: 15 / 36 trường hợp
Dương tính: 3 / 15 trường hợp
Phẫu thuật mở niệu quản lấy sạn:

Đặt thông niệu quản trước mổ: chỉ ở 2 trường
hợp đầu tiên.
Bơm túi nước tách vùng sau phúc mạc: từ 300 600 ml, trung bình: 387 ml
8 trường hợp sau cùng không cần dùng túi nước.
Số trocar sử dụng: 3 trocar: 28 4 trocar: 8

Chủ yếu dùng dao lạnh cắt xẻ niệu quản (30 /
32), chỉ có 2 trường hợp dùng dao điện.
Số mũi khâu niệu quản: 0 mũi:1 / 32 ; 1 mũi: 9 /
32 ; 2 mũi: 17 / 32 ; 3 mũi: 5 / 32
Thời gian mổ (phút): từ 60 – 200, trung bình:
105,4 phút
Đặt lưu thông niệu quản khi mổ:

3 / 32 trường hợp
Chuyển mổ hở

4 / 36 trường hợp:
1 trường hợp bóc tách ra phía trước nhiều quá,
rách tónh mạch sinh dục gây chảy máu.

Chảy máu do phạm tónh mạch sinh dục, phải
chuyển mổ hở: 1
Mổ kéo dài trên 3 giờ: 1 trường hợp mô quanh
niệu quản viêm dày tìm niệu quản rất khó khăn ; 1
trường hợp bệnh nhân mập, mỡ quanh thận nhiều,
sạn tương đối nhỏ.
Hậu phẫu

Đau sau mổ: Nhiều: 2 / 32 Trung bình: 24 / 32 Ít:
6 / 32
Thời gian dùng thuốc giảm đau (ngày): Từ 2 –
8, trung bình: 4,4
Nhu động ruột trở lại (ngày): từ 1 - 3, trung
bình: 1,78
Thời gian rút ống dẫn lưu (ngày): từ 2 – 17,

trung bình: 5,2
Thời gian nằm viện sau mổ (ngày): Từ 2 – 17
ngày, trung bình: 5,5
Biến chứng sau mổ

Tràn khí dưới da bụng: 1
Nhiễm trùng chỗ đặt trocar: 1
Xì dò nước tiểu lâu phải đặt thông niệu quản: 4
(1 trường hợp nghi có sỏi thận rớt xuống), ngày hậu

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

261


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

phẫu phải đặt thông niệu quản trung bình: 6,8.

BÀN LUẬN
Đường tiếp cận sau phúc mạc ngã
hông lưng
Chúng tôi chọn đường tiếp cận sau phúc mạc
bằng cách đặt túi nước bóc tách ngoài cân
Zuckerkandle theo kiểu của Abbou (2, 3) nhưng
lượng nước bơm ít hơn vì chúng tôi sợ vỡ túi nước,
điều có thể làm cho cuộc mổ khó khăn do phẫu
trường thấm nước. Theo cách này thì sau khi đặt

trocar thứ ba và bắt đầu phẫu thuật sẽ phải cắt xẻ cân
này để vào lớp mỡ quanh thận, tìm cơ thăn (psoas) và
lấy cơ này làm mốc căn bản để tìm niệu quản nằm
sát ngay phía trước. Gaur chủ trương đặt túi nước ở
dưới cân Zuckerkandle và vào thẳng vùng quanh
thận-niệu quản. Chúng tôi không chủ trương bơm
không khí vì sợ biến chứng tắc mạch do khí nếu bò vỡ
bong bóng.
Trong những ca sau này chúng tôi thấy không
cần dùng túi nước nữa: sau khi tách vùng sau phúc
mạc bằng ngón tay sẽ đặt trocar 10-mm và bơm hơi
CO2 ngay, soi vùng sau phúc mạc, dùng ngay đầu ống
soi để tiếp tục đẩy mỡ cạnh thận ra khỏi thành bụng,
làm rộng quang (phẫu) trường và đặt tiếp các trocar
còn lại. Kết quả vẫn như dùng túi nước nhưng tiết
kiệm được nhiều thời gian. Trocar 10-mm đặt đầu
tiên nếu dùng loại Versaport ® 5-12 mm sẽ giúp tiết
kiệm thêm thời gian mổ vì đây sẽ thành một trocar
làm việc của phẫu thuật viên.
Cách đặt trocar và vò trí các thành
viên kíp mổ

