Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tỉ lệ trẻ 8-11 tuổi bị bạo hành tại gia đình tại một phường thành phố Biên Hòa, Đồng Nai, năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.6 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008

Nghiên cứu Y học

TỈ LỆ TRẺ 8-11 TUỔI BỊ BẠO HÀNH TẠI GIA ĐÌNH
TẠI MỘT PHƯỜNG THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, ĐỒNG NAI, NĂM 2008
Hà Thị Ninh*, Phùng Đức Nhật* và cộng sự

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bạo hành trẻ em đang là vấn đề xã hội được quan tâm, đặc biệt là bạo hành trẻ em tại gia đình.
Đây là một trong những hình thức ít nhận thấy nhất, nhưng khá phổ biến trong xã hội, hậu quả của nó không chỉ
trên thể xác mà còn có tác động lâu dài lên nhận thức và sự phát triển sau này của trẻ.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ trẻ 8-11 tuổi bị bạo hành tại gia đình tại một phường ở thành phố Biên
Hòa năm 2008, và các yếu tố liên quan đến tỉ lệ bạo hành trẻ em tại gia đình.
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả. Thu thập số liệu bằng bộ câu hỏi soạn sẵn tại một phường
thành phố Biên Hòa, Đồng Nai.
Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ trẻ bị cha mẹ hoặc người thân trong gia đình la mắng bằng các từ ngữ nặng nề
trước mặt nhiều người là 35,94%, bị hù dọa đánh, hoặc ném đồ vật vào người là 20,31%. Tỉ lệ trẻ chứng kiến cha
mẹ đánh/cãi nhau là 34,11%, trong đó tỉ lệ trẻ chứng kiến cảnh cha mẹ đánh/cãi nhau trong tháng vừa qua khá
cao khoảng 38,17%. Đáng lưu ý là gần nửa số trẻ được hỏi (48,44%) trả lời từng bị cha mẹ/người thân trong gia
đình đánh, trong đó tỉ lệ trẻ cảm thấy bị đánh đau nhiều đến đau rất nhiều là 38,05%, gần bằng với số trẻ bị cha
mẹ đánh đến bầm tím/trầy xước 41,94%. Công cụ cha mẹ và người thân dùng đánh trẻ chủ yếu là dùng roi
78,49%, đánh trực tiếp bằng tay/chân 50%. Đối tượng đánh trẻ là mẹ chiếm tỉ lệ cao nhất 74,73%, cha 44,09%.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) về tỉ lệ trẻ bị la mắng, đánh đập ở các nhóm tuổi, giới, học lực khác
nhau. Nghiên cứu cũng cho thấy có mối liên quan giữa tỉ lệ trẻ bị cha mẹ la mắng, đánh đập với nghề nghiệp của
mẹ, gia đình có người uống rượu bia, việc trẻ chứng kiến cảnh bạo lực giữa cha mẹ.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu là cơ sở giúp trường tiểu học, cũng như các cấp chính quyền tại Biên Hòa có
những giải pháp thích hợp cho hoạt động phòng chống bạo hành trẻ em.

ABSTRACT
THE PROPORTION OF VIOLENCE AGAINST CHILDREN FROM 8-11 YEARS OLD


BY THEIR FAMILY MEMBERS AT ONE WARD OF BIEN HOA CITY IN 2008
Ha Thi Ninh, Phung Duc Nhat et al
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 102 - 107
Background: Violence against children, especially, by child’s family members is a social problem which is
paid more attention in now a day. Violence by parents and other family member is one of the least visible forms,
but it is widely prevalent in all societies. In addition, the long-term impact of violence is not only on child’s
physical development but also on emotional development of the child.
Objectives: To investigate the proportion of violence against children from 8 to 11 years old in a ward of
Bien Hoa City, and the relationship between the proportion of violence against children with some related factors.
Method: cross-sectional study. Collecting data by using structured questionnaire to interview 384 pupils at
one primary school in Bien Hoa City
Results: the proportion of children has been sworn or insult by parents or other adults in family is 35.94%,
threatening to hit or throw something is 20.31%. The percentage of children witnessing violence between their
*

