Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

HbA1c, glucose huyết đói và glucose huyết 2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp 75g glucose trong chẩn đoán đái tháo đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.62 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014

Nghiên cứu Y học

HBA1C, GLUCOSE HUYẾT ĐÓI  
VÀ GLUCOSE HUYẾT 2 GIỜ SAU NGHIỆM PHÁP DUNG NẠP  
75G GLUCOSE TRONG CHẨN ĐOÁN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 
Trần Quang Khánh* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: (1) Đánh giá tỷ lệ đái tháo đường trong dân số nghiên cứu tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương 
(Thành phố  Hồ Chí Minh) theo các tiêu chí chẩn đoán dựa trên glucose huyết tương tĩnh mạch khi đói, HbA1c, 
glucose huyết tương tĩnh mạch hai giờ sau nghiệm pháp dung nạp 75g glucose; (2) Xác định xét nghiệm hoặc tổ 
hợp xét nghiệm nào cho kết quả chẩn đoán bệnh đái tháo đường gần với tiêu chuẩn vàng chẩn đoán đái tháo 
đường trong nghiên cứu này là bệnh nhân phải thỏa cả ba trị số.  
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang bao gồm các đối tượng trên 18 tuổi chưa từng được chẩn đoán 
đái tháo đường cho đến thời điểm nghiên cứu. Tiêu chí chẩn đoán đái tháo đường được dựa trên tiêu chí chẩn 
đoán do Hiệp hội Đái tháo đường Hoa kỳ đề nghị năm 2009 và được Liên đoàn Đái tháo đường Thế giới và Tổ 
chức Sức khỏe Thế giới chấp thuận năm 2011: (1) glucose huyết tương tĩnh mạch khi đói ≥ 7 mmol/L, (2) glucose 
huyết tương hai giờ sau uống 75g glucose ≥ 11 mmol/L, (3) HbA1c ≥ 6,5%. Xét nghiệm HbA1c được thực hiện 
bằng phương pháp sắc ký lỏng cao áp.  
Kết quả: có 1010 đối tượng tham gia nghiên cứu bao gồm 721 (71,4%) nữ và 298 (28,6%) nam. Độ tuổi 
trung bình của dân số nghiên cứu là 51,1 tuổi. Cân nặng trung bình 58,9 kg và chỉ số khối cơ thể trung bình là 
23,9. Tỷ lệ đái tháo đường trong dân số nghiên cứu lần lượt là 5,8% (sử dụng tiêu chí glucose huyết khi đói), 
12% (sử dụng tiêu chí glucose huyết tương hai giờ sau uống 75g glucose), 8,7% (nếu sử dụng tiêu chí HbA1c), 
và 4,1% (sử dụng cả ba tiêu chí). Tổ hợp xét nghiệm gồm glucose huyết khi đói và HbA1c được xem là tổ hợp xét 
nghiệm cho kết quả gần đúng nhất với “tiêu chuẩn vàng” (4,5% so với 4,1%).  
Kết luận: Tỷ lệ đái tháo đường sử dụng tiêu chí glucose huyết tương khi đói gần tương đồng nhất với tỷ lệ 
đái  tháo  đường  được  chẩn  đoán  theo “tiêu  chuẩn  vàng”  (sử  dụng  cả  ba  tiêu  chí).  Dùng  tiêu  chí  HbA1c  đơn 
thuần làm tăng gấp đôi tỷ lệ đái tháo đường so với tỷ lệ theo “tiêu chuẩn vàng”. Dùng tiêu chí nghiệm pháp 
dung nạp glucose đơn thuần làm tăng gấp ba tỷ lệ đái tháo đường được chẩn đoán theo “tiêu chuẩn vàng”.Tổ 


hợp hai xét nghiệm glucose huyết khi đói và HbA1c là phù hợp để rút ngắn thời gian chẩn đoán, tiết kiệm chi phí 
và thời gian đi lại của bệnh nhân. 
Từ khóa: đái tháo đường, glucose huyết khi đói, nghiệm pháp dung nạp glucose, HbA1c 

ABSTRACT 
ROLE OF HBA1C, FASTING PLASMA GLUCOSE, AND ORAL GLUCOSE TOLERANCE TEST 
 IN THE DIAGNOSIS OF DIABETES MELLITUS 
Tran Quang Khanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ No 4 ‐ 2014: 37 ‐ 43 
Objective:  (1)  to  evaluate  the  prevalence  of  diabetes  mellitus  in  the  studied  population  at  Nguyen  Tri 
Phuong hospital (Ho Chi Minh City), with diagnosis made by criteria of fasting plasma glucose, HbA1c, and two 
hour plasma glucose in an oral glucose tolerance test; (2) to determine which test or which combination of tests 
could  yield diabetes prevalence  close  to  that given  by gold  standard  when  all  of  these  above‐mentioned  criteria 
were met. 
* Bộ Môn Nội Tiết ‐ Đại Học Y Dược TP. HCM  
Tác giả liên lạc: TS.BS Trần Quang Khánh, 
 ĐT: 0903882968,  

