Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Các tai biến và biến chứng sau cắt toàn bộ dạ dày trong điều trị ung thư dạ dày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.38 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

Nghiên cứu Y học 

CÁC TAI BIẾN VÀ BIẾN CHỨNG SAU CẮT TOÀN BỘ DẠ DÀY 
TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ DẠ DÀY 
Nguyễn Trọng Hảo*, Trần Thiện Trung** 

TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: xác định tỷ lệ tai biến, biến chứng và các yếu tố liên quan đến tai biến, biến chứng 
sau cắt toàn bộ dạ dày trong điều trị ung thư dạ dày. 
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh: các bệnh nhân được cắt toàn bộ dạ dày do ung thư biểu mô tuyến dạ dày, được mô tả 
giải phẫu bệnh đủ và theo dõi ít nhất 9 tháng sau phẫu thuật. 
Kết quả: 107 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến dạ dày được chọn vào nhóm nghiên cứu. Có 67,3% bệnh 
nhân vào viện vì đau bụng. 90,2% ung thư ở giai đoạn III, IV theo phân loại TNM. Ung thư biểu mô tuyến biệt 
hóa kém chiếm 79,4%. Tái lập lưu thông tiêu hóa theo Roux‐en Y là 62,6%. 
Kết luận: Tỷ lệ tai biến, biến chứng là 17,8%.  Các yếu tố liên quan đến tai biến, biến chứng gồm truyền 
máu, đặc biệt là biến chứng về hô hấp. Bệnh tim mạch kèm theo cũng có liên quan và cũng ảnh hưởng đến biến 
chứng về hô hấp sau phẫu thuật cắt toàn bộ dạ dày do ung thư. 
Từ khóa: ung thư dạ dày, cắt dạ dày. 

SUMMARY 
THE ACCIDENTS AND COMPLICATIONS AFTER TOTAL GASTRECTOMY 
IN THE TREATMENT OF GASTRIC CANCER 
Nguyen Trong Hao, Tran Thien Trung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 43 ‐ 50 
Purpose:  Determine  the  accident  and  complication  rates  and  the  factors  related  to  them  after  total 
gastrectomy in the treatment of gastric cancer. 
Methods: cross‐sectional study 
Selection criteria: The patients with total gastrectomy because adenocarcinoma gastric cancer, the samples 


were described histological sufficiently and at least 9 months follow‐up after operation. 
Results:  107  patients  of  adenocarcinoma  gastric  cancer  were  selected  in  this  study.  There  are  67.3%  of 
patients hospitalized because of abdominal pain. 90.2% at the of stage III, IV following TNM. Adenocarcinoma 
accounted for 79.4% poorly differentiated. The reconstruction of the digestive following Roux‐en Y 62.6%. 
Conclusion:  The  rate  of  accidents  and  complications  is  17.8%.  The  factors  related  to  accidents  and 
complications  including  blood  transfusion,  especially  respiratory  complications.  The  combination  of 
cardiovascular disease is also affects respiratory complications after total gastrectomy due stomach cancer.  
Keywords: gastric cancer, gastrectomy. 

* Bệnh viện đa khoa Tỉnh Tiền Giang 
** PGS TS BS Bộ môn Ngoại, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS CKII Nguyễn Trọng Hảo, ĐT: 0919181863‐ Email:  

44

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Ung  thư  dạ  dày  là  một  trong  những  bệnh 
ung thư thường gặp trên toàn thế giới(11,13,15), với 
ước  tính  khoảng  934,000  trường  hợp  ung  thư 
mới được phát hiện mỗi năm. Tỷ lệ tử vong của 
ung thư dạ dày đứng hàng thứ hai sau ung thư 
phổi  với  số  bệnh  nhân  tử  vong  lên  tới  700,000 
người  mỗi  năm(15).  Tỷ  lệ  mắc  bệnh  ung  thư  dạ 
dày  thay  đổi  tuỳ  theo  vùng,  miền  khác  nhau 
trên  thế  giới.  Bệnh  gặp  phổ  biến  ở  các  nước 
Đông Á, với tỷ lệ mắc bệnh cao nhất từ 75 đến 

100/100,000  dân  như  ở  Nhật  Bản,  Hàn  Quốc, 
Trung Quốc, ít hơn ở các nước Nam Mỹ, Đông 
Âu và thấp nhất 5/100,000 dân ở Mỹ và Tây Âu 
(15). Ở các nước đang phát triển, bệnh ung thư dạ 
dày thường gặp ở nam nhiều hơn nữ(3,19). Ở Việt 
Nam,  ung  thư  dạ  dày  là  bệnh  đứng  hàng  đầu 
trong các bệnh ung thư đường tiêu  hóa  (15)  và 
đứng hàng thứ 3 hoặc thứ 4 trong tất cả các bệnh 
ung  thư,  ước  tính  mỗi  năm  có  khoảng  15,000‐
20,000 người bị ung thư dạ dày(5).  
Liên quan đến giải phẫu bệnh, khoảng 90‐
95% các trường hợp ung thư dạ dày là ung thư 
biểu  mô  tuyến(10,13).  Tỷ  lệ  tử  vong  chịu  ảnh 
hưởng của một số yếu tố: xuất độ ung thư, giai 
đoạn bệnh lúc chẩn đoán, các yếu tố  sinh  học 
và đáp ứng cá nhân đối với các phương pháp 
điều trị(14).  
Về điều trị, phẫu thuật cắt dạ dày có thể có 
những biến chứng như chảy máu miệng nối, xì 
rò miệng nối, hẹp miệng nối, viêm tụy cấp, tổn 
thương  đường  mật…  Tỷ  lệ  biến  chứng  và  tử 
vong sau phẫu thuật cắt toàn bộ dạ dày do ung 
thư  thay  đổi  theo  thời  gian  nghiên  cứu  và  tùy 
theo  từng  tác  giả.  Các  yếu  tố  liên  quan  đến  tai 
biến, biến chứng sau cắt toàn bộ dạ dày do ung 
thư  có  thể  xảy  ra  ở  những  bệnh  nhân  có  các 
bệnh  kèm  theo,  truyền  máu,  và  tuỳ  theo  kỹ 
thuật tái lập lưu thông tiêu hóa…(19). 
Qua  theo  dõi  và  phân  tích  107  trường  hợp 
phẫu thuật cắt toàn bộ dạ dày điều trị ung thư. 