Viện Vệ Sinh – Y tế Công Cộng TPHCM


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008

Nghiên cứu Y học

parents is 34.11%, in last month this is 38.17%. It is very interested in half of children is beated by their family
members, more than 38% of children said that they are beated hard or very hard. This is also approximate the
number of child has marks or injured in body (41.94%). The majority of parents hit child by rod is 78.49%, by
hand to slap or by foot to kick is 50%. Mother is a person who usually has a violence act to the child with 74.73%
and father is 44.09%. There are statistically significant difference in the proportion of children having swear or
threaten between age groups, learning capacity, and child’s mother’ job. Witnessing family violence and drinking
alcohol of family adults are associated with violence against children.
Conclusion: The results will help either the board of managers of the primary school in Bien Hoa City or the

local officials in Bien Hoa city to give appropriate solutions in order to prevent violence against children.
xác là nghiêm trọng. Các yếu tố như rượu bia,
ĐẶT VẤN ĐỀ
bạo hành gia đình có sự liên quan mạnh mẽ bạo
Gia đình là một tổ ấm để bảo vệ và nuôi
hành trẻ em. Ở Mỹ 35% trường hợp cha mẹ có
dưỡng trẻ phát triển hoàn thiện về thể chất
hành vi bạo hành trẻ có sử dụng rượu/bia, ở Đức
cũng như tinh thần. Nhưng trong những năm
tỉ lệ này là 32%. Bên cạnh đó, nghiên cứu của
gần đây, nhiều trường hợp bạo lực đối với trẻ
Liên hợp quốc năm 2005 cho thấy đa số các
em gây ra bởi cha mẹ và các thành viên khác
trường hợp bạo hành trẻ em thường được giấu
trong gia đình đã được ghi nhận. Hậu quả của
kín bởi nhiều lý do như trẻ sợ hãi không dám
các hành vi bạo hành trẻ em có thể làm ảnh
nói ra vì sợ bị trừng phạt, một điểm quan trọng
hưởng đến sức khỏe cũng như sự phát triển
đó là cả trẻ em và người bạo hành trẻ đều cho
tinh thần của trẻ.
rằng bạo hành trẻ là điều bình thường không thể
Những nơi trẻ được nuôi dưỡng, chăm sóc,
tránh khỏi trong cuộc sống hằng ngày. Ngoài ra,
và học tập như gia đình, trường học, trại trẻ mồ
số liệu trẻ bị bạo hành được ghi nhận thường
côi,... cũng là nơi mà trẻ có nguy cơ bị bạo hành.
thấp hơn thực tế là do vẫn chưa có một cơ quan
Bạo hành trẻ em tại gia đình là hình thức khá
đáng tin cậy để trẻ có thể báo cáo vụ việc(6,2,3,4).

phổ biến trong mọi xã hội nhưng lại ít nhận thấy
Tại Việt Nam, quan niệm “thương cho roi
nhất khiến cho các nhà quản lý cho rằng bạo
cho vọt” còn có giá trị ở nhiều bậc cha mẹ, và
hành trẻ em không phải là vấn đề nghiêm trọng
đây được coi là biện pháp hữu hiệu để giáo dục
trong xã hội của họ.
con khi còn nhỏ. Tại Biên Hòa trong thời gian
Trên thế giới đã có nhiều con số ghi nhận về
qua đã có nhiều vụ bạo hảnh trẻ em được các
bạo hành trẻ em, theo số liệu của Tổ Chức Y tế
phương tiện truyền thông ghi nhận, phản ánh.
Thế Giới, năm 2002 có khoảng 875.000 trẻ em và
Song chúng ta vẫn chưa có một số liệu nghiên
thanh thiếu niên dứới 18 tuổi bị tử vong do
cứu chính thức nào về bạo hành trẻ 8-11 tuổi tại
thương tích và bạo hành. Cứ một đứa trẻ bị tử
đây. Vậy tỉ lệ bạo hành ở trẻ em tại gia đình ở
vong thì sẽ có hàng ngàn trẻ khác là nạn nhân
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là bao
của thương tích và bạo hành với các tổn thương
nhiêu? Và yếu tố nguy cơ nào dẫn đến bạo hành
về thể xác và tinh thần. Điều tra tiến hành vào
trẻ em tại gia đình? Đó là câu hỏi được đặt ra
năm 2001 của UNICEF về trẻ em khu vực Đông
cho nghiên cứu này
Nam Á và Thái Bình Dương, có khoảng ¼ thanh
Mục tiêu nghiên cứu
thiếu niên được hỏi nói rằng các em bị cha mẹ
Mục tiêu tổng quát

