Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Khảo sát các hình thái tổn thương cơ trực dưới sau chấn thương gãy sàn hốc mắt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.84 KB, 10 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

KHẢO SÁT CÁC HÌNH THÁI TỔN THƯƠNG CƠ TRỰC DƯỚI
SAU CHẤN THƯƠNG GÃY SÀN HỐC MẮT
Trần Kế Tổ*, Lê Minh Thông*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ các hình thái tổn thương cơ trực dưới sau chấn thương gãy sàn hốc mắt và mối
tương quan giữa tổn thương cơ với đặc điểm lỗ gãy, dịch tễ và biểu hiện lâm sàng.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có can thiệp, thực hiện trên 60 trường hợp gãy sàn có biểu hiện
tổn thương cơ trực dưới.
Kết quả: 71,7% gãy sàn theo kiểu gián tiếp, 93,3% có bề ngang lỗ gãy ≥10mm, 93,3% có chiều dài ≥20mm,
và 78,3% có độ trũng ≥10mm. Kích thước trung bình của lỗ gãy là 16,2x28,8x13,6mm với diện tích trung bình
là 372mm2, và thể tích trung bình là 3531mm3. Đặc điểm về rối loạn vận nhãn bao gồm chỉnh thị chiếm 83,4%,
lé đứng lên chiếm 10,0% và lé đứng xuống chiếm 6,6%. Hạn chế vận nhãn lên chiếm tỷ lệ 86,7% với mức độ
hạn chế trung bình là -2,2 độ, hạn chế vận nhãn xuống chiếm 40,0% với mức độ hạn chế trung bình là -0,8 độ.
Tỷ lệ các hình thái tổn thương cơ trực dưới qua bao gồm xơ dính bao cơ chiếm 58,3%, rách thân cơ chiếm 31,7%,
kẹt cơ vào lỗ gãy chiếm 6,7%, và đứt rời cơ chiếm 3,3%. Tổn thương kẹt cơ vào lỗ gãy chỉ gặp ở các lỗ gãy có bề
ngang dưới 10mm với biểu hiện lâm sàng đặc trưng là lé đứng xuống và thử nghiệm kéo cơ lên trên dương tính.
Tổn thương xơ dính bao cơ chỉ có biểu hiện hạn chế vận nhãn lên, trong khi mắt vẫn chỉnh thị và vận nhãn
xuống bình thường. Tổn thương rách thân cơ thường có hạn chế vận nhãn xuống không hoàn toàn và mắt lé
đứng lên hoặc chỉnh thị. Tổn thương đứt rời cơ có đặc điểm lâm sàng là lé đứng lên và vận nhãn lên bình
thường.
Kết luận: Các hình thái tổn thương cơ trực dưới sau chấn thương gãy sàn hốc mắt bao gồm xơ dính bao cơ,
rách thân cơ, đứt rời cơ và kẹt cơ vào lỗ gãy. Các hình thái này có thể chẩn đoán được trước mổ qua các đặc điểm
về lé đứng, thử nghiệm kéo cơ và rối loạn vận nhãn.
Từ khoá: cơ trực dưới, gãy sàn hốc mắt, rối loạn vận nhãn, lé đứng.

ABSTRACT


CHARACTERS OF INJURED INFERIOR RECTUS MUSCLE IN ORBITAL FLOOR FRACTURES
Tran Ke To, Le Minh Thong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 122 - 131
Purpose: To asses a propotion of injured inferior rectus muscle in orbital floor fractures and a relation with
size of floor fractures, epidemiology and clinical manifestations.
Method: A descriptive prospective study of clinical features and their relationship with the appearances of
injured inferior rectus muscle in 90 cases of orbital foor fracture with injury of inferior rectus muscle.
Results: indirect floor fractures reached to 71.7%, average dimension of the fractures was
16.2x28.8x13.6mm, average area was 372mm2, and average volume was 3531mm3. 93.3% of floor fractures had a
width over than 10mm, 93.3% of cases had a length over than 20mm, and 78.3% of cases had a height over than
10mm. Clinical features of the eye movement included orthophoria in 83.4%, up- deviation in 10.0%, downdeviation in 6.6%, upgaze restriction in 86.7% with an average degree being -2.2 and downgaze restriction in
40.0% with an average degree being -0.8. Features of the appareance of injured inferior muscle included the
muscle capsule adherence to surrounding orbital tissue in 58.3%, a tear of the muscle in 31.7%, the muscle
*Bộ Môn Mắt, ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Trần Kế TổĐT: 0908453685

122

Email:

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

entrapment to a floor fracture in 6.7%, a break of the muscle in 3.3%. The muscle entrapment which appeared
only in the fractures with a width less than 10mm had down-deviation and positive forced duction test as
characteristic clinical features. The muscle capsule adherence had upgaze restriction, orthophoria and normal
downgaze movement. A muscle tear had partial downgaze restriction, and up-deviation or orthophoria. The

muscle break had total downgaze restriction and up-deviation.
Conclusion: 4 types of injured inferior muscle which were the muscle capsule adherence to surrounding
orbital tissue, the muscle tear, the muscle entrapment and the muscle break could be defined before the surgery by
vertical deviation, forced duction test and types of ocular movement restriction.
Keywords: inferior rectus muscle, orbital floor fracture, ocular movement disorder, vertical deviation.
trực dưới hoặc có chống chỉ định phẫu thuật
ĐẶT VẤN ĐỀ
hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu.

Sàn hốc mắt có cấu tạo bởi những lớp
xương mỏng giữa mô hốc mắt với xoang hàm

Phương pháp tiến hành

nên dễ bị gãy vỡ khi xảy ra chấn thương vùng
đầu mặt. Gãy sàn hốc mắt sau chấn thương
thường gây ảnh hưởng nặng nề về mặt thẩm
mỹ qua biểu hiện mắt thụt, mắt thấp và gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng thị
giác hai mắt qua biểu hiện song thị, lé đứng và
rối loạn vận nhãn. Do vị trí giải phẫu nằm dọc
theo sàn hốc mắt nên cơ trực dưới có thể bị tổn
thương khi có vỡ sàn. Nghiên cứu về các hình
thái tổn thương cơ trực dưới sau chấn thương
gãy sàn hốc mắt và mối tương quan với các
đặc điểm lâm sàng nhằm giúp chẩn đoán tình
trạng cơ trước khi tiến hành phẫu thuật lót sàn
hốc mắt.