Trong bài viết này, chúng tôi muốn nêu lên các 
nhận xét về tỷ lệ tai biến, biến chứng và những 
yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến các tai biến biến 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Nghiên cứu Y học

chứng, nhằm rút ra các kinh nghiệm trong thực 
hành ngoại khoa. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu cắt ngang 
Trong  thời  gian  5  năm  từ  01/01/  2007  đến 
31/12/2011, tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành 
phố  Hồ  Chí  Minh.  Tất  cả  bệnh  nhân  được  cắt 
toàn bộ dạ dày được đưa vào nghiên cứu với các 
tiêu chuẩn 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Tất cả bệnh nhân được cắt toàn bộ dạ dày có 
kết quả giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến 
dạ dày. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
(1) Được cắt toàn bộ dạ dày ở cơ sở y tế hay 
bệnh  viện  khác  rồi  chuyển  đến  Bệnh  viện  Đại 
học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.  
(2) đã được cắt bán phần dạ dày trước đây, 
nay tái phát và có chỉ định cắt lại toàn bộ dạ dày 
điều trị ung thư. 


Các  tai  biến‐  biến  chứng  sau  phẫu  thuật 
được đánh giá gồm 
Chảy máu, xì, rò, hẹp, tắc miệng nối, áp xe 
trong ổ bụng, nhiễm trùng vết mổ… Các biến 
chứng khác về nội khoa như hô hấp, tim mạch, 
trào ngược thực quản… 
Phương pháp phân tích thống kê  
Sử  dụng  các  phép  kiểm  chi  bình  phương 
(χ2)  và  Fisher  exact  test,  để  đánh  giá  kết  quả 
nghiên  cứu  có  ý  nghĩa  thống  kê  khi  p  <  0,05 
bằng phần mềm SPSS (phiên bản 16.0, SPSS Inc, 
Ill) với khoảng tin cậy 95%. 

KẾT QUẢ 
Đặc điểm bệnh nhân 
Trên  107  bệnh  nhân  được  phẫu  thuật  cắt 
toàn bộ dạ dày do ung thư, tuổi trung là 54,2 ± 
11, nhỏ nhất 22, lớn nhất 77 tuổi. Nhóm tuổi mắc 
bệnh  cao  nhất  từ  40‐60  tuổi  có  61,7%  (66/107), 
tiếp theo là >60 tuổi có 30,8% (33/107), ít nhất là 
<40 tuổi có 7,5% (8/107). Bệnh có tỷ lệ mắc ở nam 

45


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013


cao  hơn  nữ,  tỷ  lệ  nam  là  57%  (61/107),  nữ  43% 
(46/107), tỷ lệ nam/nữ là 1,3. 

Đặc điểm phẫu thuật 
Bảng 1: Đặc điểm phẫu thuật 
Đặc điểm phẫu thuật

Số bệnh
nhân

Vị trí tổn thương ung thư (n=107)
1/3 trên
26
1/3 giữa
42
1/3 dưới
2
Gần toàn bộ hoặc toàn bộ dạ dày
37
Kích thước khối u (n=52) được mô tả
cm
6,49 ± 3,15
Kích thước khối u trung bình
Nhóm kích thước khối u <5cm
8
29
Nhóm kích thước khối u từ 5-7 cm
Nhóm kích thước khối u >7 cm
15
Tình trạng xâm lấn của ung thư (n=107)

24
Giai đoạn ung thư (n=71) được mô tả
3
Giai đoạn Ib
4
Giai đoạn II
8
Giai đoạn IIIa
21
Giai đoạn IIIb
35
Giai đoạn IV
Kỹ thuật tái lập lưu thông tiêu hóa
(n=107)
Roux-en Y
67
Omega
29
Khác (gồm NĐH…)
11
Tạng được cắt kèm theo (n=107)
Lách
9
Lách + phần tụy
4
Đại tràng
2
Buồng trứng
2
Hỗng tràng

1
Thời gian mổ (n=107)
phút
Thời gian mổ trung bình
246 ± 55
Nhóm <200 phút
18
Nhóm từ 200 đến 300 phút
76
Nhóm >300 phút
13
Truyền máu (n=107)
9