Email:  

37


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014

Methods: A cross sectional study of people over 18 years old who had never been diagnosed with diabetes 
mellitus  before.  Diagnosis  was  made  based  on  diagnostic  criteria  for  diabetes  mellitus  suggested  by  American 
Diabetes  Association  in  2009  and  accepted  later  by  International  Diabetes  Federation  and  World  Health 
Organization in 2011: (1) fasting plasma glucose ≥ 126 mg/dL (7 mmol/L), (2) 2‐h plasma glucose ≥ 200 mg/dl 

(11.1  mmol/l)  during  an  oral  glucose  tolerance  test,  (3)  HbA1c  ≥  6.5%.  HbA1c  was  measured  by  high 
performance liquid chromatography method. 
Results: There are 1010 participants in our study, including 721 (71.4%) females and 298 (28.6%) males. 
The average age of these subjects was 51.1 years. They had an average weight of 58.9 kg and an average body mass 
index of 23.9. The prevalence of diabetes mellitus in our population was 5.8%, 12%, 8.7% and 4.1% when we 
used the diagnostic criteria for fasting plasma glucose, 2‐hour plasma glucose in an oral glucose tolerance test, 
HbA1C, and all of these three tests, respectively. The combination of fasting plasma glucose and HbA1c gave us 
the closest prevalence to that given by the “gold standard test” (4.5% compared to 4.1%). 
Conclusion:  The  prevalence  of  diabetes  mellitus  using  fasting  plasma  glucose  criteria  was  the  closest 
compared to that given by the “gold standard” (using all of three criteria). Using HbA1c alone as a diagnostic test 
doubled the diabetes prevalence that was noted according to the gold standard test. Using oral glucose tolerance 
test alone as a diagnostic test tripled the diabetes prevalence noted based on the gold standard test. Combination of 
fasting  plasma  glucose  and  HbA1c  as  a  diagnostic  test  was  appropriate  for  application,  which  could  make 
diagnosis faster and save time, money for the patients as well. 
Keywords: diabetes mellitus, fasting plasma glucose, oral glucose tolerance test, HbA1C 
đó, glucose huyết 2 giờ sau nghiệm pháp dung 
MỞ ĐẦU 
nạp 75 g glucose (≥ 11,1 mmol/L) được xem là 
Bệnh đái tháo đường không chỉ là một trong 
tiêu  chuẩn  vàng  trong  chẩn  đoán  bệnh  đái 
những  bệnh  không  lây nhiễm thường gặp nhất 
tháo  đường.  Tuy  nhiên,  nghiệm  pháp  dung 
mà  còn  được  xem  là  một  đại  dịch  trong  thế  kỷ 
nạp glucose rất phức tạp về mặt chuẩn bị bệnh 
21. Việt nam là một quốc gia đang phát triển và 
nhân,  tốn  nhiều  thời  gian  và  ít  khi  được  sử 
do đó cũng là một trong số những quốc gia có tỷ 
dụng trên lâm sàng. Ngoài ra, tính lặp lại của 
lệ đái tháo đường tăng rất nhanh. Liên đoàn Đái 
nghiệm  pháp  này  rất  thấp,  chỉ  khoảng  53%‐

tháo đường Thế giới ước tính đến năm 2025 Việt 
58%(5).  Glucose  huyết  mặc  dù  là  một  xét 
nam sẽ nằm trong số 10 quốc gia có dân số đái 
nghiệm  đơn  giản  và  rẻ  tiền  nhưng  lại  bị  tác 
tháo đường cao nhất Á châu. Cùng với các biến 
động  bởi  nhiều  yếu  tố  khác  như  sử  dụng 
chứng mạn tính, bệnh đái tháo đường thật sự là 
thuốc,  tình  trạng  stress,  bệnh  đi  kèm,  chế  độ 
một  gánh  nặng  kinh  tế  không  những  cho  bản 
ăn, vận động thể lực, kỹ thuật xét nghiệm,...Do 
thân người bệnh và gia đình mà còn là một gánh 
đó cũng như nghiệm pháp dung nạp glucose, 
nặng cho nền kinh tế y tế nói chung. Vì vậy, việc 
tính 
lặp  lại  của  xét  nghiệm  này  cũng  không 
chẩn đoán sớm bệnh đái tháo đường mang một 
cao,  chỉ  khoảng  70%(9).  Quan  trọng  hơn, 
tầm  quan  trọng  rất  lớn  trong  việc  hoạch  định 
glucose huyết chỉ phản ảnh nồng độ glucose ở 
chính  sách  chăm  sóc  sức  khỏe  cộng  đồng  của 
một thời điểm nhất định và không tương hợp 
ngành y tế. 
với glucose huyết 2 giờ sau nghiệm pháp dung 
Tiêu  chí  glucose  huyết  tương  tĩnh  mạch 
nạp 75 g glucose(15). Trước các thách thức này, 
nhịn đói ít nhất 8 giờ qua đêm (≥ 7 mmol/L) và 
từ năm 2009, Hiệp hội Đái tháo đường Hoa kỳ 
tiêu  chí  glucose  huyết  tương  bất  kỳ  (≥  11,1 
(ADA) đã chính thức đề nghị đưa xét nghiệm 
mmol/L)  nếu  có  kèm  theo  triệu  chứng  lâm 