Ghi nhận các biến số nghiên cứu bao gồm

đặc điểm lỗ gãy sàn hốc mắt (kiểu gãy, kích
thước trung bình), tình trạng lé đứng (chỉnh
thị, lé đứng lên, lé đứng xuống), mức độ vận
nhãn lên xuống (Độ 0 khi hoạt trường cơ
100%, độ 1 khi hoạt trường cơ ≥75%, độ 2 khi
hoạt trường cơ ≥50%, độ 3 khi hoạt trường
≥25% và độ 4 khi hoạt trường <25%) và tình
trạng cơ trực dưới khi phẫu thuật thám sát.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đặc điểm dịch tễ

Nghiên cứu được thực hiện theo thiết kế tiến
cứu cắt ngang mô tả có phân tích.

Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ của các bệnh nhân

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các trường hợp gãy sàn hốc mắt sau chấn
thương có biểu hiện song thị hoặc lé đứng kết
hợp hạn chế vận nhãn xuống và hoặc hạn chế
vận nhãn lên với thử nghiệm kéo cơ lên trên

Phân tích thống kê
Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 với mức ý
nghĩa thống kê p<0,05.

KẾT QUẢ


Giới tính
Nguyên
nhân
Nơi cư trú

dương tính đến khám và điều trị tại khoa thần
kinh nhãn khoa bệnh viện Mắt Thành phố Hồ

Tuổi

chí minh từ 4/2007 đến 10/2008.

Tiêu chuẩn loại trừ
Các trường hợp có liệt dây thần kinh vận
nhãn hoặc tổn thương các cơ khác không phải cơ

Mắt

Nhập viện

Nam
Nữ
TNGT
Đánh nhau
Tai nạn sinh hoạt
HCM
Tỉnh thành khác
6-17 tuổi
18-60 tuổi
61-65 tuổi

Trung bình
Trước ½ tháng
Sau ½ tháng
Trung bình

T số
45
15
50
6
4
20
4
6
53
1
11
49

%
75%
25%
83,3%
10%
6,7%
33,3%
6,7%
10%
88,3%
1,7%


28±11
18,3%
81,7%

p
0,001
0,001
0,001
0,001

0,001

2,8±5,3

123


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

Đặc điểm về lỗ gãy sàn hốc mắt
Bảng 2: Đặc điểm về lỗ gãy sàn hốc mắt
Gãy đơn thuần
Gãy phối hợp
Gián tiếp
Trực tiếp
<10mm


Kiểu gãy
sàn

Bề ngang

≥10mm
<20mm

Chiều dài

≥20mm
<10mm

Độ trũng

≥10mm
Bề ngang

Kích thước
trung bình

Tsố
27
33
49
11
4
56
4
56

13
47

%
45,0%
55,0%
71,7%
18,3%
6,7%
93,3%
6,7%
93,3%
21,7%
78,3%

p
0,750
0,001

Bề ngang
Chiều dài
Độ trũng

0,001
Lé đứng
0,001
0,001

HCVN
lên


16,2±3,5

Chiều dài

28,8±4,0

Độ trũng

13,6±5,8

HCVN
xuống

Diện tích

372±107

Thể tích

3531±1984

<10mm
≥10mm
<20mm
≥20mm
<10mm
≥10mm
Không lé
Lé đứng lên

Lé đứng xuống
Độ 0
Độ 1-3
Độ 4
Độ 0
Độ 1-3
Độ 4

Bảng 3: Đặc điểm về lé đứng và vận nhãn

Lé đứng
HCVN
lên
HCVN
xuống

Không lé
Lé đứng lên
Lé đứng xuống
Độ 0
Độ 1 – 3
Độ 4
Độ 0
Độ 1 – 3
Độ 4

%
83,4%
10,0%
6,6%

13,3%
86,7%
0%
60,0%
36,7%
3,3%

p
0,001

0,001

Kiểu gãy
sàn

Bề ngang
Chiều dài

0,197

Tỷ lệ hình thái tổn thương cơ trực dưới:

Độ trũng

Lé đứng

Bảng 4: Tỷ lệ hình thái tổn thương cơ trực dưới
Xơ dính bao cơ
Rách thân cơ
Kẹt cơ lỗ gãy

Đứt rời thân cơ

Tsố
35
19
4
2

%
58,3%
31,7%
6,7%
3,3%

p

HCVN
xuống

Bảng 5: Tương quan giữa xơ dính bao cơ trực dưới
với đặc điểm lỗ gãy, lé đứng và HCVN

Kiểu gãy
sàn

124

Gãy đơn thuần
Gãy phối hợp
Gãy gián tiếp

Gãy trực tiếp

HCVN
lên

0.001

Tương quan giữa hình thái tổn thương cơ
với đặc điểm lỗ gãy, lé đứng và HCVN

Xơ dính bao cơ
Không

13
14
12
21
20
29
5
6

p-χ2
0,026
0,557
0,758

0,001

0,001


0,001

Bảng 6: Tương quan giữa rách thân cơ trực dưới với
đặc điểm lỗ gãy sàn, lé đứng và HCVN

Đặc điểm về lé đứng và vận nhãn
Tsố
50
6
4
8
52
0
36
22
2

Xơ dính bao cơ
Không

4
0
21
35
2
2
23
33
6

7
19
28
15
35
6
0
4
0
8
0
17
35
0
0
1
35
22
0
2
0

Gãy đơn thuần
Gãy phối hợp
Gãy gián tiếp
Gãy trực tiếp
<10mm
≥10mm
<20mm
≥20mm

<10mm
≥10mm
Không lé
Lé đứng lên
Lé đứng xuống
Độ 0
Độ 1 – 3
Độ 4
Độ 0
Độ 1-3
Độ 4

Rách thân cơ
Không

19
8
22
11
33
16
8
3
4
0
37
19
3
1
38

18
9
4
32
15
35
15
2
4
4
0
2
6
39
13
0
0
36
0
3
19
2
0

p-χ2
0,788
0,729
0,297
0,767
0,937


0,045

0,010

0,001

Bảng 7: Tương quan giữa kẹt cơ trực dưới vào lỗ gãy
với đặc điểm lỗ gãy sàn, lé đứng và HCVN.

p-χ2
0,434

Kiểu gãy
sàn

0,778

Bề ngang

Gãy đơn thuần
Gãy phối hợp
Gãy gián tiếp
Gãy trực tiếp
<10mm
≥10mm

Kẹt cơ lỗ gãy
Không


23
4
33
0
46
3
10
1
0
4
56
0

p-χ2
0,063
0,556
0,001

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Chiều dài
Độ trũng

Lé đứng

HCVN
lên

HCVN
xuống

<20mm
≥20mm
<10mm
≥10mm
Không lé
Lé đứng lên
Lé đứng xuống
Độ 0
Độ 1 – 3
Độ 4
Độ 0
Độ 1-3
Độ 4