Tỷ lệ
%
24,3
39,3
1,9
34,6

15,4
55,8
28,8
22,4
4,2
5,6
11,3
29,6
49,3


Tai  biến,  biến  chứng  của  phẫu  thuật  cắt 
toàn bộ dạ dày 
Bảng 2: Các tai biến, biến chứng phẫu thuật cắt toàn 
bộ dạ dày 
Các tai biến, biến chứng
Tai biến chảy máu trong mổ
Các biến chứng nội khoa
- Tràn dịch màng phổi đơn thuần
- Tràn dịch màng phổi kèm thuyên tắc phổi
- Tràn dịch màng phổi kèm viêm phổi
- Viêm phổi
- Trào ngược thực quản
Các biến chứng ngoại khoa
- Tụ dịch dưới cơ hoành
- Tắc ruột
- Nhiễm trùng vết mổ
Tổng cộng

Số bệnh Tỷ lệ
nhân (%)
1
5,3
4
1
3
2
2

21,1

5,3
15,8
10,5
10,5

2
3
1
19

10,5
15,8
5,3
100

Nhận xét  
62,6
27,1
10,3
8,4
3,7
1,9
1,9
0,9
16,8
71
12,2
8,4

Nhận xét: Vị trí của ung thư dạ dày gặp chủ yếu ở 1/3 

trên, giữa hoặc gần toàn bộ dạ dày. Trên 52 trường hợp có 
mô tả kích thước khối u, gặp nhiều nhất ở nhóm có kích 
thước từ 5‐7 cm, kích thước trung bình 6,49 ± 3,15 cm.  

Giai đoạn ung thư  chủ  yếu  là  giai  đoạn  IV, 
trong đó có 22,4% trường hợp ung thư xâm lấn, 
và có 18/107 trường hợp được cắt tạng kèm theo 
và chủ yếu là cắt lách.  

46

Lập lại lưu thông tiêu hoá sau phẫu thuật cắt 
toàn  bộ  dạ  dày  chủ  yếu  theo  phương  pháp 
Roux‐en  Y  là  62,6%,  tiếp  theo  là  Omega  27,1%. 
Truyền máu trong 8,4% các trường hợp. 

Trong 107 trường hợp cắt toàn bộ dạ dày, tỷ 
lệ  tai  biến,  biến  chứng  là  17,8%  (19/107).  Trong 
số  này,  có  một  trường  hợp  biến  chứng  nặng 
(tràn dịch màng phổi + thuyên tắc phổi) xảy  ra 
vào  ngày  hậu  phẫu  thứ  3,  người  nhà  xin  về. 
Trường hợp này được coi là tử vong. 
Trong 19 trường hợp có một trường hợp tai 
biến chảy máu trong mổ do bóc tách khối u xâm 
lấn  dính  nhiều  vào  các  tạng  xung  quanh.  Các 
biến chứng về nội khoa chiếm tỷ lệ cao, trong đó 
chủ  yếu  là  biến  chứng  về  hô  hấp  (gồm  viêm 
phổi,  tràn  dịch  màng  phổi,  thuyên  tắc  phổi) 
10/19  trường  hợp.  Các  biến  chứng  ngoại  khoa 
khác gồm tụ dịch dưới cơ hoành, tắc ruột, nhiễm 

trùng vết mổ.  

Liên  quan  giữa  các  yếu  tố  nguy  cơ  và  tai 
biến, biến chứng chung 
Bảng 3: Các yếu tố nguy cơ và tai biến, biến chứng 
chung 
Các yếu tố nguy cơ và tai biến, biến chứng
Nhóm tuổi
Vị trí ung thư
Kích thước khối u

Giá trị p
0,92
0,40
0,72

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
Các yếu tố nguy cơ và tai biến, biến chứng
Giai đoạn ung thư
Cắt tạng kèm theo
Nạo hạch
Kỹ thuật tái lập lưu thông tiêu hóa
Thời gian mổ
Truyền máu

Giá trị p
0,44

0,19
0,44
0,61
0,95
0,008

Nhận  xét:  yếu  tố  truyền  máu  có  liên  quan 
đến tai biến, biến chứng với p=0,008. 
Bảng 4: Các yếu tố liên quan biến chứng hô hấp 
Các yếu tố liên quan biến chứng hô
hấp
Tiền sử, bệnh hô hấp kèm theo
Tiền sử, bệnh tim mạch kèm theo
Cắt tạng kèm theo
Truyền máu

Giá trị p
0,40
0,02
0,47
0,006

Nhận xét:  Tiền  sử,  bệnh  tim  mạch  kèm  theo 
và truyển máu có liên quan đến biến chứng hô 
hấp với p<0,05. 

Thời  gian  sống  thêm  sau  mổ  của  bệnh 
nhân  
Thời gian sống thêm
Số bệnh nhân

sau mổ (tháng)

Tỷ lệ (%)

<6 tháng
6-12 tháng
12-24 tháng
>24 tháng

7
14
25
6

13,5
26,9
48,1
11,5

Tổng cộng

52

100

Nhận xét: Trong 107 bệnh nhân được cắt toàn 
bộ  dạ  dày  điều  trị  ung  thư,  chúng  tôi  theo  dõi 
được  48,6%  (52/107)  trường  hợp  qua  thư  và 
/hoặc  điện  thoại  trong  thời  gian  trên  9  tháng. 
Trong  52  trường  hợp  theo  dõi  được  có  7  bệnh 

nhân  sống  thêm  được  <6  tháng,  14  bệnh  nhân 
sống thêm 6‐12 tháng, 25 bệnh nhân sống thêm 
12‐24 tháng, 6 bệnh nhân sống thêm > 24 tháng, 
trong  đó  có  15  bệnh  nhân  hiện  còn  đang  sống 
chiếm 28,8%. 