nách giữa, 2 trocar để làm việc của phẫu thuật viên
chính nằm trên đường nách sau (một là trocar10mm đặt đầu tiên). Một hoặc hai trocar cho người
phụ nằm trên đường nách trước. Dụng cụ viên đứng
cùng bên với phẫu thuật viên chính để giữ ống soi và
đứng hẳn về phía chân bệnh nhân, bằng cách này
phẫu thuật viên sẽ sử dụng hai trocar của mình một
cách thuận lợi thoải mái (không choàng tay dụng cụ
viên). Trong một số trường hợp nếu cần có thể hoán

vò ống soi lên trocar 10-mm đặt đầu tiên và phẫu
thuật viên chính phẫu tích qua 2 trocar còn lại. Gaur
(15,16,17,18) chọn vò trí trocar cho ống soi nằm ngay
giữa của đường mổ thận (tưởng tượng) và hai trocar
làm việc ở hai đầu của đường này.
Tìm và xử lý nang thận
Loạt này chúng tôi tổng kết 17 trường hợp, thực
chất là tiếp theo 10 trường hợp của Tiến (25). Nang
thận mặt trước, nang cực trên khó kiếm nếu đi ngã
sau phúc mạc. Tuy nhiên, nếu bóc tách cô lập thận
hoàn toàn (giống như để cắt thận) thì cuối cùng vẫn
tiếp cận được nang để xử lý. Ba trường hợp chuyển
mổ hở đều là nang cực trên nhưng ở trong thời gian
đầu chưa có kinh nghiệm làm phẫu thuật kéo dài.
Sau này chúng tôi từng tiếp cận nang thận nằm ở cực
trên mặt trước, tuy có khó khăn và tuy vẫn xử lý được
nhưng chúng tôi nghó rằng trường hợp này nên đi
ngã qua phúc mạc phẫu thuật sẽ nhanh chóng và dễ
dàng hơn nhiều. Nang thận lớn > 10 cm có thể làm
thay đổi cấu trúc vùng sau phúc mạc gây khó khăn
khi soi, kinh nghiệm cho thấy nên dùng ngón tay
thám sát trực tiếp thận (nang) để đònh hướng khi đi
vào phẫu tích.

Chúng tôi làm như Abbou (2,3): trocar 10-mm
dành cho ống soi nằm ngay trên mào chậu ở đường
Bảng 1: Kết quả phẫu thuật nang thận qua nội soi:
Tác giả
Hiệp, 2002
(26)

Bắc, 20012002 (24)

262

Số bệnh
nhân
10
10

Kích thước Tư thế
Đường vào
nang TB bệnh nhân
70-100
Nghiêng Xuyên phúc mạc
mm
> 100
Ngửa
Xuyên phúc mạc
mm

Số trocar, Thời gian Nhu động Rút dẫn Nằm viện Đổi
vò trí đặt
mổ TB
ruột
lưu
sau mổ mổ hở
3,
< 90
3–5
phía bụng

phút
ngày
3,
60
2
4
phía bụng
phút
ngày
ngày
-

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
Tiến, 2002
(25)
Loạt này

10
17

60
mm
66,6
mm

Nghiêng
cổ điển

Nghiêng
cổ điển

Sau phúc mạc
Sau phúc mạc

3,
phía lưng
3-4,
phía lưng

113
99,7

Nghiên cứu Y học
1,8
ngày
1,54
ngày

2,7
ngày
2,9
ngày

3
ngày
3,9
ngày


3/10
3/17

Sạn niệu quản

này của Gaur (18).

Chúng tôi chủ trương xẻ niệu quản bằng dao
lạnh để tránh biến chứng hẹp niệu quản khi dùng
dao điện. Không có dao “endoknife” chuyên dụng,
chúng tôi dùng lưỡi dao số 11 mũi nhọn tra vào kẹp
mang kim đưa vào trocar 10-mm, thấy kết quả tốt.