Kẹt cơ lỗ gãy
Không

3
1
53
3
9
2
47
2
50
0

6
0
0
4
8
0
48
4
0
0
35
1
19
3
2
0

p-χ2
0,247
0,458

0,001

Kiểu gãy
sàn

Bề ngang
Chiều dài
Độ trũng


Lé đứng

HCVN
lên

HCVN
xuống

Gãy đơn thuần
Gãy phối hợp
Gãy gián tiếp
Gãy trực tiếp
<10mm
≥10mm
<20mm
≥20mm
<10mm
≥10mm
Không lé
Lé đứng lên
Lé đứng xuống
Độ 0
Độ 1 – 3
Độ 4
Trung bình
Độ 0
Độ 1 – 3
Độ 4
Trung bình


2,2±1,1
36
0
22
0
0
2

0,555

Chấn thương do tai nạn giao thông chiếm
đa số với tỷ lệ 83,3%. Kết quả này tương

0,292

p-χ2
0,063
0,556
0,001

đương với các nghiên cứu khác trong nước
như Trần Đình Lập, Dương Anh Quân năm
2006(31) là 91,3%, Trịnh Xuân Trang năm 2006(32)
là 78%. Trong khi đó, nguyên nhân gãy thành
hốc mắt chiếm tỷ lệ cao nhất ở nước ngoài là
do tai nạn sinh hoạt theo Mansouri năm
2000(21) là 70% (tai nạn giao thông chỉ chiếm
30%), Hosal năm 2002(12) là 57,1% (tai nạn
giao thông chiếm 14,3%), Kyung-Chul Yoon
năm 2003(16) là 68,2% (tai nạn giao thông chiếm

9,1%), Ben Simon năm 2009(1) là 44% (tai nạn

0,247
0,458

0,001

giao thông chiếm 16%) và Wang Ning-Chia
năm 2010(30) là 43,9% (tai nạn giao thông chiếm
29,3%). Sự khác biệt này có thể được giải thích
qua phương tiện di chuyển chủ yếu ở Việt
Nam là xe gắn máy nên dễ bị chấn thương
vùng đầu mặt và hốc mắt khi bị tai nạn. Trong

0,555

khi ở nước ngoài di chuyển chủ yếu bằng
phương tiện giao thông công cộng và xe 4
bánh nên khả năng chấn thương vùng hốc mắt

0,292

0,8 ± 1,1

BÀN LUẬN
Đặc điểm về dịch tễ
Giới tính
Tỷ lệ nam giới trong nghiên cứu là 75,0% cao
hơn nhiều so với nữ giới (p=0,001). Nhận định
này tương đồng với kết quả của những nghiên

cứu khác như Mansouri năm 2000(33) nhận thấy
giới nam chiếm 70%, Steven năm 2001(31) là 64%,

Mắt

Hosal năm 2002(14) là 71,4%, Ben Simon năm
2009(3) là 74% và Wang Ning-Chia năm 2010(32) là
75,6%. Điều này được lý giải là do nam giới liên
quan nhiều đến tai nạn hơn nữ giới như lái xe
nhiều hơn, tốc độ lưu thông nhanh hơn, tham
gia nhiều hoạt động có nguy cơ chấn thương cao
hơn so với nữ giới.

Nguyên nhân chấn thương

Bảng 8: Tương quan giữa đứt rời cơ trực dưới với
đặc điểm lỗ gãy sàn, lé đứng và HCVN
Đứt rời cơ
Không

26
1
32
1
48
1
10
1
4
0

54
2
4
0
54
2
12
1
46
1
50
0
4
2
4
0
6
2
52
0
0
0

Nghiên cứu Y học

thấp hơn.

Nơi cư trú
Bệnh nhân cư trú ở thành phố Hồ Chí
Minh chiếm tỷ lệ cao nhất là 33,3% so với các

tỉnh thành khác chỉ chiếm <6,7% (p=0,001). Sự
khác biệt này có thể được giải thích qua mật
độ giao thông và tỷ lệ xảy ra tai nạn giao thông
tại các thành phố lớn thường cao hơn so với
những nơi khác, tương tư như nhận định của
Scott K. McClatchey năm 2003(22).

125


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Lứa tuổi bị gãy thành hốc mắt
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu là 28 tuổi, tương đồng với kết quả
của Ozturk năm 2005(23) là 28 tuổi, thấp hơn so
với nghiên cứu của Hosal năm 2002(12) là 32 tuổi
và Ben Simon năm 2009(1) là 33 tuổi. Lứa tuổi
gặp nhiều nhất là 18 – 60 tuổi với tỷ lệ là 88,3%
(p=0,001). Trần Đình Lập, năm 2006 nhận thấy
lứa tuổi từ 18-60 chiếm tỷ lệ cao nhất là 83%(31).
Điều này có thể được lý giải là do nhóm tuổi 1860 thường có nhiều hoạt động dễ gây chấn
thương vùng đầu mặt như di chuyển bằng xe
gắn máy, tai nạn lao động, chơi thể thao, đánh
nhau nhiều hơn so với các lứa tuổi khác.
Thời điểm nhập viện
Thời gian từ khi chấn thương đến khi nhập
viện điều trị trung bình là 2,8 tháng, cao hơn

nhiều so với các nghiên cứu ở nước ngoài như
Mansouri năm 2000(21) là 25 ngày, Steven năm
2001 là 7,5 ngày, Hosal năm 2002(12) là 10 ngày,
Rohei Koide năm 2003(15) là 14 ngày, KyungChul Yoon năm 2003(16) là 12,8 ngày, Caroll năm
2010(3) là 7 ngày, Gosau năm 2010(11) là 2,9 ngày
và Wang Ning-Chia năm 2010(30) là 22,9 ngày.
81,75% trong tổng số bệnh nhân trong nghiên
cứu đến khám và điều trị về mắt muộn hơn ½
tháng kể từ thời điểm chấn thương. Điều này
cho thấy bệnh nhân bị gãy thành hốc mắt ở
trong nước thường đến khám và điều trị muộn
hơn nhiều so với các trường hợp gãy thành hốc
mắt ở nước ngoài. Smith năm 1984(29) cho rằng
phẫu thuật nên được thực hiện trong vòng 2
tuần sau chấn thương để giảm nguy cơ khiếm
dưỡng gây xơ teo mô liên kết hốc mắt và khối
mỡ quanh cơ trực dưới đã thoát vị qua lỗ gãy.
Đối với các trường hợp kẹt cơ vào lỗ gãy thì
Jordan năm 1998(13) cho rằng phẫu thuật nên
được tiến hành trong 2 đến 4 ngày sau chấn
thương, Sires năm 1998(27) thì cho rằng trong
trường hợp kẹt cơ có phản xạ mắt tim thì phẫu
thuật tái tạo sàn hốc mắt cần được tiến hành
khẩn cấp. Nhiều tác giả như Egbert năm 2000(9),
Ben Simon năm 2009(1), Wang Ning-Chia năm
2010(30) cũng cho rằng can thiệp phẫu thuật phục