BÀN LUẬN 
Tỷ lệ biến chứng sớm và tỷ lệ tử vong sau 
mổ  
Thay  đổi  theo  thời  gian  và  theo  từng  tác 
giả.  Nếu  như  trước  đây  Finney  và  Reinhoff 
(1928) ghi nhận tỷ lệ tử vong lên đến 55,8% thì 
gần đây tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng 2% 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Nghiên cứu Y học

như  trong  báo  cáo  của  Federico  Bozzetti 
(1997)(6).  Một  số  tác  giả  trong  nước  tỷ  lệ  tai 
biến, biến chứng sau mổ cắt toàn bộ dạ dày từ 
8,7  đến  39,1%(4,5,6,7).  Trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi tỷ lệ tai biến, biến chứng sau mổ cắt 
toàn bộ dạ dày do ung thư là 17,8%.  
Tai biến, biến chứng sau phẫu thuật cắt toàn 
bộ  dạ  dày  được  ghi  nhận  gồm  biến  chứng  hô 
hấp (xẹp phổi, viêm phổi, tràn dịch màng phổi), 
rò,  hẹp  tắc  miệng  nối,  chảy  máu,  nhiễm  trùng 
vết  mổ,  tắc  ruột(5,6,7,9,12).  Nghiên  cứu  của  chúng 
tôi, các tai biến, biến chứng cũng xảy ra tương tự 

như các tác giả khác nhưng không gặp các biến 
chứng nặng như rò, hẹp tắc miệng nối.  
Biến  chứng  hô  hấp  theo  một  số  tác  giả  là 
biến  chứng  sớm  sau  phẫu  thuật  thường  gặp 
nhất  bao  gồm  xẹp  phổi,  viêm  phổi,  tràn  dịch 
màng  phổi(1,4,5,7,8).  Trong  đó,  xẹp  phổi  từ  12  đến 
20%,  tràn  dịch  màng  phổi  3,1%,  viêm  phổi 
khoảng 9%, suy hô hấp trung bình 3% và thuyên 
tắc phổi 0,05% và hầu hết các biến chứng ở phổi 
đều  được  cải  thiện  với  điều  trị  bảo  tồn  bằng 
thuốc, chọc hút, và/ hoặc dẫn lưu nếu thấy cần 
thiết. Tương tự như nhận xét của các tác giả trên, 
trên 107 bệnh nhân của chúng tôi có biến chứng 
hô  hấp  (gồm  tràn  dịch  màng  phổi,  viêm  phổi, 
thuyên  tắc  phổi)  là  9,3%  (10/107)  trường  hợp. 
Trong  đó,  tràn  dịch  màng  phổi  chiếm  tỷ  lệ  cao 
nhất.  Tất  cả  các  trường  hợp  đều  được  điều  trị 
bảo tồn và hầu hết bệnh đều ổn định và ra viện, 
đặc  biệt  chúng  tôi  ghi  nhận  có  01  trường  hợp 
bệnh nhân nữ 53 tuổi ung thư dạ dày vùng tâm 
vị,  có  bệnh  tăng  huyết  áp  kèm  theo,  được  cắt 
toàn bộ dạ dày nối hỗng tràng theo kiểu Rou‐en 
Y,  các  đặc  điểm  trước,  trong  phẫu  thuật  đều 
bình  thường.  Sau  mổ,  bệnh  nhân  đột  ngột  khó 
thở vào ngày hậu phẫu thứ  3, kết quả CT Scan 
tràn  dịch  màng  phổi,  thuyên  tắc  phổi  2  bên, 
bệnh  diễn  tiến  nặng  người  nhà  xin  về  (trường 
hợp này được xem là tử vong).  

Rò miệng nối thực quản‐hỗng tràng  

Là mối quan tâm nhất đối với các phẫu thuật 
viên, tỷ lệ rò trong y văn từ 10 đến 22%, dẫn đến 
nằm viện dài và tỷ lệ tử vong tăng(4). Rò miệng 

47


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

nối là biến chứng nguy hiểm và quan trọng nhất 
sau  cắt  toàn  bộ  dạ  dày  nối  thực  quản  ‐  hỗng 
tràng(2,9). Tỷ lệ tử vong của rò từ 35‐65% của tất 
cả các trường hợp chu phẫu(9). Hơn 90% trường 
hợp  xì  miệng  nối  liên  quan  đến  chỗ  nối  thực 
quản  ‐  hỗng  tràng.  Tuy  nhiên,  ở  những  vị  trí 
khâu, nối khác (theo kiểu Roux‐en‐Y) gồm mỏm 
tá tràng, chân hoặc túi chứa của hỗng tràng, và 
miệng  nối  hỗng  ‐  hỗng  tràng  cũng  có  thể  rò(9). 
Một  số  trường  hợp  rò  miệng  nối  có  thể  được 
phát hiện muộn hơn 3 ngày sau phẫu thuật. về 
điều trị, rò miệng nối với cung lượng lớn có thể 
phải  phẫu  thuật  lại  ngay,  trong  khi  rò  rỉ  nhỏ 
khác có thể được điều trị bảo tồn mà không cần 
phải can thiệp phẫu thuật lại(16).  
Theo  nghiên  cứu  của  một  số  tác  giả  trong 
nước  tỷ  lệ  rò  miệng  nối  từ  2,1%  đến  12%(5,6,7,8,9). 
Chúng tôi chỉ ghi nhận 2 trường hợp bệnh nhân 
tụ dịch dưới cơ hoành, nghi xì rò miệng nối thực 

quản‐hỗng  tràng.  Bệnh  nhân  được  điều  trị  bảo 
tồn ổn định.  