Những ca sau của loạt này thời gian mổ thường
khoảng hơn 60 phút. Các yếu tố làm cuộc mổ kéo dài:
những ca đầu chưa có kinh nghiệm, bệnh nhân béo
phì (mỡ quanh thận nhiều), viêm dính quanh niệu
quản và vùng hông lưng nhiều (sạn kẹt niệu quản lâu
ngày), sạn nằm cao gần bể thận. Các yếu tố giúp làm
giảm thời gian cuộc mổ: khi có kinh nghiệm hơn và
thuần thục hơn, không dùng túi nước tách vùng sau
phúc mạc, niệu quản còn mềm mại,sạn nằm
thấp,dùng trocar Versaport® 5-12mm đặt ở vò trí dưới
đầu sườn 12.

Chúng tôi không chủ trương đặt thông niệu
quản hệ thống hóa trước mổ như Dũng (13) vì thấy
phiền phức và không cần thiết (chỉ làm trong hai ca
đầu tiên). Khâu niệu quản sẽ dùng chỉ vicryl 4-0, mũi
rời, cột nơ trong cơ thể thấy không tốn thời gian

nhiều. Chính thì khâu niệu quản quyết đònh việc xì
dò nước tiểu sau mổ và thời gian nằm viện sau mổ vì
chúng tôi cho rút ống dẫn lưu mới cho bệnh nhân
xuất viện. Nếu có xì dò nước tiểu sau mổ cũng không
gây nhiều lo lắng vì ở vùng sau phúc mạc. Những ca
sau này vì thành thục hơn nên không có xì dò nước
tiểu nữa và bệnh nhân xuất viện sau mổ 2-3 ngày.
Chúng tôi không có kinh nghiệm “clip” hai đầu chỉ
của đường khâu vắt trên niệu quản như những ca sau

Coi chừng các yếu tố dễ dẫn đến chuyển mổ hở:
làm lủng phúc mạc lỗ lớn không bơm hơi được vùng
sau phúc mạc mà hơi thoát vào ổ bụng gây tác dụng
ngược, phạm mạch máu sinh dục gây chảy máu,
viêm dính quanh niệu quản nhiều tìm niệu quản khó
khăn, vỡ bong bóng bơm nước gây thấm nước mô và
chói quang trường.

Bảng 2: Kết quả phẫu thuật sạn niệu quản lưng qua nội soi hông lưng
Tác giả

Số Bong bóng tách, Số trocar/
Dao xẻ
Thông Khâu niệu Thời gian
BN
vò trí
Kiểu đặt niệu quản nòng
quản
mổ
Gaur,

21 Túi nước, 750ml, 3, / thẳng Dao lạnh Không
Không /
60 phút
1996 (18)
Dưới Gerota
hàng đường
endoclip trên
knife
mở thận
khâu vắt
Ballanger, - Túi nước, 600ml, 3 / tam giác Dao lạnh Có, đặt Vicryl, mũi
1999 (7)
Ngoài Gerota
endotrước mổ
rời
knife
Khánh,
7
Bao cao su,khí
3-4, thẳng Dao điện Không Vicryl 4-0,
140
2001 (23)
phút
trời, 800- 1000ml hàng đường (móc câu)
mũi rời
mởthận
Dũng,
14
Bao cao su,khí 3-4, tam giác
Có, đặt Vicryl 4-0, 121 phút

2002 (13)
trời, 800ml, ngoài
trước mổ mũi rời
Gerota
Loạt này, 36 Túi nước, 387ml, 3-4, theo Dao lạnh 3 / 32 đặt Vicryl 4-0, 105,4 phút
2003
ngoài Gerota /
đường nách (dao mổ trong mổ mũi rời
11)
Không

KẾT LUẬN
Việc bước đầu áp dụng kỹ thuật nội soi sau phúc
mạc vùng hông lưng cho phẫu thuật cắt chóp nang