126

hồi sàn hốc mắt càng sớm thì càng có nhiều khả

năng hồi phục vận nhãn sau mổ. Tuy nhiên,
Sang Hun Lee năm 2005(25) nghiên cứu các
trường hợp song thị tồn tại sau phẫu thuật nâng
sàn hốc mắt nhận thấy mức độ rối loạn chức
năng vận nhãn trước mổ càng nhiều thì khả
năng tồn tại song thị sau mổ càng lớn và việc
tiến hành phẫu thuật lót sàn sớm trong vòng 2
tuần sau chấn thương cũng không thể giúp cơ tự
hồi phục chức năng trong nhiều trường hợp.

Đặc điểm lỗ gãy sàn hốc mắt
Gãy sàn đơn thuần và gãy sàn kèm gãy các
thành khác
Bảng 1 cho thấy tỷ lệ gãy sàn phối hợp với
gãy thành khác là 55,0% khác biệt không có ý
nghĩa thống kê so với gãy sàn đơn thuần. Tỷ lệ
gãy sàn phối hợp theo nghiên cứu của Wang
Ning-Chia năm 2010(30) là 31,7% thấp hơn so với
nghiên cứu của chúng tôi. Điều này có thể cho
thấy tình trạng gãy sàn sau chấn thương ở các
bệnh nhân trong nước nặng nề hơn so với các
nghiên cứu ở nước ngoài.
Gãy sàn trực tiếp và gãy sàn gián tiếp
Theo Fujino, năm 1980(10), gãy sàn hốc mắt
kèm theo gãy bờ dưới thường xảy ra do tác
động trực tiếp vào bờ hốc mắt nên còn được
gọi là kiểu gãy sàn trực tiếp. Trong khi đó, gãy
sàn không kèm gãy bờ dưới thường là do sự
gia tăng áp lực trong hốc mắt gián tiếp gây ra
gãy sàn nên còn được gọi là kiểu gãy sàn gián

tiếp. Bờ dưới hốc mắt ít khi bị gãy là do đặc
điểm giải phẫu rất dày và chắc chắn của bờ
dưới hốc mắt so với sàn hốc mắt vừa mỏng
manh, vừa tiếp giáp với xoang hàm to bên
dưới, lại vừa chịu sự va chạm trực tiếp của mô
hốc mắt, đặc biệt là nhãn cầu. Điều này lý giải
cho tỷ lệ kiểu gãy trực tiếp trong nghiên cứu
chỉ chiếm tỷ lệ 18,3% thấp hơn có ý nghĩa
thống kê so với kiểu gãy gián tiếp với bờ hốc
mắt bình thường (p=0,001).
Kích thước lỗ gãy sàn và thể tích mô thoát vị
Kích thước trung bình (ngang, dài, độ
trũng) của lỗ gãy sàn là 16,2 x 28,8 x 13,6mm,

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
diện tích trung bình của lỗ gãy là 372mm2 và
thể tích mô thoát vị qua lỗ gãy là 3531mm3.
Các lỗ gãy sàn có bề ngang hẹp dưới 10mm
chỉ chiếm tỷ lệ 6,7% thấp hơn có ý nghĩa thống
kê so với lỗ gãy có bề ngang rộng từ 10mm trở
lên. Theo Egbert, năm 2000(9) và Kyung-Chul
Yoon, năm 2003(16) gãy sàn có lỗ gãy hẹp hoặc
gãy kiểu của sổ đóng thường chỉ gặp sau chấn
thương hốc mắt ở trẻ con do đặc điểm xương
của trẻ còn đàn hồi tốt hơn xương của người
trưởng thành. Như vậy tỷ lệ thấp của các lỗ gãy
hẹp <10mm được giải thích qua tỷ lệ của bệnh

nhân dưới 18 tuổi là 6,7% thấp hơn nhiều so với
93,3% bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên.
Các lỗ gãy thuộc kiểu gãy sàn sau với chiều
dài lỗ gãy từ 20mm trở lên chiếm tỷ lệ 93,3%.
Theo Seiff S.R., năm 1996(26) trong các trường
hợp gãy bung vỡ hốc mắt (blow-out fracture) thì
gãy sàn sau thường gặp hơn gãy sàn trước. Đặc
điểm này được đề cập đầu tiên bởi Pfeiffer năm
1943. Smith năm 1957(28) chứng minh qua thực
nghiệm trên sọ khô nhận thấy khi nhãn cầu bị
đẩy ra sau về trong vào vùng 25mm từ đỉnh hốc
mắt thì sàn hốc mắt ở phía sau sẽ bị vỡ bung.
Điều này được giải thích qua cấu tạo về mặt giải
phẫu, phía trước ngoài của sàn hốc mắt được tạo
nên bởi xương hàm trên và xương gò má dày
hơn nhiều so với phần xương phía sau đoạn gần
đỉnh hốc mắt tạo thành từ đầu trên của xương
khẩu cái. Mặt khác, sàn hốc mắt có độ dốc
hướng lên trên nên phần sàn phía sau sẽ chịu
phần lớn lực tác động trực tiếp từ nhãn cầu sau
chấn thương(22).
78,3% bệnh nhân có độ trũng lỗ gãy sàn từ
10mm trở lên. Trịnh Xuân Trang, năm 2009(32)
nhận thấy khi độ trũng trên 10mm thì mắt
thường hạ thấp trên 1,6mm và kích thước lỗ gãy
thường trên 50% diện tích sàn. Về mặt giải phẫu,
nhãn cầu được treo giữ bên trong hốc mắt là nhờ
các cơ vận nhãn và các vòng xơ liên kết giữa bao
cơ với màng xương hốc mắt. Các vòng xơ này có
tác dụng như những ròng rọc cho các cơ vận

nhãn. Lisman năm 1987(18) và Scott K. năm
2003(22) nhận thấy mức độ trũng xuống của

Mắt

Nghiên cứu Y học

mảnh gãy khi có gãy sàn sau chấn thương sẽ tạo
ra sự co kéo hệ thống mô sợi xơ liên kết góp
phần gây ra tổn thương ở cơ trực dưới.