Nhiễm trùng vết mổ  
Được cho là có liên quan đến lượng protein 
máu,  nguy  cơ  rò  tiêu  hóa  sau  cắt  dạ  dày  do 
ung  thư  tăng  15  lần  ở  những  bệnh  nhân  có 
lượng  protein  máu  thấp(20).  Cegizhan(4),  không 
có liên quan giữa biến chứng sau mổ với lượng 
protid  trong  máu  trước  mổ,  tuy  nhiên  tác  giả 
cho  thấy  có  sự  liên  quan  giữa  lượng  albumin 
và biến chứng sau mổ, khi lượng albumin/máu 
≤3mg/dl thì nguy cơ xảy ra biến chứng sau mổ 
cao  gấp  3,31  lần.  Theo  Andreollo(1),  áp  xe  và 
nhiễm trùng vết mổ khoảng 3%. Biến chứng ít 
gặp khác là áp xe dưới cơ hoành 1%.  
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  lượng 
albumin  của  các  bệnh  hầu  hết  đều  trong  giới 
hạn bình thường, protein > 6mg/dl, albumin >3 
mg/dl,  có  thể  do  các  bệnh  nhân  được  điều 
chỉnh  trước  mổ.  Chúng  tôi  chỉ  ghi  nhận  có  1 
trường hợp nhiễm trùng vết mổ, 2 trường hợp 
có  tụ  dịch  dưới  cơ  hoành  nghi  rò  miệng  nối 
được điều trị bảo tồn ổn định. Các trường hợp 
này  không  liên  quan  đến  lượng  protein  hoặc 
albumin trước mổ. 

48

Chảy máu  

Có thể xảy ra trong khi phẫu thuật gây rách 
lách. Ngoài ra còn do chảy máu từ mạch máu và 
từ chỗ bóc tách, hoặc chảy máu miệng nối. Hầu 
hết các trường hợp đều được xử  trí ngay trong 
mổ, một số trường hợp cần phải mổ lại để cầm 
máu.  Khi  mổ  lại  có  thể  thấy  rõ  chỗ  chảy  máu 
nhưng  cũng  có  thể  không  thấy  nơi  chảy  máu 
mặc dù trong ổ bụng có máu loãng lẫn máu cục 
là do chỗ rỉ máu đã tự cầm. Theo nghiên cứu của 
các tác giả trong và ngoài nước, tỷ lệ chảy máu 
trong ổ bụng từ 3,4 đến 4,2%. Chúng tôi chỉ ghi 
nhận  một  trường  hợp  chảy  máu,  tỷ  lệ  0,9% 
(1/107), do bóc tách khối u to, xâm lấn lách, thân 
và  đuôi  tụy.  Tai  biến  chảy  máu  trong  mổ  của 
chúng tôi thấp hơn các tác giả khác, có thể do cơ 
sở phẫu thuật có nhiều kinh nghiệm trong phẫu 
thuật  cắt  toàn  bộ  dạ  dày  và  đây  cũng  là  biến 
chứng quan trọng có thể gây tử vong cho bệnh 
nhân nên được phẫu thuật viên rất quan tâm. 

Tắc ruột 
Chủ yếu là tắc ruột cơ học, có thể tắc miệng 
nối  nhưng  biến  chứng  này  hiếm  gặp.  Theo 
Levine(9),  biến  chứng  này  là  12%  (gồm  tắc  ruột 
non  và  tắc  miệng  nối).  Trong  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  có  2,8%  (3/107)  tắc  ruột  sau  mổ,  hai 
trường hợp là tắc ruột cơ năng (do liệt ruột) xảy 
ra vào ngày 9 đến ngày 20 sau phẫu thuật, cả 2 
trường  hợp  này  đều  được  điều  trị  nội  khoa  ổn 
định, và 1 trường hợp tắc ruột do ung thư di căn 

xảy ra sau phẫu thuật 12 tháng. Nhìn chung, tỷ 
lệ  biến  chứng  tắc  ruột  của  chúng  tôi  thấp  hơn 
các tác giả khác có thể do bệnh nhân chúng tôi 
theo dõi còn thấp chỉ đạt 48,6%. 