đánh mỗi khi mắc lỗi. Tại Mỹ, năm 2003 có
khoảng 906.000 trẻ em là nạn nhân của bạo hành.
Xác định tỉ lệ trẻ 8-11 tuổi bị bạo hành tại gia
Một nghiên cứu thực hiện trên nhiều quốc gia
đình và các yếu tố liên quan đến bạo hành trẻ em
cho thấy có 80-98% trẻ em phải chịu các hình
tại gia đình tại một phường thuộc thành phố
phạt thể xác tại nhà, trong đó 1/3 hình phạt thể
Biên Hòa, Đồng Nai


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008
Mục tiêu cụ thể
1. Xác định tỉ lệ trẻ bị bạo hành về tinh thần
(như: la mắng nặng đối với trẻ, đe dọa, chứng
kiến cảnh bạo lực giữa cha mẹ)
2. Xác định tỉ lệ trẻ em bị bạo hành thể xác
(đánh đập) bởi cha mẹ và các thành viên trong
gia đình (mức độ, dụng cụ, đối tượng, lý do)
3. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến bạo
hành trẻ em: sử dụng rượu bia, bạo hành gia
đình, gia đình đông người, đông con, nghề
nghiệp cha mẹ

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm nghiên cứu
Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai

Thời điểm nghiên cứu
Từ tháng 4-11 năm 2008


Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả

Cỡ mẫu
Áp dụng công thức ước lượng cỡ mẫu theo
tỷ lệ:

n = Z (21−α

2)

p (1 − p )
d2

z = 1,96 khi chọn α = 0,05; p=0,5; độ chính xác
mong muốn d = 5%.
Vậy n = 384

Phương pháp chọn mẫu
Phỏng vấn trực tiếp trẻ từ 8-11 tuổi tại
trường tiểu học của phường. Chọn 4 khối lớp từ
lớp 2- lớp 5, mỗi khối lớp có 4 lớp, riêng khối lớp
3 có 5 lớp, trung bình một lớp có khoảng 40 học
sinh. Mỗi khối bốc thăm 3 lớp, mỗi lớp chọn 32
học sinh bất kì nằm trong nhóm tuổi nghiên cứu
và đồng ý trả lời phỏng vấn

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm mẫu nghiên cứu

Nhìn chung, mẫu nghiên cứu phân bố đồng
đều ở các nhóm tuổi, giới. Hầu hết trẻ trong mẫu
nghiên cứu là dân tộc kinh (97,14%), và có học

Nghiên cứu Y học

lực xếp loại giỏi (44,53%), khá (42,71%), còn lại là
học sinh trung bình (9,9%) và xuất sắc (2,86%)
Trong nhóm nghiên cứu, đa số trẻ sống
chung với cha và mẹ (92%), khoảng 8% số trẻ
sống trong gia đình thiếu cha hoặc mẹ hoặc cả
cha và mẹ, không có trẻ nào sống với cha/mẹ kế
do đó nghiên cứu này không khảo sát vấn đề
bạo hành trẻ do những đối tượng cha/mẹ kế. Tỉ
lệ gia đình có đông người (> 4 người) khá cao
gần 36%, và gia đình đông con (> 2 con) là
17,45%, môi trường sống đông người, nhiều va
chạm cũng như áp lực về kinh tế có thể là yếu tố
làm tăng nguy cơ làm trẻ bị đánh đập, la mắng.
Song kết quả nghiên cứu lại cho thấy tỉ lệ trẻ bị
la mắng ở những gia đình này là 40,6% thấp hơn
nhóm trẻ có gia đình ít người là 47,6%, tuy nhiên
sự khác biệt giữa các tỉ lệ này không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Nghề nghiệp của cha mẹ chủ yếu là làm
công nhân (cha 45,83%, mẹ 54,95%), còn lại là
làm tài xế, buôn bán, làm thuê.Trong nghiên cứu
này chúng tôi không tìm thấy mối liên quan giữa
nghề nghiệp của cha với tỉ lệ trẻ bị la mắng đánh
đập, song nghề nghiệp của mẹ lại có mối liên