Tình trạng lé đứng và HCVN sau chấn
thương gãy sàn hốc mắt
Tình trạng lé đứng
Bảng 3 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân không bị
lé đứng ở cả hai lô nghiên cứu là 83,4% nhiều
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh
nhân có lé đứng lên hoặc lé đứng xuống
(p=0,001). Tỷ lệ này tương tự với kết quả
nghiên cứu của các tác giả khác như Hosal
năm 2002(12) là 83%, Sang Hun Lee năm 2005(25)
là 81,8%. Các tác giả này cho rằng sở dĩ các
trường hợp gãy thành hốc mắt có HCVN sau
chấn thương nhưng thường không có lé khi
nhìn thẳng là do nguyên nhân kẹt cơ hoặc xơ
dính cơ vào mô xung quanh ở khu vực xích
đạo nhãn cầu tương tự với lý giải của Lerman
năm 1970(17). Lerman cho rằng khi vị trí kẹt cơ
trực dưới nằm ngay xích đạo nhãn cầu thì mắt
sẽ chỉnh thị, khi vị trí kẹt cơ nằm trước trước

xích đạo thì nhãn cầu sẽ bị kéo xuống gây ra lé
đứng xuống, và vị trí nếu kẹt nằm sau xích đạo
thì nhãn cầu sẽ bị đẩy lên trên gây ra lé đứng
lên. Ludwig năm 2001(19) cũng giải thích cho
các trường hợp lé đứng qua vị trí dính của vạt
cơ rách ra từ cơ trực dưới. Khi vạt rách ra của
cơ trực dưới dính vào mô xung quanh ở phía
sau xích đạo nhãn cầu, mắt sẽ bị kéo xuống
dưới gây ra lé đứng xuống. Khi vạt rách này
dính ra phía trước hoặc khi có đứt rời cơ trực
dưới thì nhãn cầu sẽ bị đẩy lên gây ra biểu
hiện lé đứng lên. Khi vạt rách hoặc đứt này
dính ở vị trí xích đạo thì mắt sẽ chỉnh thị. Qua
thám sát cơ trực dưới trong nghiên cứu, chúng
tôi nhận thấy vị trí tổn thương thường xảy ra ở
vị trí cách chổ bám cơ trực 5mm tương ứng với
khu vực xích đạo nhãn cầu tương tự như nhận
định của Scott K. McClatchey năm 2003(22).
Điều này có thể giải thích cho tỷ lệ đa số các

127


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

trường hợp rách cơ và xơ dính bao cơ sau chấn
thương gãy sàn không có biểu hiện lé đứng.


Tình trạng HCVN sau gãy sàn
HCVN lên thường gặp hơn và mức độ
thường nặng hơn so với HCVN xuống. Hạn chế
vận nhãn lên chiếm tỷ lệ 86,7% với mức độ hạn
chế trung bình là 2,2 độ so với tỷ lệ HCVN
xuống là 36,7%, mức độ hạn chế trung bình là
0,8 độ. Kết quả nghiên cứu của nhiều các tác giả
cũng cho thấy HCVN lên thường gặp hơn so với
HCVN xuống (bảng 9). Demer năm 2000(8) cho
rằng hiện tượng xơ dính co kéo bao cơ trực dưới
thường xảy ra sau chấn thương gãy sàn hốc mắt
sẽ gây ra hiệu ứng dây cương (tether effect) làm
HCVN khi nhìn lên. Khi nhìn xuống, nhãn cầu
bị ảnh hưởng ít hơn bởi các dây cương này nên
tỷ lệ HCVN xuống thấp hơn so với vận nhãn
lên. Trong trường hợp kẹt cơ trực dưới vào lỗ
gãy thì hiện tượng xơ dính cũng co kéo gây tác
động cản trở động tác vận nhãn lên, trong khi
vận nhãn xuống ít bị ảnh hưởng hơn và có thể
vẫn trong giới hạn bình thường.
Bảng 9: So sánh tỷ lệ HCVN sau gãy sàn với những
nghiên cứu khác
(6)

Cha MB, năm 1997
Egbert, năm 2000(11)
Kyung-Chul Yoon 2003(17)
Criden, năm 2007(8)
Ben Simon, năm 2009(3)
Trần Kế Tổ, năm 2010


HCVN lên HCVN xuống
84,2%
65,7%
92,3%
46,1%
95,4%
61,3%
100%
58,3%
100%
40%
86,7%
40%

Các hình thái tổn thương cơ trực dưới
Xơ dính bao cơ trực dưới
Bảng 4 cho thấy hình thái tổn thương dạng
xơ dính bao cơ trực dưới gặp nhiều nhất với tỷ
lệ 58,3%. Ludwig năm 2001(19) nghiên cứu 35
trường hợp tổn thương cơ vận nhãn sau chấn
thương nhận thấy cơ trực dưới thường bị tổn
thương nhất so với các cơ vận nhãn khác với tỷ
lệ 88,5% và nguyên nhân đứng hàng đầu là
gãy thành hốc mắt sau chấn thương với tỷ lệ
68,6%, kế đến là chấn thương đụng giập nhãn
cầu và phẫu thuật thắt đai điều trị bong võng
mạc. Tác giả nhận thấy hình thái tổn thương

128


xơ dính bao cơ chiếm tỷ lệ 65,7%. Tỷ lệ này
theo nghiên cứu của Sang Hun Lee năm
2005(25) trên 45 trường hợp gãy sàn là 42,2%.
Hình thái tổn thương này được nhận biết khi
phẫu thuật qua nhiều sẹo xơ dính giữa bao cơ
và mô sợi liên kết cua hốc mắt bên dưới bao
cơ. Sau khi bóc tách thì cơ vận nhãn cùng với
bao cơ được giải phóng hoàn toàn và thử
nghiệm kéo cơ lên trên trở nên âm tính.