HbA1c  (≥  6,5%)  vào  tiêu  chí  chẩn  đoán  và 
sàng của tình trạng tăng glucose huyết thường 
được sự chấp thuận của Tổ chức Sức khỏe Thế 
được  áp  dụng  nhất  trên  lâm  sàng.  Trong  khi 
giới (WHO) và Liên đoàn Đái tháo đường thế 

38


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
giới (IDF) hai năm sau đó(13). Tuy có nhiều ưu 
điểm  hơn  glucose  huyết  tương  khi  đói  và 
glucose  huyết  2  giờ  sau  nghiêm  pháp  dung 
nạp  glucose,  xét  nghiệm  HbA1c  lại  đòi  hỏi 
những tiêu chuẩn khắt khe về việc  chuẩn hóa 
theo  phương  pháp  đã  dùng  trong  các  nghiên 
cứu  DCCT/UKPDS.  Một  phân  tích  gộp  cho 
thấy  điểm  cắt  HbA1c  để  chẩn  đoán  đái  tháo 
đường  không  hằng  định.  HbA1c  cũng  phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi, giới, và nhất 
là chủng tộc(1).  
Tại  Việt  nam  cho  đến  thời  điểm  hiện  tại, 
glucose  huyết  khi  đói  vẫn  được  xem  là  xét 
nghiệm  đầu  tay  để  chẩn  đoán  bệnh  đái  tháo 
đường. Năm 2004, một nghiên cứu sử dụng tiêu 
chí này đã cho kết quả tỷ lệ bệnh đái tháo đường 
tại Thành phố Hồ chí Minh là 6,6%(6). Năm 2010, 
một  nghiên  cứu  khác  cũng  tại  Thành  phố  Hồ 
Chí  Minh  sử  dụng  tiêu  chí  glucose  huyết  2  giờ 
sau  nghiệm  pháp  uống  75g  glucose  đã  cho  kết 

quả tỷ lệ bệnh đái tháo đường là 11%(11). Chưa có 
nghiên  cứu  nào  sử  dụng  HbA1c  như  một  xét 
nghiêm duy nhất để chẩn đoán đái tháo đường 
theo khuyến cáo của các hiệp hội chuyên ngành 
và Tổ chức sức khỏe Thế giới. Trong nghiên cứu 
này, glucose huyết khi đói, glucose huyết hai giờ 
sau  nghiệm  pháp  dung  nạp  75g  glucose  và 
HbA1c  được  sử  dụng  để  chẩn  đoán  bệnh  đái 
tháo đường. Chúng tôi sẽ đánh giá tỷ lệ đái tháo 
đường theo từng tiêu chí chẩn đoán và xác định 
xét  nghiệm  hay  tổ  hợp  xét  nghiệm  nào  có  kết 
quả  gần  tương  đồng  với  tỷ  lệ  đái  tháo  đường 
dựa trên tiêu chí thỏa cả ba trị số glucose huyết 
khi  đói,  HbA1c  và  glucose  huyết  hai  giờ  sau 
nghiệm pháp dung nạp glucose. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  gồm  hai  mục 
tiêu:  (1)  xác  định  tỷ  lệ  đái  tháo  đường  theo 
từng tiêu chí chẩn đoán gồm glucose huyết khi 
đói,  HbA1c  và  glucose  huyết  hai  giờ  sau 
nghiệm pháp dung nạp glucose và (2) xác định 
xét  nghiệm  hoặc  tổ  hợp  xét  nghiệm  nào  cho 
kết  quả  chẩn  đoán  bệnh  đái  tháo  đường  gần 
với tiêu chuẩn vàng chẩn đoán đái tháo đường 

Nghiên cứu Y học
trong  nghiên  cứu  này  là  bệnh  nhân  phải  thỏa 
cả ba trị số.  