quan với tỉ lệ này (p<0,05). Như vậy, ta có thể
nhận thấy người mẹ có vai trò chăm sóc và tiếp
xúc với trẻ nhiều hơn nên các đặc điểm của
người mẹ thường có liên quan nhiều đến trẻ hơn
là người cha. Nhóm bà mẹ có nghề nghiệp ổn
định như công nhân/công chức có tỉ lệ la mắng
trẻ 43,6% thấp hơn các nhóm còn lại làm nghề
buôn bán/làm thuê 50,9%.
Tỉ lệ gia đình có người uống rượu bia khá
cao (55,43%), đối tượng chính uống rượu bia
trong gia đình là người cha (93,78%), mẹ và các
người thân khác chiếm tỉ lệ không đáng kể. Một
điều quan trọng là, gia đình có người uống
rượu/bia cũng có mối liên quan mạnh mẽ đến tỉ
lệ trẻ bị la mắng và đánh đập (p=0,0001), trẻ
trong gia đình có người uống rượu bia có tỉ lệ la
mắng, đánh đập lần lượt là 55,98% và 61,24%
cao gần gấp 2 lần nhóm không có người nhà
uống rươu/bia là 32,0% và 33,14%. Người uống
rượu bia thường thiếu khả năng kiếm soát bản


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008
thân nên đây là một yếu tố dẫn đến làm tăng
nguy cơ của trẻ bị bạo hành, đồng thời cũng là
yếu tố dẫn đến các bất hòa trong gia đình.

Tỉ lệ trẻ bị bạo hành về tinh thần bởi cha
mẹ và các thành viên trong gia đình


Nghiên cứu Y học

nhiều người có thể làm một số trẻ cảm thấy bị
hắt hủi hoặc tổn thương lòng tự trọng.

Tỉ lệ trẻ bị bạo hành về thể xác bởi cha mẹ
và các thành viên trong gia đình

Tỉ lệ trẻ chứng kiến cảnh cha mẹ đánh/cãi
nhau khá cao 34,11%, trong số những trẻ từng
chứng kiến cảnh bạo lực này của cha mẹ thì có
32,06% trẻ không nhớ thời điểm xảy ra cha mẹ
đánh/cãi nhau, như vậy đây là điều để lại cho trẻ
ấn tượng rất lớn. Và số trẻ nhớ mình chứng kiến
cảnh cha mẹ đánh cãi nhau trong tháng qua
cũng không nhỏ khoảng 38,17%, con số này cho
thấy mức độ thường xuyên của bạo lực giữa cha
mẹ. Nghiên cứu năm 2002 của Canada về thái độ
của cộng đồng đối với bạo lực gia đình có tới
54% số người tin rằng chứng kiến cảnh này sẽ có
tác động tiêu cực về mặt tâm lý(3). Mặc dù chứng
kiến những cảnh này có thể không gây ra tác
động nhiều lên thể xác song lại tác động xấu đến
tinh thần, sự phát triển nhân cách và các ứng xử
trong xã hội, bởi trẻ có thể học nhiều hành vi bạo
lực từ cha mẹ trong suốt thời gian từ trẻ thơ đến
trưởng thành. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
có mối liên quan giữa việc chứng kiến cảnh bạo
lực giữa cha mẹ với tỉ lệ la mắng/đánh đập trẻ
(p=0,0001)


Kết quả phỏng vấn 384 trẻ tuổi từ 8-11 tuổi
cho thấy có 48,44% trẻ trả lời từng bị cha mẹ
hoặc các thành viên khác trong gia đình đánh
đập cao hơn kết quả điều tra gia đình Việt Nam,
tỉ lệ cha mẹ trả lời đánh trẻ vị thành niên là
11,2%. Sự khác biệt về tỉ lệ này có thể do nhóm
trẻ 8-11 tuổi thì thời gian trẻ ở gia đình và chịu
sự kiểm soát của gia đình nhiều hơn, đồng thời
nghiên cứu này khảo sát trực tiếp trẻ không phải
từ phía cha mẹ. Cảm giác của trẻ thấy bị đánh ở
mức độ đau nhiều đến đau rất nhiều gần 38%,
khá tương đồng với số trẻ bị đánh bị bầm
tím/trầy xước 41,94%. Điều đáng lo ngại là trong
số trẻ bị đánh bầm tím/trầy xước thì số bị đánh
trong vòng tháng qua lên đến 55,13%. Đây là số
trẻ bị bạo hành thường xuyên về thể xác, với
những trận đòn roi thường xuyên như vậy sẽ
gây ra các tác động tới không chỉ thể xác mà còn
cả tinh thần của trẻ, trẻ có thể trở nên ngang
bướng hơn. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng trẻ
lớn lên trong môi trường bị bạo hành làm tăng
nguy cơ trẻ trở thành nạn nhân hoặc kẻ bạo
hành người khác khi trưởng thành(6)