Rách thân cơ trực dưới
Hình thái tổn thương dạng rách cơ trực dưới
chiếm hàng thứ hai trong nghiên cứu với tỷ lệ
31,7%. Tỷ lệ rách thân cơ theo nghiên cứu của
Ludwig năm 2001(19) là 34,3% (12/35 trường hợp)
và theo Sang Hun Lee năm 2005(25) là 53,3%
(24/45 trường hợp). Rách thân cơ thường biểu
hiện dưới dạng đứt các sợi cơ trực dưới làm thu
hẹp bề rộng của cơ và chia cơ ra làm 2 phần
tương tự như ghi nhận của Ludwig năm 2001(19)
và Scott K. McClatchey năm 2003(22).
Kẹt cơ trực dưới vào lỗ gãy
Hình thái tổn thương kẹt cơ trực dưới vào
lỗ gãy đứng hàng thứ 3 với tỷ lệ 6,7%. Tỷ lệ
này tương đương với nghiên cứu của Kim YI
năm 1993(14) là 5,9% (1/17 trường hợp), Sang
Hun Lee năm 2005(25) là 4,4% (2/45 trường
hợp). Kim YI và Sang Hun Lee đều cho rằng vị
trí kẹt thường nằm ở khe dưới hố ngay giữa

sàn hốc mắt do cơ trực dưới chạy theo hướng
này nên thường chỉ gặp khi lỗ gãy hẹp hoặc
gãy sàn kiểu cửa sổ ở trẻ con do xương trẻ có
tính đàn hồi cao. Do đó, trong các nghiên cứu
gãy sàn ở trẻ em thường tỷ lệ kẹt cơ vào lỗ gãy
rất cao. Theo Egbert năm 2000(9) là 53% (18/34
trường hợp) và Kyung-Chul Yoon năm 2003(16)
là 77% (34/44 trường hợp). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, bệnh nhân dưới 18 tuổi chiếm tỷ
lệ rất thấp với 6,7%. Điều này giải thích cho tỷ
lệ kẹt cơ vào lỗ gãy thấp hơn so với các hình
thái tổn thương khác trong nghiên cứu.
Đứt rời cơ trực dưới
Tổn thương dạng đứt rời cơ trực dưới
chiếm tỷ lệ thấp nhất là 3,3%. Tỷ lệ đứt rời cơ

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
trực dưới theo nghiên cứu của Ludwig năm
2002(20) là 5% (1/19 trường hợp). Theo Demer
năm 2001(7), và Ludwig năm 2002(20) thì nguyên
nhân gây đứt cơ trực dưới thường là do lực chấn
thương trực tiếp vào nhãn cầu. Mắt thường có
phản xạ nhắm khi xảy ra chấn thương, theo hiện
tượng sinh lý Charles Bell giác mạc sẽ chạy lên
trên gây ra tình trạng kéo căng thân cơ trực
dưới. Khi đó, lực chấn thương sẽ dễ tác động
gây ra đứt cơ trực dưới hoặc bứng nhổ cơ trực

dưới khỏi chỗ bám củng mạc. Lực này có thể
tiếp tục lan truyền đẩy nhãn cầu ra phía sau, làm
tăng áp lực thủy tĩnh trong hốc mắt gây ra vỡ
bung sàn hốc mắt. Nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy nguyên nhân chấn thương trực tiếp
vào nhãn cầu chỉ chiếm tỷ lệ là 18,3%. Điều này
có thể giải thích cho tỷ lệ thấp của hình thái tổn
thương đứt rời cơ so với các hình thái tổn
thương khác.

Tương quan giữa hình thái tổn thương cơ
với đặc điểm lỗ gãy và lâm sàng
Tổn thương xơ dính bao cơ trực dưới
Bảng 5 cho thấy tổn thương xơ dính bao cơ
có biểu hiện lâm sàng đặc trưng là chỉnh thị,
HCVN lên, và không có HCVN xuống.
Cole và Smith, năm 1963(5) cho rằng mô sợi
xuất hiện sau chấn thương gãy sàn hốc mắt sẽ
làm hạn chế vận động nhãn cầu. Konrneef năm
1977 là người đầu tiên mô tả hệ thống mô liên
kết hốc mắt giúp treo giữ nhãn cầu. Lisman năm
1987(18) và Scott K. năm 2003(22) nhận thấy sự dịch
chuyển xuống dưới xoang hàm của màng xương
sàn hốc mắt khi bị gãy sau chấn thương, sẽ gây
co kéo hệ thống mô sợi xơ liên kết gây xơ dính
bao cơ trực dưới. Phần xơ dính vào bao cơ tác
động co kéo như hiệu ứng dây cương vào cơ
trực dưới gây ra HCVN khi nhìn lên. Khi nhìn
xuống các sợi cơ không bị tổn thương nên vẫn
hoạt động bình thường giúp đưa nhãn cầu

xuống dưới không bị hạn chế. Lerman năm
1970(17) và Biesman năm 1996(2) cho rằng sở dĩ
không có lé đứng trong gãy sàn hốc mắt sau
chấn thương là do vị trí xơ dính thường ở khu

Mắt

Nghiên cứu Y học

vực xích đạo nhãn cầu nên mắt thường chỉnh thị
khi nhìn thẳng.

Tổn thương rách cơ trực dưới
Biểu hiện lâm sàng của tổn thương rách cơ
trực dưới được thể hiện trong bảng 6. Rách thân
cơ thường chỉnh thị trong 78,9% trường hợp
hoặc lé đứng lên trong 21,1% trường hợp, vận
nhãn nhìn lên có thể hạn chế trong 68,4% trường
hợp hoặc bình thường trong 31,6% trường hợp
và HCVN xuống trong 100% trường hợp.
Cơ chế rách cơ trực dưới trong chấn thương
gãy sàn hốc mắt theo Ludwig là do sự kéo căng
đột ngột của các mô sợi xơ liên kết giữa cơ vận
nhãn và màng xương hốc mắt. Những mô sợi xơ
này bình thường có vai trò như những ròng rọc
treo cơ giúp kiểm soát vận động cơ hoặc do lực
tác động trực tiếp vào thân cơ khi xảy ra chấn
thương. Điều này được tác giả giải thích qua đặc
điểm nhãn cầu di chuyển lên trên khi nhắm mắt
do hiện tượng Charles Bell, làm cho cơ trực dưới

bị kéo căng và bộc lộ nhiều hơn các cơ vận nhãn
khác nên dễ bị chấn thương hơn. Ludwig cũng
đã ghi nhận có những trường hợp rách cơ trực
dưới mà không có gãy sàn trong chấn thương
hốc mắt.
Scott K. McClatchey nhận thấy vị trí tổn
thương cơ thường cách chỗ bám củng mạc 5 –
6mm, tương ứng với vị trí xích đạo nhãn cầu.
Cơ trực dưới bị rách sẽ tách thành 2 phần bao
gồm 1 phần cơ còn lại liên tục với chổ bám củng
mạc và 1 phần cơ bị rách dính với mô liên kết
hốc mắt ở phía dưới. Ludwig năm 2001(19) cho
rằng thân cơ trực dưới khi bị rách sẽ bị suy
giảm chức năng gây ra HCVN khi nhìn xuống.
Nhãn cầu thường lé đứng lên và không có
HCVN lên do trương lực bình thường của cơ
trực trên. Khi phần vạt cơ bị rách dính vào mô
liên kết bên dưới cơ trực có thể gây ra hiệu ứng
dây cương co kéo nên mắt có thể chỉnh thị
nhưng sẽ bị HCVN khi nhìn lên.