Biến chứng trào ngược thực quản  
Xảy  ra  là  do  không  còn  cơ  thắt  tại  chỗ  nối 
thực  quản‐hỗng  tràng.  Trong  một  số  báo  cáo, 
viêm  thực  quản  được  tìm  thấy  trong  25‐90%  ở 
những bệnh nhân với vòng nối thực quản hỗng 
tràng đơn giản(9), nhưng chỉ 2‐10% với  kiểu  nối 
thực quản‐hỗng tràng theo Roux‐en Y(17). Chúng 
tôi  chỉ  có  1,9%  (2/107)  bệnh  nhân  trào  ngược 
thực  quản,  tỷ  lệ  này  cũng  phù  hợp  với  các  tác 
giả  nêu  trên.  Tuy  nhiên  tỷ  lệ  này  có  thể  sẽ  cao 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 

Nghiên cứu Y học

hơn  do  số  lượng  bệnh  nhân  được  theo  dõi  còn 
thấp 48,6% (52/107), mặt khác bệnh nhân trên đã 
mất nhiều (71,1%) tại thời điểm nghiên cứu nên 
không biết được thông tin biến chứng này. 

thấy trong mỗi phân nhóm thời gian sống thêm 
của bệnh nhân tùy thuộc vào số hạch khảo sát. 

Chúng  tôi  không  tìm  thấy  mối  liên  quan  giữa 
nạo hạch và tai biến, biến chứng. 

Liên  quan  giữa  các  yếu  tố  nguy  cơ  và  tai 
biến, biến chứng  

Hầu hết các phẫu thuật viên thực hiện kiểu 
nối Roux‐en Y đặt miệng nối hỗng ‐ hỗng tràng 
xa khoảng 40 cm để ngăn chặn trào ngược dịch 
mật  và  dịch  tụy  vào  thực  quản(2).  Các  tác  giả 
cũng đã nhấn mạnh việc lập lại đường tiêu hoá 
theo  Roux‐en‐Y  làm  giảm  nguy  cơ  viêm  thực 
quản hoặc hẹp nhưng không loại bỏ  hoàn  toàn 
biến  chứng  này(17).  Chúng  tôi  không  tìm  thấy 
mối liên quan này.  

 Các  yếu  tố  nguy  cơ  ảnh  hưởng  đến  các  tai 
biến  và  biến  chứng  sau  phẫu  thuật  được  đánh 
giá nhiều nhất trong y văn là tuổi và giới. Tuổi 
lớn (65‐70 tuổi) và nam là các yếu tố độc lập ảnh 
hưởng  đến  tiên  lượng(5).  Tuy  nhiên,  chúng  tôi 
không tìm thấy mối liên quan giữa tuổi, giới và 
tai  biến,  biến  chứng  sau  cắt  toàn  bộ  dạ  dày  do 
ung thư. 
Tiền  sử  và  bệnh  đi  kèm  là  một  yếu  tố  tiên 
lượng quan trọng(20). Hầu hết y văn ghi nhận tiền 
sử bệnh hô hấp có ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong. 
Có nhiều tác giả đề nghị đo lưu lượng khí thở ra 
tối đa trước mổ ở những bệnh nhân cao tuổi, và 
Pa O2 trước mổ là quan trọng trong việc phòng 

ngừa  các  biến  chứng  ở  phổi  sau  phẫu  thuật(2). 
Chúng  tôi  không  tìm  thấy  mối  liên  hệ  của  tiền 
sử và bệnh kèm theo với tai biến, biến chứng cắt 
toàn bộ dạ dày do ung thư. Moriguchi, cho thấy 
yếu  tố  liên  quan  tai  biến,  biến  chứng  của  đặc 
điểm khối u như: kích thước, độ xâm lấn, và tình 
trạng di căn hạch(4). Tuy nhiên chúng tôi không 
tìm thấy mối liên quan này trong nghiên cứu.  
Cho tới nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau 
về  việc  cắt  bỏ  kèm  theo  các  tạng  lân  cận  như 
lách, tụy, đại tràng ngang, gan trái… khi bị ung 
thư xâm lấn, di căn hoặc khi có nhu cầu nạo vét 
hạch rộng rãi để đảm bảo tính triệt để của phẫu 
thuật. Hiện nay y văn khuyến cáo việc cắt bỏ các 
tạng  lân  cận  trên  những  bệnh  nhân  rất  chọn 
lọc(2). Trong nghiên cứu của chúng tôi không tìm 
thấy  mối  liên  quan  giữa  cắt  tạng  kèm  theo  với 
tai biến, biến chứng. 
Về nạo hạch tận gốc, phân loại của Hiệp hội 
chống ung thư Quốc tế và Hoa Kỳ (IUAC/AJCC) 
khuyến cáo rằng ít nhất phải khảo sát ít nhất 15 
hạch  mới  đánh  giá  đúng  tình  trạng  N(6).  Theo 
Smith(19), liên hệ giữa số hạch khảo sát sau cắt dạ 
dày và thời gian sống thêm của bệnh nhân cho 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Một số nghiên cứu cho rằng mất máu là một 
yếu tố nguy cơ quan trọng ảnh hưởng đến biến 
chứng  và  tiên  lượng  sau  phẫu  thuật.  Theo 

Cengizha(4),  trong  phẫu  thuật  mở  rộng  để  nạo 
hạch hoặc cắt các tạng lân cận kèm theo có khả 
năng mất máu nhiều hơn, do đó nhu cầu truyền 
máu  có  thể  nhiều  hơn  và  thời  gian  phẫu  thuật 
lâu  hơn.  Ngoài  ra,  tỷ  lệ  ung  thư  tái  phát  cao  ở 
những bệnh nhân được truyền máu đã được tìm 
thấy trong nhiều báo cáo. Trong nghiên cứu của 
chúng  tôi  nhận  thấy  có  mối  liên  quan  giữa 
truyền  máu  và  tai  biến,  biến  chứng  có  ý  nghĩa 
với  p<0,05.  Thời  gian  phẫu  thuật  kéo  dài(4),  và 
truyền  máu  đã  được  báo  cáo  làm  tăng  tỷ  lệ  tai 
biến, biến chứng(8). Tuy nhiên, chúng tôi không 
tìm thấy mối liên quan trên.  