Rút ống
dẫn lưu
10 ngày

Nằm viện
sau mổ
1 ngày

Đổi
mổ hở
3 / 21

-

-


-

2 ngày

4 ngày

-

2 ngày

5,26 ngày

-

5,2 ngày

5,5 ngày

4 / 36

thận và mở niệu quản đoạn trên lấy sạn của chúng tôi
đã đạt kết quả khá khích lệ và giúp mở ra triển vọng
đẩy mạnh kỹ thuật này cho các phẫu thuật niệu khoa

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

263



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
11.

khác.
Các ưu điểm tự thân của phương pháp nội soi
sau phúc mạc cũng cần nhắc lại ở đây: hợp sinh lý
hơn vì can thiệp niệu khoa chủ yếu ở vùng sau phúc
mạc,trường mổ quen thuộc với phẫu thuật viên niệu,
tránh các biến chứng tạng của nội soi qua phúc mạc,
biến chứng xì dò nước tiểu không đáng quan ngại.
Các yếu tố cần khắc phục: thời gian mổ kéo dài,
trường mổ tương đối hẹp, sự đòi hỏi tay nghề thuần
thục chính xác vì phạm vi thao tác khá khu trú.
Chúng tôi nhắm đến các phẫu thuật phức tạp hơn:
cắt thận, cắt tuyến thượng thận, tạo hình khúc nối bể
thận-niệu quản,...

12.

13.

14.
15.

16.

17.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Abbou C.C., Antiphon P., Hoznek A.: Rapport sur
l’activité de laparoscopie à l’A.F.U. La laparoscopie en
urologie. Progrès en urologie. Rapport du Congrès
1999 de l’A.F.U. Volume 9, No 5, Novembre 1999. pp
845-47.
2.
Abbou C.C., Doublet J.D., Gaston R., Guilloneau B.:
Les espaces de la chirurgie laparoscopique. La
laparoscopie en urologie. Progrès en urologie. Rapport
du Congrès 1999 de l’A.F.U. Volume 9, No 5,
Novembre 1999. pp 867-71.
3.
Abbou C.C.: Installation du patient, instruments, voies
d’abord. Laparoscopie. Chirurgie urologique. Masson Didactik édition multimedia, Novembre 2001.
Production Principes Actifs.
4.
Abbou C.C.: Kystes rénaux. Laparoscopie. Chirurgie
urologique. Masson - Didactik édition multimedia,
Novembre 2001. Production Principes Actifs.
5.
Hemal AK: Laparoscopic management of renal cystic
disease. Advanced urologic laparoscopy. Urologic
clinics of North America. Vol.28, No 1, Feb 2001, pp
115-26.
6.
Ballanger Ph., Chemasle C., Renger B.: Néphrectomie
gauche

par
lomboscopie.
Département
de
Communication audiovisuelle. Université de Bordeaux
II, 1995.
7.
Ballanger Ph.: Urétérotomie pour lithiase sous
lomboscopie.
Département
de
Communication
audiovisuelle. Université V. Segalen Bordeaux II,
1999.
8.
Barreto H., Doublet J.D., Peraldi M.N., Gategno B.,
Thibauld Ph. Chirurgie rénale par lomboscopie:
expérience initiale. Prog. Urol, 1995, 5, 384-389.
9.
Capelouto, C.C. Moore, Silverman S.G., Kavoussi L.R.:
Retro-peritoneoscopy: anatomical rationale for direct
retroperitoneal access. J. Urol. 1994;152:2008.
10. Chin AK. and Moll FH.: Balloon-assisted extraperitoneal sursergy. Retroperitoneoscopy. Isis Medical
Media, pp 104-118.

264

18.
19.
20.

21.

22.

23.

24.

25.

26.

27.

28.

Craig A. Peter, Louis R. Kavoussi: Laparoscopy in
children and adult. Campbell’s Urology, 7th Ed. 1998,
Vol.3, pp 2875-2991.
Denis E., Nicolas F., Ben Rais N., Cloix P. et coll.
Traitement coeliochirurgical des kystes simples du
rein. Progrès en urologie. 1998,8,195-200.
Đoàn Trí Dũng: Một số nhận xét về phẫu thuật mở
niệu quản lấy sỏi qua ngã nội soi sau phúc mạc. Y học
TP Hồ Chí Minh, tập 7, phụ bản của số 1, 2003,
trường Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh, tr12-15.
Gaur DD. Laparoscopic operative retroperitoneoscopy:
use of a new device. J. Urol., 148: 1137,1992.
Gaur
DD.:

Retroperitoneal
endoscopic
ureterolithotomy: Our experience in 12 patients. J.
Endourol 1993; 7:501.
Gaur
DD.,
Agarwal
D.K.,
Purohit
K.
C.:
Retroperitoneal laparoscopic ureterolithotomy and
renal biopsy. J Urol 1992; 2:149.
Gaur DD.: Retroperitoneoscopy. Urologic laparoscopic
surgery. McGraw-Hill Companies, Inc,1996, pp 17586.
Gaur DD.: Retroperitoneoscopy and ureteric surgery.
Retroperitoneoscopy. Isis Medical Media, pp 52-65.
Gaur DD.: Retroperitoneoscopy and nephrectomy.
Retroperitoneoscopy. Isis Medical Media, pp 37-51.
Gill IS., Grune M.T., Munch L.C.: Access technique for
retroperitoneoscopy. J. Urol., 156: 1120,1996.
Guazzoni G., Montorsi F., Bergamaschi F. et al.:
Laparoscopic unroofing of simple renal cyst. Urology,
1994,43,154-159.
Himpens
J
M.:
Video
endoscopy
of

the
retroperitoneum. Retroperitoneoscopy. Isis Medical
Media, pp 16-23.23.
Lê Đình Khánh, Phạm Như Hiệp, Dương Đăng Hỷ:
Phẫu thuật nội soi ổ bụng qua đường sau phúc mạc
điều trò sỏi niệu quản tại bệnh viện trung ương Huế. Y
học TP Hồ Chí Minh, phụ bản của tập 6, số 2, 2002,
trường Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh, trang 329332.
Nguyễn Hoàng Bắc, Đỗ Trọng Hải, Vũ Hồng Thònh:
phẫu thuật cắt vỏ nang thận đơn độc qua nội soi ổ
bụng tại bệnh nhân Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh.
Y học TP Hồ Chí Minh, tập 7, phụ bản của số 1, 2003,
trường Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh, trang 32-34.
Nguyễn Ngọc Tiến, Vũ Lê Chuyên, Nguyễn Văn Ân,
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Nguyễn Văn Hiệp: Bước
đầu áp dụng kỹ thuật cắt nang thận qua nội soi hông
lưng (Kystectomie rénale par lomboscopie). Y học TP
Hồ Chí Minh, tập 7, phụ bản của số 1, 2003, trường
Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh, tr 27-31.
Nguyễn Văn Hiệp và cộng sự: phẫu thuật cắt nang
thận qua nội soi ổ bụng. Y học TP Hồ Chí Minh, tập
6, phụ bản của số 2, 2002, trường Đại học Y dược TP
Hồ Chí Minh, tr 381-384.
Puttick
M.,
Nduka
CC.,
and
Darzi
AW.:

Retroperitoneoscopy:
history
and
background.
Retroperitoneoscopy. Isis Medical Media. PP 1-8.
Rassweiler JJ., Seemann O., Frede T., Henkel TO.,
Alken P.: Retroperitoneoscopy: experience with 200
cases. J. Urol. 1998; 160:1265.

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
29.

Redman JF.: Anatomy of the retroperitoneal
connective tissue. J. Urol.,130:43,1983.
30. Rubenstein SC., Hulbert JC., Pharand D., Schuessler
W.W., Vancaillie T.C., Kavoussi L.R.: Laparoscopic
ablation
of
symptomatic
renal
cyst.
J.Uro.,1993,150,1103-1106.
31. Vũ Lê Chuyên và cộng sự: Một số phẫu thuật niệu khoa
qua nội soi ổ bụng tại bệnh viện Bình Dân trong hai

Nghiên cứu Y học


năm 2001-2002. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 7, phụ
bản của số 1, 2003, trường Đại học Y dược TP Hồ Chí
Minh, tr 21-26.
32. Wurtz A.: L’endoscopie de l’espace rétropéritonéal:
Techniques, résultats et indications actuelles. Ann
Chir 43:475,1985.

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

265



×