Tổn thương đứt rời cơ trực dưới
Bảng 7 cho thấy biểu hiện lâm sàng thường
gặp của tổn thương này là lé đứng lên trong

129


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

100% trường hợp, không có HCVN lên trong
100% trường hợp. Đứt cơ trực dưới sẽ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chức năng vận nhãn
xuống của cơ trực dưới. Scott K. McClatchey,
năm 2003(22) cho rằng tổn thương dạng đứt rời cơ
trực dưới, nếu không được phát hiện và khâu lại
thì phần cơ bị đứt ra có thể dính vào mô xung
quanh hoặc vào mảnh lót hoặc vào cạnh của lỗ
gãy sàn, gây ra rối loạn vận nhãn bất khả hồi
phục về sau.

Tổn thương kẹt cơ trực dưới vào lỗ gãy sàn
Bảng 8 cho thấy hình thái xơ dính cơ vào lỗ
gãy thường chỉ gặp trong các lỗ gãy sàn có bề
ngang dưới 10mm với biểu hiện lâm sàng đặc
trưng là lé đứng xuống. Cơ trực dưới khi bị kẹt
vào lỗ gãy sẽ xơ dính một trong 2 cạnh của lỗ
gãy như mô tả của Sang Hun Lee, năm 2005(25).
Chỗ xơ dính này làm cho nhãn cầu bị kéo xuống
dưới gây ra lé đứng xuống và khó di chuyển lên
trên gây ra HCVN lên trong khi vận nhãn xuống
vẫn có thể bình thường.
Sang Hun Lee, năm 2005(25) cho rằng phần cơ
bị kẹt này sẽ bị xơ hóa dần nếu không được giải
phóng khỏi lỗ gãy sàn, gây ra lé đứng xuống và
HCVN bất khả hồi phục về sau.

Sơ đồ tương quan

Phân tích các mối tương quan giữa hình thái
tổn thương cho thấy có thể chẩn đoán được các
hình thái tổn thương cơ qua các biểu hiện lâm
sàng như lé đứng, HCVN lên, HCVN xuống và
thử nghiệm kéo cơ cưỡng bức.
Biểu hiện lé đứng xuống chỉ gặp trong các
trường hợp có kẹt cơ trực dưới vào lỗ gãy với
p= 0,001. Biểu hiện lé đứng xuống sau chấn
thương gãy sàn hốc mắt cũng có thể gặp trong
liệt dây thần kinh số III do liệt trực trên và
chéo dưới. Liệt dây III sẽ có các biểu hiện khác
đi kèm như đồng tử dãn và mất phản xạ ánh
sáng, lé ngoài do liệt trực trong, sụp mi do liệt
cơ nâng mi, tư thế nghiêng đầu bù trừ song thị
do liệt cơ chéo dưới. Kẹt cơ trực dưới sẽ luôn
có FDT (+) trong khi liệt dây III thì FDT luôn
âm tính. Do đó, FDT (+) cũng là một dấu

130

chứng quan trọng giúp chẩn đoán phân biệt lé
đứng xuống do kẹt cơ và liệt dây III.
Biểu hiện lé đứng lên sau chấn thương gãy
sàn hốc mắt có thể gặp ở hình thái tổn thương
cơ trực dưới bao gồm đứt rời hoặc rách thân cơ
và tổn thương khác như liệt chéo trên hoặc liệt
trực dưới. Liệt trực dưới luôn đi kèm với
những dấu chứng khác của liệt dây thần kinh
số III như dãn đồng tử, sụp mi, lé ngoài. Liệt
chéo trên thường gây ra tư thế nghiêng đầu bù

trừ song thị và không có HCVN lên. Đặc điểm
giúp phân biệt hai hình thái tổn thương đứt
rời cơ trực dưới và rách cơ trực dưới này đó là
tổn thương dạng đứt rời cơ trực dưới sẽ gây
HCVN xuống hoàn toàn (mức độ -4) trong khi
rách cơ trực dưới gây HCVN xuống không
hoàn toàn (độ -1 đến -3).
Mắt chỉnh thị trong gãy sàn hốc mắt sau
chấn thương chỉ gặp trong các trường hợp cơ
trực dưới bình thường hoặc có tổn thương cơ
trực dưới dạng xơ dính bao cơ hoặc rách 1 phần
thân cơ. Tổn thương xơ dính bao cơ luôn gây
HCVN lên và không gây HCVN xuống. Như
vậy HCVN lên là dấu chứng quan trọng giúp
phân biệt tổn thương dạng xơ dính bao cơ với
trường hợp cơ bình thường. Tổn thương rách
thân cơ trực dưới luôn gây HCVN xuống. Như
vậy HCVN xuống là dấu chứng quan trọng giúp
phân biệt xơ dính bao cơ và rách thân cơ trực
dưới. Mối tương quan giữa các hình thái tổn
thương cơ trực dưới với các biểu hiện lâm sàng
được trình bày qua sơ đồ 1.
Gãy sàn hốc mắt sau chấn thương
(Loại trừ liệt thần kinh vận nhãn)
Lé đứng lên

Chỉnh thị

Lé đứng
xuống


HCV HCV
N
N
xuống xuống

HCVN
lên

FDT
(+)

+ –

HCVN
xuống


HCVN
xuống


dính
bao

Rách
rời


+ –


Đứt Rách
rời cơ thân


Kẹt cơ
vào lỗ
gãy

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Sơ đồ 1: Tương quan giữa các tổn thương cơ trực
dưới với biểu hiện lé & rối loạn vận nhãn.

16.

KẾT LUẬN

17.

Các hình thái tổn thương cơ trực dưới sau
chấn thương gãy sàn hốc mắt bao gồm 58,3% xơ
dính bao cơ, 31,7% rách thân cơ, 6,7% kẹt mô cơ
và 3,3% đứt rời cơ. Các hình thái này có thể chẩn
đoán được qua các biểu hiện lé đứng, HCVN lên
xuống và thử nghiệm kéo cơ.

18.


19.
20.

21.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.
8.

9.

10.

11.

12.
13.


14.
15.