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU 

Đây là một nghiên cứu cắt ngang bao gồm 
1010  đối  tượng  từ  18  đến  85  tuổi  tham  gia. 
Thông  báo  tuyển  đối  tượng  nghiên  cứu  được 
đăng tải trên phương tiện truyền thông và báo 
chí  hai  tháng  trước  khi  tiến  hành.  Các  đối 
tượng là người chưa từng được chẩn đoán đái 
tháo  đường  từ  trước  đến  thời  điểm  tham  gia 
nghiên  cứu,  không  sử  dụng  bất  kỳ  một  loại 
thuốc  điều  trị  đái  tháo  đường  nào,  không  có 
bệnh lý về thận. Các đối tượng sẽ được phỏng 
vấn, ghi nhận các chỉ số nhân trắc học và thực 
hiện  các  xét  nghiêm  cận  lâm  sàng.  Các  xét 
nghiêm  cận  lâm  sàng  bao  gồm  glucose  huyết 
tương  tĩnh  mạch  nhịn  đói  ít  nhất  8  giờ  qua 
đêm  (đã  được  ghi  rõ  trong  thông  báo  tuyển 
chọn),  HbA1c,  và  glucose  huyết  2  giờ  sau  khi 
uống 75g glucose sau khi thỏa thuận tham gia 
nghiên  cứu  được  ký.  Các  đối  tượng  tham  gia 
nghiên cứu sẽ được lấy máu tĩnh mạch khi đói 
để thực hiện xét nghiệm glucose huyết khi đói 
và HbA1c. Sau đó, đối tượng tham gia nghiên 
cứu  được  cho  uống  250ml  dung  dịch  glucose 
30%  và  được  ngồi  nghỉ  ngơi  tại  chỗ.  Xét 
nghiệm  glucose  huyết  được  thực  hiện  lần  thứ 
nhì sau 120 phút và được xem là glucose huyết 
2 giờ sau khi uống 75g glucose. Tất cả các mẫu 
xét nghiệm sẽ được vận chuyển ngay và được 
phân tích tại Trung tâm Medic Thành phố Hồ 
Chí  Minh.  HbA1c  được  tiến  hành  phân  tích 
bằng  phương  pháp  sắc  ký  lỏng  cao  áp  (high 

pressure liquid chromatography).  

KẾT QUẢ 
Bảng  1  trình  bày  đặc  điểm  chung  của  đối 
tượng  tham  gia  nghiên  cứu.  Các  đối  tượng 
tham  gia  nghiên  cứu  có  độ  tuổi  trung  bình  là 
51, chỉ số khối cơ thể ở mức trung bình, không 
tăng  huyết  áp,  không  đái  tháo  đường  theo  cả 
ba  tiêu  chí  glucose  huyết  khi  đói,  HbA1c  và 
glucose  huyết  hai  giờ  sau  nghiệm  pháp  dung 
nạp glucose. 

39


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014

54
3,6

132
21,3

0,3
0,05

5,4
6,7

3,9

2,8

14
35,1

0,03
0,13

8

10

12

14

fbs

0.44 0.45
14
12

a1c

Tỷ  lệ  đái  tháo  đường  trong  dân  số  nghiên 
cứu  được  ghi  nhận  trong  bảng  2.  Nếu  chỉ  sử 
dụng  tiêu  chí  glucose  huyết  khi  đói  để  chẩn 
đoán  thì  tỷ  lệ  đái  tháo  đường  trong  dân  số 
nghiên  cứu  là  5,8%.  Nếu  chỉ  sử  dụng  tiêu  chí 
HbA1c để  chẩn đoán thì tỷ lệ đái tháo đường 

sẽ  là  8,7%.  Nếu  chỉ  sử  dụng  nghiệm  pháp 
dung  nạp  glucose  để  làm  tiêu  chí  chẩn  đoán 
Bảng 2: Tỷ lệ đái tháo đường theo các tiêu chí chẩn đoán 

5

10

20

5

10 15 20 25 30 35

(*) Spearmanʹs rank correlation: tương quan hạng 
Spearman’s  

Không đái tháo đường Đái tháo đường
n
%
n
%

Tiêu chí glucose huyết đói ≥ 126mg/dL
Tiêu chí OGTT ≥ 200mg/dL
Tiêu chí A1c≥ 6,5%
Tiêu chí glucose huyết đói ≥ 126mg/dL và OGTT≥ 200mg/dL
Tiêu chí glucose huyết đói≥ 126mg/dL và A1c≥ 6,5%
Tiêu chí A1c≥ 6,5% và OGTT≥ 200mg/dL
Tiêu chí glucose huyết đói≥ 126mg/dL và A1c≥ 6,5% và OGTT ≥ 200mg/dL


Chẩn đoán đái tháo đường luôn là một chẩn 
đoán  thận  trọng  đối  với  thầy  thuốc.  Việc  chẩn 
đoán đái tháo đường đồng nghĩa với việc bệnh 
nhân  phải  sử  dụng  thuốc  dài  hạn  và  phải  theo 
một  chế  độ  tư  vấn  cũng  như  quản  lý  bệnh  rất 

15

Hình 1. Mối tương quan giữa glucose huyết khí đói, 
HbA1c và glucose huyết hai giờ sau nghiệm pháp 
dung nạp glucose.  