Bảng 1: Mối liên quan giữa sự bất hòa của cha mẹ
với tỉ lệ la mắng hù dọa trẻ

Bảng 2: Tỉ lệ trẻ bị cha mẹ/thành viên khác trong gia
đình đánh đập theo tuổi, giới, học lực của trẻ


Cha mẹ đánh/cãi
nhau

Không
Tổng

La mắng, hù dọa trẻ
2
p
χ
Có n(%) Không n(%)
95 (72,52)
36 (27,48)
60,59 0,0001
78 (30,83) 175 (69,17)
173 (45,05) 211 (54,95)

Tỉ lệ trẻ bị cha mẹ hoặc các thành viên trong
gia đình la mắng nặng nề trước mặt nhiều người
khoảng 35,94%, hù dọa đánh đập khoảng 20,3 %.
Tuy bị cha mẹ/người thân trong gia đình la
mắng song hầu hết trẻ (99,2%) vẫn cảm nhận cha
mẹ và mọi người trong nhà rất yêu thương
mình. Có thể trẻ độ tuổi này cho rằng câu từ
không làm đau hay tổn thương đến cơ thể của
trẻ, song cha mẹ la mắng nặng nề trẻ trước mặt

Đánh khi mắc lỗi
2

p
χ
Có n(%) Không n(%)
Nam
102 (52,85) 91 (47,15) 3,02 0,082
Nữ
84 (43,98) 107 (56,02)
8 tuổi
30 (25,42) 88 (74,58)
9 tuổi
44 (44,44) 55 (55,56) 51,58 0,0001
10 tuổi
51 (60,71) 33 (29,39)
11 tuổi
61 (73,49) 22 (26,51)
Xuất sắc
2(18,18)
9 (81,82)
9,88 0,02
Giỏi
73 (42,69) 98 (57,31)
Khá
89 (54,27) 75 (45,73)
Trung bình 22 (57,89) 16 (42,11)

Nội dung
Giới

Tuổi


Xếp
loại
học
lực

Nghiên cứu nhiều quốc gia cho thấy trẻ nữ
có nguy cơ bị bạo hành tình dục và thất học cao
hơn so với nam, nhưng trẻ nam thường bị các
hình phạt thể xác mạnh nhiều hơn nữ(3). Nghiên


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008
cứu này cũng cho kết quả tương tự: trẻ nam có tỉ
lệ bị đánh là 52,85% cao hơn trẻ nữ 43,98%, tuy
nhiên khác biệt về tỉ lệ này không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Về tỉ lệ trẻ bị cha mẹ/các thành viên trong gia
đình đánh đập có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê theo từng tuổi và xếp loại học lực (p<0,05).
Trẻ càng lớn thì tỉ lệ trẻ bị cha mẹ đánh càng cao.
Tỉ lệ trẻ 11 tuổi bị đánh (73,49%) nhiều gần gấp 3
lần tỉ lệ trẻ 8 tuổi (25,42%). Điều này có thể do
cha mẹ thấy trẻ đủ lớn để đánh đòn hoặc trẻ lớn
hơn thì bắt đầu có nhiều hoạt động không theo ý
muốn của cha mẹ. Hơn nữa những trẻ học kém
hơn có tỉ lệ bị cha mẹ đánh nhiều hơn, cha mẹ
nghĩ rằng con học kém là do lười học nên cần
phải đánh để trẻ siêng học hơn. Tuy nhiên, tài
liệu nghiên cứu của WHO cho thấy không có sự
thay đổi hành vi như mong muốn bằng cách sử

dụng các biện pháp trừng phạt về thể xác(6).
Tỉ lệ trẻ bị đánh bằng roi/que chiếm tỉ lệ cao
nhất 78,49%, đánh/đá trực tiếp lên người trẻ là
50%, chúng ta có thể nhận thấy rằng trẻ nhớ rất
lâu đối với những trận đòn bằng roi/que/chổi
lông gà của cha mẹ/người thân trong gia đình.
Bảng 3: Mối liên quan giữa tỉ lệ trẻ bị đánh với các
yếu tố gia đình trẻ
Cha mẹ đánh/cãi
nhau