Ben Simon GJ. et al (2009). “Early verus late repair of orbital
blowout fractures”. Ophthalmic Surgery, Lasers & Imaging;
40(2): 141 – 148.
Biesman B.S., Hornblass A., Lisman R., Kazlas M. (1996).
”Diplopia after surgical repair of orbital floor fractures”,
Ophthalmic Plastic Recontruct. Surgery; 12(1): 9 – 16.
Carroll S.C., Ng S.G. (2010). “Outcomes of orbital blowout
fracture surgery in children and adolescents”. Br J
Ophthalmol.; 94(6): 736 – 739.
Cha M.B., Min M.B., Choi S.H. (1997). “Analysis of ocular
motility disturbance remained after open reduction in orbital
wall fracture”. J. Korean Ophthalmol. Soc.; 38: 1878 – 1885.
Cole H.G., Smith B. (1963). “Eye muscle imbalance
complicating orbital floor fractures”. Am J Ophthalmol; 55: 930
– 935.
Criden M.R., Ellis F.J. (2007). “Linear nondisplaced orbital
fractures with muscle entrapment”. J AAPOS.; 11(2): 142 –
147.
Demer J.L. (2001). “Strabismus Secondary to Blowout
Fracture”. American Orthoptic Journal; 51: 39 – 46.
Demer J.L., Oh S.Y., Poukens V. (2000). “Evidence for active
control of rectus extraocular muscle pulleys”. Invest
Ophthalmol Vis Sci; 41(6): 1280 – 1290.
Egbert J.E., May K., Kersten R.C., Kulwin D.R. (2000).
“Pediatric orbital floor fracture, direct extraocular muscle
involvement”. Ophthalmology.; 107(10): 1876 – 1879.

Fujino R., Makins K. (1980):"Entrapment mechanism and
ocular injury in orbital blow-out fractures”. Plast Reconstruct
Surg; 65(5): 571 – 576.
Gosau M., Schuneich M., Draenert F.G., Ettl T., Driemel O.,
Reichert T.E. (2010). "Retrospective analysis of orbital floor
fractures-complications, outcome, and review of literature”.
Clin Oral Investig: 18.
Hosal B.M., Beatty R.L. (2002). “Diplopia and enophthalmos
after surgical repair of blowout fracture”. Orbit; 21(1): 27 – 33.
Jordan D.R., Allen L.H., et al (1998). “Intervention within days
for some orbital floor fractures:the white-eyed blowout”.
Ophthalmol Plast Reconstr Surg.; 14(6): 379 – 390.
Kim Y.I., Won I.G. (1993). “The Clinical findings in 24 cases of
orbital blow-out fracture”. J Korean Ophthalmol Soc; 34: 1 – 6.
Koide R, et al. (2003). “Surgical outcome of blowout
fracture:Early repair without implants and the usefulness of
balloon treatment”. Jpn J Ophthalmol.; 47(4): 392 – 497.

Mắt

22.

23.

24.

25.

26.


27.

28.
29.

30.

31.

32.

33.

Nghiên cứu Y học

Kyung-Chul Yoon, Man-Seong Seo, Yeoung-Geol Park.
(2003). “Orbital trapdoor fracture in children”. J Korean Med
Sci.; 18: 881 – 885.
Lerman S. (1970). “Blowout fracture of the orbit:diagnosis and
treatment”. Br.J. Ophthalmol.; 54(2): 90 – 98.
Lisman R.D., Smith B.C., Rodgers R. (1987). “Volkmann’s
ischemic contractures and blowout fractures”. Adv Ophthalmic
Plast Reconstr Surg.; 7: 117 – 131.
Ludwig I.H., Brown M.S. (2001). “Strabismus due to flap tear
of a rectus muscle”. Trans Am Ophthalmol Soc.; 99: 53 – 62.
Ludwig I.H., Brown M.S. (2002). “Flap tear of rectus
muscles:an underlying cause of strabismus after orbital
trauma”. Ophthal Plast Reconstr Surg.; 18(6): 443 – 449.
Mansouri Y.E., Kadiri F.H. (2000). “Les séquelles
oculomotrices des fractures du plancher de l’orbite”. J Fr.

Ophtalmo.; 23(5): 445 – 448.
McClatchey SK (2003). “Ophthalmic Care of the Combat
Casualty”. Textbooks of Military Medicine, Borden Institute,
(21): 385 – 393.
Oztuck S et al (2005). “Long-term outcomes of ultra-thin
porous polyethylene implants used for reconstruction of
orbital floor defects”. The journal of craniofacial surgery; 16(6):
973 – 977.
Parks M. Sli. (1999). “Entrapped, disinserted or severed, and
lost muscles” Clinical Strabismus Management. WB Saunders,
Philadelphia PA: 529 – 538.
Sang Hun Lee, Helen Lew, Yong Soo Yun. (2005). “Ocular
motility disturbances in orbital wall fracture patients”. Yonsei
Medical Journal; 46(3): 359 – 367.
Seiff S.R., Good W.V. (1996). “Hypertropia and the posterior
blowout
fracture:
Mechanism
and
management”.
Ophthalmology; 103(1): 152 – 156.
Sires B.S., Stanley R.B. Jr., Levine L.M. (1998). “Oculocardiac
reflex caused by orbital floor trapdoor fracture: an indication
for urgent repair”. Arch Ophthalmol.; 116(7): 955 – 956.
Smith B., Regan W.F. (1957):"Blow-out fracture of the orbit",
Am J Ophthalmol.; 44: 733 – 739.
Smith B., Simonton J., Lisman R.D., Dellarocca R. (1984),
"Volkmann's contracture of the extraocular muscles following
blow-out fracture", Plast Reconstr Surg.; 74(2): 200 – 216.
Soparkar C.N., Wong J.F., Patrinely J.R., Appling D. (2000).

“Epidermal and fibroblast growth factors enhance
fibrovascular integration of porous polyethylene implants”.
Ophthal Plast Reconstr Surg.; 16(5): 337 – 340.
Trần Đình Lập, Dương Anh Quân, Võ Lâm Phước (2006).
“Đánh giá bước đầu về phương pháp sử dụng chất liệu
silicone trong phẫu thuật vỡ sàn hốc mắt”. Tạp chí Nhãn khoa
Việt Nam, 6: 29 – 37.
Trịnh Xuân Trang, Trần Kế Tổ, Lê Minh Thông, Lai Hữu
Phước (2009). “Khảo sát tương quan giữa độ rộng lỗ gãy với
mức độ thụt và hạ nhãn cầu sau chấn thương gãy thành hốc
mắt”. Y học thực hành; 7(668): 207 - 209.
Wang NC, Ma L, et al (2010). “Orbital Blow-out Fractures in
Children: Characterization and Surgical Outcome”. Chang
Gung Med J.; 33: 313 – 320.

131



×