Tiêu chí chẩn đoán

BÀN LUẬN 

10 15 20 25 30 35

ogtt

5

Chúng tôi cũng ghi nhận có sự tương quan ở 
mức độ trung bình giữa các trị số glucose huyết 
khi đói, HbA1c và glucose huyết hai giờ sau khi 
làm nghiệm pháp dung nạp glucose (r=0,45, p < 
0,0001). 

8


10

0.45

6

(*) Biểu diễn bằng trung vị do các biến số không tuân theo 
luật phân phối chuẩn (ShapiSro‐Wilk normaliti test, p < 
0,05). 

40

6

5

81
5,1

4

20

Trung vị (*) min max SE
51
18
85
0,3
1,56

1,34 1,83
0
58
31
121 0,32
23,73
14,67 42,86 0,1
120
90
190 0,42
70
60
100 0,26

4

Tuổi (năm)
Chiều cao (mét)
Cân nặng (kg)
BMI (kg/m2)
Huyết áp tâm thu (mmHg)
Huyết áp tâm trương
(mmHg)
Vòng eo (cm)
Glucose huyết khi đói
(mmol/L)
HbA1c (%)
Glucose sau 120 phút
(mmol/L)


thì  tỷ  lệ  đái  tháo  đường  sẽ  là  12%.  Nếu  chẩn 
đoán  đái  tháo  đường  phải  thỏa  cả  ba  tiêu  chí 
chẩn  đoán  glucose  huyết  khi  đói,  HbA1c  và 
nghiệm  pháp  dung  nạp  glucose  thì  tỷ  lệ  đái 
tháo đường sẽ là 4,1%. 

15

Bảng 1. Đặc điểm cơ bản của dân số nghiên cứu  

10

Nghiên cứu Y học 

951
889
922
960
965
945
969

94,2
88
91,3
95,0
95,5
93,6
95,9


59
121
88
50
45
65
41

5,8
12
8,7
5,0
4,5
6,4
4,1

đều đặn và kiên trì nhằm phòng ngừa hoặc làm 
chậm sự xuất hiện của các biến chứng. Việc chẩn 
đoán  xác  định  bệnh  đái  tháo  đường  hiện  nay 
vẫn dựa vào tiêu chí glucose huyết khi đói. Bệnh 
nhân cần phải nhịn đói ít nhất tám giờ qua đêm 
trước khi đến cơ sở y tế để thực hiện xét nghiệm 

 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
này. Ưu điểm chính của việc xét nghiệm glucose 
huyết khi đói là rẻ tiền, thuận tiện, dễ thực hiện 
ở nhiều cơ sở y tế với các máy xét nghiệm sinh 

hóa  tự  động.  Tuy  nhiên,  xét  nghiệm  glucose 
huyết  không  hoàn  toàn  là  một  xét  nghiệm  đơn 
giản. Điều tra NHANES III đã chứng minh rằng 
chỉ có 70,4% bệnh nhân có glucose huyết khi đói 
≥ 126 mg/dl trong lần xét nghiệm thứ nhất cũng 
có trị số glucose huyết khi đói ≥ 126 mg/dl trong 
lần xét nghiệm thứ nhì được tiến hành hai tuần 
sau  đó(10).  Glucose  huyết  khi  đói  còn  thay  đổi 
hằng  ngày  trên  cùng  một  đối  tượng  và  phụ 
thuộc nhiều vào chế độ ăn, tình trạng vận động 
thể lực, việc sử dụng thuốc cũng như tình trạng 
stress  của  đối  tượng  được  xét  nghiệm.  Nhiều 
bệnh nhân lại cố ý ăn chế độ ăn năng lượng thấp 
liên  tục  nhiều  ngày  trước  khi  đến  xét  nghiệm. 
Việc bệnh nhân cần nhịn đói ít nhất tám giờ quả 
đêm cũng là một vấn đề khiến bệnh nhân không 
cảm thấy thoải mái khi được lấy máu tĩnh mạch. 
Một nghiên cứu tầm soát đái tháo đường trong 
cộng đồng cho thấy chỉ có 3% đối tượng đến tầm 
soát  trong  tình  trạng  nhịn  đói  qua  đêm;  chin 
mươi bảy phần trăm còn lại được tầm soát bằng 
glucose huyết bất kỳ(4). Glucose huyết cũng giảm 
từ 5‐7% mỗi giờ do hiện tượng ly giải glucose. Vì 
vậy một mẫu xét nghiệm có giá trị 126 mg/dl chỉ 
còn  khoảng  110  mg/dl  sau  hai  giờ  ở  nhiệt  độ 
phòng(8).  Cuối  cùng  kỹ  thuật  định  lượng  bằng 
các  phương  pháp  enzyme  oxydase  hay 
hexokinase  cũng  dẫn  đến  kết  quả  không  thống 
nhất giữa các phòng xét nghiệm(7).  
Nghiệm  pháp  dung  nạp  glucose  trong 