Thời gian sống thêm  
Của  bệnh  nhân  còn  tùy  vào  mức  độ  phẫu 
thuật, vị trí ung thư, loại phẫu thuật cắt dạ dày 
được thực hiện, có hay không việc cắt toàn bộ dạ 
dày, cắt gần toàn bộ hay cắt dạ dày mở rộng. Ở 
những bệnh nhân ung thư dạ dày đoạn xa, tỷ lệ 
sống 5 năm là 34% sau cắt toàn bộ dạ dày so với 
26% sau cắt gần toàn bộ dạ dày và 21% sau cắt 
dạ dày mở rộng. Đối với ung thư  dạ dày  đoạn 
1/3 giữa, tỷ lệ sống 5 năm là 38% sau khi cắt gần 
toàn  bộ  dạ  dày  so  với  31%  sau  cắt  toàn  bộ  dạ 
dày và 25% nếu cắt dạ dày mở rộng. Trong ung 
thư dạ dày đoạn 1/3 trên, hoặc ung thư gần toàn 
bộ  dạ  dày  không  có  sự  khác  biệt  về  loại  phẫu 
thuật.  Theo  Kotan(8)  thời  gian  sống  thêm  trung 


49


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013

bình là 12,8 ± 0,8 tháng đối với tất cả bệnh nhân. 
Ở giai đoạn IIIa là 18,16 ± 2,04 tháng, giai đoạn 
IIIb là 13,37 ± 0,79 tháng, và giai đoạn IV là 7,51 ± 
0,97  tháng.  Tác  giả  khuyên  rằng,  những  bệnh 
nhân  có  tình  trạng  chung  kém,  và/hoặc  có  liên 
quan  đến  những  vấn  đề  phẫu  thuật  nên  được 
quản lý chăm sóc nhiều hơn, đặc biệt chú ý giải 
quyết những vấn đề nhằm giảm thiểu mất máu 
và truyền máu đối với những trường hợp này(4). 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  đã  theo  dõi 
được 48,6% (52/107) bệnh nhân qua thư và điện 
thoại, có 13,5% bệnh nhân sống thêm <6 tháng, 
26,9%  bệnh  nhân  sống  thêm  6‐12  tháng,  48,1% 
bệnh  nhân  sống  thêm  12‐24  tháng,11,5%  bệnh 
nhân sống thêm >24 tháng. Trong đó, có 15 bệnh 
nhân hiện còn đang sống chiếm 28,8%.  

mất tính đến thời điểm theo dõi là 71,2% (37/52) 
so với sống còn là 28,8%.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.


2.

3.

4.

5.

6.

KẾT LUẬN 
Tỷ  lệ  tai  biến,  biến  chứng  là  17,8%  (19/107) 
gồm: tai biến chảy máu trong mổ xảy ra do bóc 
tách khối u to, xâm lấn vào các tạng lân cận. Các 
biến  chứng  nội  khoa:  tràn  dịch  màng  phổi  đơn 
thuần,  tràn  dịch  màng  phổi  kèm  thuyên  tắc 
phổi, tràn dịch màng phổi kèm viêm phổi, viêm 
phổi, và trào ngược thực quản xảy ra sau phẫu 
thuật  từ  1  đến  2  tháng.  Các  biến  chứng  ngoại 
khoa:  tụ  dịch  dưới  cơ  hoành,  tắc  ruột,  nhiễm 
trùng vết mổ. Các tai biến, biến chứng khác sau 
cắt toàn bộ dạ dày do ung thư đã được y văn ghi 
nhận  trước  đây  như  bục,  xì  miệng  nối  thực 
quản‐hỗng  tràng,  bục  mỏm  tá  tràng,  chảy  máu 
sau  mổ,  áp  xe  tồn  lưu,  rò  tụy…không  tìm  thấy 
trong nghiên cứu của chúng tôi. 
Các  yếu  tố  như  tuổi,  giới,  thời  gian  phẫu 
thuật,  phương  pháp  tái  lập  lưu  thông  tiêu  hóa, 
cắt tạng kèm theo, lượng albumin thấp… không 
có liên quan đến tai biến, biến chứng. Các yếu tố 

liên quan gồm truyền máu, bệnh tim mạch kèm 
theo hô hấp sau phẫu thuật cắt toàn bộ dạ dày 
do ung thư. 
Qua theo dõi 48,6% (52/107)  bệnh  nhân  sau 
mổ  cắt  toàn  bộ  dạ  dày  do  ung  thư,  thời  gian 
sống  thêm  trung  bình  là  14,4  ±  8,6  tháng  (thấp 
nhất 3 tháng, cao nhất 36 tháng). Bệnh nhân đã 

50

7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.

14.

15.
16.

17.


18.