nhiều năm được xem là “tiêu chuẩn vàng” để 
chẩn  đoán  đái  tháo  đường  do  tình  trạng  tăng 
glucose  huyết  sau  ăn  được  xem  là  xuất  hiện 
trước  khi  glucose  huyết  khi  đói  tăng.  Nghiệm 
pháp  dung  nạp  75  g  glucose  cũng  được  Hiệp 
hội Đái tháo đường  Hoa kỳ và Liên đoàn Đái 
tháo đường Thế giới chấp thuận là một tiêu chí 
để  chẩn  đoán  đái  tháo  đường(14).  Tuy  nhiên 
việc chuẩn bị bệnh nhân để thực hiện nghiệm 
pháp dung nạp glucose tương đối phức tạp và 
trong  điều  kiện  thưc  tế  tại  Việt  nam  thì  hầu 

Nghiên cứu Y học
như  không  khả  thi.  Tính  lặp  lại  rất  kém,  tốn 
nhiều  thời  gian  và  chi  phí,  cồng  kềnh  trong 
việc  thực  hiện  khiến  cho  nghiệm  pháp  dung 
nạp  glucose  không  được  Hiệp  hội  Đái  tháo 
đường Hoa kỳ khuyến cáo là xét nghiệm được 
ưu tiên chọn trong chẩn đoán(14).  
Xét nghiệm HbA1c được khuyến cáo là một 
xét  nghiệm  thuận  tiện  nhất  để  chẩn  đoán  bệnh 
đái tháo đường. HbA1c phản ảnh tình trạng tăng 
glucose  huyết  trong  một  thời  gian  khoảng  2‐3 
tháng trước và có mối liên hệ chặt chẽ với biến 
chứng  võng  mạc  đặc  trưng  cho  bệnh  đái  tháo 
đường(12).  Để  xét  nghiệm  HbA1c,  bệnh  nhân 
không  cần  phải  nhịn  đói  và  có  thể  lấy  mẫu  xét 
nghiệm vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày. Xét 
nghiệm  HbA1c  cũng  không  bị  ảnh  hưởng  bởi 
các  yếu  tố  như  tình  trạng  stress,  chế  độ  ăn  và 

việc sử dụng thuốc của bệnh nhân. Xét nghiệm 
cũng tương đối ổn định và ít bị ảnh hưởng bởi 
các yếu tố kỹ thuật(2). Những nhược điểm chính 
của xét nghiệm HbA1c là không phải luôn luôn 
sẵn có, đắt tiền, phụ thuộc vào yếu tố chủng tộc 
và tuổi tác và đặc biệt là điều kiện chuẩn hóa xét 
nghiệm rất khắt khe(3).  
Vấn  đề  sử  dụng  HbA1c  trong  tiêu  chí  chẩn 
đoán đái tháo đường tại Việt nam nói chung và 
tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng còn nhiều ý 
kiến  tranh  luận.  Khuyến  cáo  cập  nhật  gần  đây 
của  Hiệp  hội  Đái  tháo  đường  và  Nội  tiết  Việt 
nam (VADE) cũng đề nghị sử dụng tiêu chí này 
một  cách  thận  trọng  để  chẩn  đoán  đái  tháo 
đường do xét nghiệm này chưa được chuẩn hóa 
theo các tiêu chuẩn xét nghiệm trong các nghiên 
cứu DCCT và UKPDS. Với mục tiêu xác định tỷ 
lệ  đái  tháo  đường  tại  thành  phố  Hồ  chí  Minh 
theo  tiêu  chí  mới  nhất  vừa  được  Tổ  chức  Sức 
khỏe Thế giới và Liên đoàn Đái tháo đường Thế 
giới  chấp  thuận,  chúng  tôi  ghi  nhận  tỷ  lệ  đái 
tháo đường trong dân số nghiên cứu lần lượt là 
5,8%,  8,7%  và  12%  nếu  chỉ  sữ  dụng  một  xét 
nghiệm  duy  nhất  là  glucose  huyết  khi  đói, 
HbA1c  và  nghiệm  pháp  dung  nạp  glucose.  So 
với  “tiêu  chuẩn  vàng”  chẩn  đoán  đái  tháo 
đường là phải thỏa cả ba tiêu chí (tỷ lệ đái tháo 

41



Nghiên cứu Y học 
đường là 4,1%) thì tiêu chí glucose huyết khi đói 
vẫn  là  xét  nghiệm  phù  hợp  hơn  cả.  Trong  điều 
kiện tại thành phố Hồ chí Minh, nếu chỉ sử dụng 
HbA1c là xét nghiệm duy nhất đề chẩn đoán đái 
tháo đường thì tỷ lệ đái tháo đường sẽ tăng hơn 
hai lần so với “tiêu chuẩn vàng”. Trong thực tế 
lâm sàng, glucose huyết khi đói vẫn được xem là 
xét  nghiệm  đầu  tay  để  chẩn  đoán  đái  tháo 
đường. Trong khi đó nếu sử dụng nghiệm pháp 
dung nạp 75 g glucose như một xét nghiệm duy 
nhất thì sẽ tăng gấp ba tỷ lệ đái tháo đường so 
với thực tế. Mối tương quan giữa ba xét nghiệm 
này chỉ ở mức độ trung bình (r= 0,45); vì vậy nếu 
bệnh  nhân  không  có  triệu  chứng  lâm  sàng  của 
tình  trạng  tăng  glucose  huyết  mạn  tính  thì 
không thể kết luận bệnh nhân bị đái tháo đường 
chỉ với một xét nghiệm duy nhất.  
Việc tiến hành hai xét nghiệm cùng lúc trên 
lâm  sàng  nhằm  mục  đích  hạn  chế  nhược  điểm 
của  từng  xét  nghiệm,  rút  ngắn  thời  gian  chẩn 
đoán, giảm chi  phí  và  thời  gian  đi  lại  của  bệnh 
nhân cũng là một ý kiến đáng ghi nhận. Nghiên 
cứu  của  chúng  tôi  cho  thấy  tổ  hợp  hai  xét 
nghiệm glucose huyết khi đói và HbA1c cho kết 
quả gần tương đồng nhất với “tiêu chuẩn vàng” 
của nghiên cứu (4,5% so với 4,1%). Nghiệm pháp 
dung  nạp  glucose  và  glucose  huyết  khi  đói  có 
thể tiến hành ở những nơi chưa triển khai được 

xét  nghiệm  HbA1c  theo  phương  pháp  sắc  ký 
lỏng (5% so với 4,1%). Tổ hợp xét nghiệm HbA1c 
và nghiệm pháp dung nạp glucose không được 
khuyến  khích  vì  cho kết  quả  cao  gấp  1,5  lần so 
với “tiêu chuẩn vàng” (6,4% so với 4,1%).  
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  góp  phần  làm 
sáng  tỏ  thêm  vai  trò  của  các  xét  nghiệm  trong 
chẩn  đoán  đái  tháo  đường.  Nghiên  cứu  được 
tiến  hành  lần  đầu  tiên  bằng  huyết  tương  tĩnh 
mạch trên một số lượng lớn bệnh nhân và được 
xét nghiệm tại một trung tâm duy nhất nên kết 
quả khá tin cậy. Kết quả nghiên cứu này có thể 
cung cấp thêm dữ liệu giúp các bác sỹ thực hành 
lâm sàng quyết định sẽ sử dụng xét nghiệm hoặc 
các xét nghiệm nào để rút ngắn thời gian và cải 
thiện  sự  chính  xác  trong  chẩn  đoán  bệnh  đái 

42

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
tháo  đường.  Khả  năng  ứng  dụng  kết  quả  của 
nghiên cứu này là tại thành phố Hồ chí Minh với 
các  điều  kiện  xét  nghiệm  sẵn  có.  Chưa  thể  mở 
rộng ứng dụng cho các địa phương khác do có 
sự khác nhau về điều kiện xét nghiệm.  

KẾT LUẬN 
Tỷ  lệ  bệnh  đái  tháo  đường  trong  dân  số 
nghiên  cứu  là  5,8%  nếu  sử  dụng  tiêu  chí 
glucose  huyết  nhịn  đói  qua  đêm.  Nếu  chỉ  sử 