Andreollo  NA,  Lopes  LR  (2011),  “Postoperative 
complications  after  total  gastrectomy  in  the  gastric  cancer. 
Analysis  of  300  patients”,  Arquivos  Brasileiros  de  Cirurgia 
Digestiva, Vol 24, No 2. 
Budisin N, Majdevac I, Breberina M, Guduric B (2000), “Total 
gastrectomy  and  its  early  postoperative  complications  in 
gastric cancer”, Arch Oncol, Vol 8, No 3, 91‐94. 
Catalano  V,  Labianca  R,  Giordano  DB,  Gatta  G,  Braud  FD, 
Cutsem  EV  (2005),  “Gastric  cancer”,  Critical  Reviews  in 
Oncology Hematology, Elsevier, 218–221.  
Cengizha Y, Bulent G, Taner Y, et al (2003), “Risk factors for 
early  complications  following  total  gastrectomy  for  gastric 
cancers”, Gulhane tip dergisi, Vol 45, No 2, 182‐183. 
Đinh Quang Tâm (2010), “Phân tích 58 trường hợp cắt dạ dày 
toàn phần”, Y học Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 14, Phụ bản 
số 4, 251‐259. 
Hồ Cao Vũ (2009), “Biến chứng sớm của phẫu thuật cắt toàn 
bộ dạ dày do ung thư”, Luận văn Thạc sĩ Y  học,  Đại  học  Y 
Dược Thành phố Hồ Chí Minh, 1‐80. 
Hồ Hữu An, Triệu Thiều Dương, Nguyễn Văn Xuyên (2011), 
“Mổ nội soi cắt rộng dạ dày vét hạch D2 điều trị ung thư dạ 
dày  tại  khoa  ngoại  Bệnh  viện  TWQĐ  108”  Tạp  chí  Y  Dược 
học Quân sự số chuyên đề ngoại bụng, 62‐67. 
Kotan C, Kisli E, Sonmez R, Cikman R, Arslan M, Arslanturk 
H,  Soylemez  O,  Bas  M  (2005),  “Noncurative  Total 
Gastrectomy  and  Country  with  High  Incidence”,  Acta  Chir 
Belg, Vol 105, 519‐522. 

Levine  MS,  Adam  R.F,  Stephen  ER,  Laufer  I,  Herlinger  H, 
Ernest  F.  Rosato  EF  (1991),  “Complications  after  total 
gastrectomy  and  esophagojejunostomy:  radiologic  anh 
evaluation”, American Roentgen Ray Society, 1189‐1194.  
Nguyễn Minh Hải (2004), “Nghiên cứu tình trạng xâm lấn và 
di căn hạch của ung thư dạ dày”, Luận án Tiến sĩ y học, Đại 
học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, 1‐ 107. 
Nguyễn Đình Hối, Bùi Văn Ninh, Nguyễn Hoàng Bắc (2004), 
“Lập lại lưu thông sau cắt dạ dày toàn bộ”, Y học Thành phố 
Hồ Chí Minh, Tập 8, Phụ bản số 3, 124‐127. 
Nguyễn Văn Hiếu (2006), “Kết quả cắt dạ dày toàn bộ của 55 
bệnh  nhân  ung  thư  dạ  dày  tại  Bệnh  viện  K  từ  4/1998‐
10/2004”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, Tập 42, Số 3, 43‐46. 
Nguyễn Ngọc Hùng, Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Văn Binh 
(2007), “Phân loại mô bệnh học ung thư dạ dày”, Y học Thành 
phố Hồ Chí Minh, Tập 11, Số 3, 57‐60. 
Nguyễn  Triển  (2011),  “Ung  thư  dạ  dày,  nhiễm  Helicobacter 
pylori và các yếu tố nguy cơ khác”, Y học thực hành, Số 60, 3‐
7. 
Parkin  DM,  Bray  F,  Ferlay  J,  Pisani  P  (2005),  “Global  cancer 
statistics, 2002”, CA Cancer J Clin, Vol 55, 74‐108. 
Saano  I,  Schroeder  T,  Toippanen  EM,  Lempinen  M  (1986), 
“Total  gastrectomy  with  esophagojejunostomy:  analysis  of 
100 consecutive patients”, Ann J Surg, Vol 151, 244‐246 
Salo JA, Kivilaakso E (1990), “Failure of long limb Roux‐en‐Y 
reconstruction  to  prevent  alkaline  reflux  esophagitis  after 
total gastrectomy”. Endoscopy, Vol 22, 65‐67. 
Shukla  BP,  et  al  (2010),  “Guidelines  for  management  of 
stomach cancer”, 4‐17.  


Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 
19.

20.

Smith DD, Schwarz R R, Schwarz RE (2005), “Impact of total 
lymph node count on staging and survival after gastrectomy 
for gastric cancer: data from a large US‐population database”, 
J Clin Oncol, Vol 23, No 28, 7114‐7124. 
Viste  A,  Trond  H,  Gier  E,  et  al  (1988),  “Postoperative 
complication  and  motality  after  surgery  for  gastric  cancer”, 
Ann Surg, Vol 207, 7‐13. 
 

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Nghiên cứu Y học

 

Ngày nhận bài 
 
 
Ngày phản biện nhận xét bài báo 
Ngày bài báo được đăng:   

 27/07/2013. 

 04/09/2013. 
18/10/2013 

 

51



×