dụng  xét  nghiệm  HbA1c  đơn  thuần  thì  tỷ  lệ 
đái tháo đường là 8,7%. Vì vậy trong thời điểm 
hiện tại chưa nên sử dụng HbA1c làm tiêu chí 
chẩn  đoán  đái  tháo  đường  theo  khuyến  cáo 
của  Tổ  chức  Sức  khỏe  Thế  giới  và  Liên  đoàn 
Đái tháo đường Thế giới. Để rút ngắn thời gian 
chẩn  đoán,  tiết  kiệm  thời  gian  và  chi  phí  di 
chuyển  cho  bệnh  nhân  thì  glucose  huyết  khi 
đói và HbA1c là bộ xét nghiệm được lựa chọn 
vì cho kết quả gần nhất với “tiêu chuẩn vàng” 
trong  chẩn  đoán  đái  tháo  đường.  Glucose 
huyết  hai  giờ  sau  nghiêm  pháp  dung  nạp 
glucose  không  được  khuyến  khích  thực  hiện 
một cách thường quy trên làm sàng.  
Chúng  tôi  xin  trân  trọng  cảm  ơn  sự  tài  trợ 
kinh phí từ các công ty Bayer, Novo Nordisk và 
Merck Serono để thực hiện nghiên cứu này.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.
5.

6.
7.


Bennett  C,  Guo  M,  and  Dharma  S  (2007).  ʺHbA1c  as  a 
screening  tool  for  detection  of  Type  2  diabetes:  a  systematic 
reviewʺ. Diabetic Medicine, 24, pp 333‐343. 
Cohen  R,  Snieder  H,  and  Lindsell  C  (2006).  ʺEvidence  for 
independent  heritability  of  the  glycation  gap  (glycosylation 
gap) fraction of HbA1c in nondiabetic twins.ʺ Diabetes care, 29, 
pp 1739‐1743. 
Davidson  M.  and  Schriger  D.  (2010).  ʺEffect  of  age  and 
race/ethnicity  on  HbA1c  levels  in  people  without  known 
diabetes mellitus: implications for the diagnosis of diabetes.ʺ 
Diabetes Res Clin Pract, 87, pp 415‐421. 
Ealovega  M,  et  al.  (2004).  ʺOpportunistic  screening  for 
diabetes in routine clinical practiceʺ. Diabetes care, 27, pp 9‐12. 
Ko  GT  et  al.  (1998).  ʺThe  Reproducibility  and  Usefulness  of 
the Oral Glucose Tolerance Test in Screening for Diabetes and 
other Cardiovascular Risk Factors ʺ. Ann Clin Biochem, 35, pp 
62‐67. 
Le DSN, et al. (2004). ʺPrevalence and risk factors for diabetes 
in Ho Chi Minh City, Vietnamʺ. Diabet Med, 21(4), pp 371‐376. 
Sacks D (2006). ʺCarbohydratesʺ. Textbook of Clinical Chemistry 
and Molecular Diagnostics., pp 837‐902. 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
8.

9.
10.


11.

12.

Sacks  D,  Bruns  D,  and  Goldstein  D  (2002).  ʺGuidelines  and 
recommendations for laboratory analysis in the diagnosis and 
management of diabetes mellitusʺ. Clin Chem, 48, pp 436‐472. 
Sacks DB (2011). ʺA1c versus Gluocse testing: A comparisonʺ. 
Diabetes care, 34, pp 518‐523. 
Selvin  E,  et  al.  (2007).  ʺShort‐term  variability  in  measures  of 
glycemia  and  implications  for  the  classification  of  diabeteʺ. 
Arch Intern Med, 167, pp 1545‐1551. 
Ta  M,  Nguyen  T,  and  Nguyen  N  (2010).  ʺIdentification  of 
undiagnosed  type  2  diabetes  by  systolic  blood  pressure  and 
waist‐to‐hip ratioʺ. Diabetologia, 53(10), pp 2139‐2146. 
The  Diabetes  Control  and  Complications  Trial  Research 
Group (1993).. The effect of in‐tensive treatment of diabetes on 
the development and progression of long‐term complications 
insulin‐dependent  diabetes  mellitusʺ.  N  Engl  J  Med,  329,  pp 
977‐986. 
 

Nghiên cứu Y học
13.

14.

15.

The  International  Expert  Committee  (2009)..  International 

Expert Committee Report on the Role of the A1c Assay in the 
Diagnosis of Diabetesʺ. Diabetes care, 32, pp 1327‐1334. 
The  International  Expert  Committee.  International  Expert 
Committee  Report  on  the  Role  of  the  A1c  Assay  in  the 
Diagnosis of Diabetesʺ. Diabetes care, 32, pp 1327‐1334. 
Wang,  W.,  E.T.  Lee,  and  R.  Fabsitz  (2002).  ʺUsing  HbA1c  to 
Improve  Efficacy  of  the  American  Diabetes  Association 
Fasting Plasma Glucose Criterion in Screening for New Type 
2  Diabetes  in  American  Indiansʺ.  Diabetes  care,  25,  pp  1365‐
1370. 

 

Ngày nhận bài báo:    
 
Ngày phản biện đánh giá bài báo:  
Ngày bài báo được đăng:  
 

11/07/2014 
28/07/2014 
30/08/2014 

 
 

 

43




×