Không
Tổng

Đánh trẻ
2
p
χ
Có n(%) Không n(%)
93 (70,99) 38 (29,01)
93 (36,76) 160 (63,24) 40,49 0,0001
186 (48,44) 198 (51,56)

Gia đình bất hòa, cha mẹ cãi/đánh nhau
cũng là yếu tố liên quan đến tỉ lệ trẻ bị đánh đập
với p=0,0001. Trẻ từng chứng kiến cảnh cha mẹ
đánh/cãi nhau có tỉ lệ bị đánh gần 71% cao gấp
hai lần trẻ không chứng kiến cảnh này giữa cha
mẹ. Những trẻ này bị tác động cả về mặt thể xác
và tinh thần.


KẾT LUẬN
* Qua kết quả nghiên cứu trên 384 trẻ về tỉ lệ
trẻ 8-11 tuổi bị bạo hành bởi các thành viên trong
gia đình tai một phường của thành phố Biên
Hòa chúng tôi có một số kết luận như sau:

Nghiên cứu Y học

Nhìn chung mẫu nghiên cứu được phân bố
đồng đều theo tuổi và giới. Đa số trẻ sống trong
gia đình không đông người (< 5 người), có từ 1-2
con. Hầu hết trẻ sống chung với cha mẹ, có một
tỉ lệ nhỏ trẻ chỉ sống với cha/mẹ/không có cha và
mẹ. Nghề nghiệp của cha mẹ chủ yếu là công
nhân/công chức nhà nước.
Tỉ lệ trẻ chứng kiến cảnh cha mẹ đánh/cãi
nhau khoảng 34,11%. Trong đó có khoảng 38%
trẻ chứng kiến cảnh cha/mẹ đánh/cãi nhau trong
tháng qua. Trẻ bị cha/mẹ hoặc người thân trong
gia đình la mắng nặng nề trước mặt người khác
35,94%, bị hù dọa đánh/ném đồ là 20,3%.
Tỉ lệ trẻ bị cha mẹ/thành viên khác trong gia
đình đánh là 48,44%, trong đó có 41,94% là bị
đánh để lại vết bầm tím/trầy xước. Tỉ lệ trẻ bị
đánh bầm tím/trầy xước trong tháng vừa qua là
55,13%. Đa số trẻ bị đánh bằng roi (78%), đánh
bằng tay/chân 50%, dùng đồ đạc để đánh hoặc
ném khoảng 7,5%. Đối tượng đánh trẻ nhiều
nhất là mẹ 74,7%, cha (44,1%), ông bà/họ hàng

(5,4%). Trẻ thường bị đánh do không nghe lời
(56%), học kém hoặc không như mong muốn
của cha mẹ (31%)
Không có mối liên quan giữa điều kiện sống
của gia đình như đông người, đông con với tỉ lệ
trẻ bị bạo hành
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ
trẻ bị đánh/la mắng giữa các nhóm tuổi và học
lực của trẻ và các nhóm nghề nghiệp của mẹ
(p<0,05). Tuy nhiên, không có sự khác biệt tỉ lệ
trẻ bị đánh/la mắng giữa trẻ nam và nữ, các
nhóm nghề nghiệp của cha.
Có mối liên quan giữa tỉ lệ trẻ bị đánh/la
mắng với bạo lực giữa cha mẹ, và gia đình có
người uống rượu bia (p<0,005)

KIẾN NGHỊ
Với kết quả nghiên cứu này, chúng tôi có
một số đề xuất như sau:
Đánh trẻ để làm thay đổi hành vi của trẻ là
một biện pháp kém hiệu quả, đồng thời cũng vi
phạm đến quyền của trẻ em. Cha mẹ gần gũi và
tìm hiểu nhu cầu của trẻ cũng như khuyến khích


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008
trẻ có các hành vi tích cực hơn. Để làm được
điều này chúng ta cần có các chương trình
truyền thông về quyền trẻ em cũng như các
chương trình hướng dẫn cách chăm sóc và giáo

dục trẻ cho các bậc cha mẹ, giúp thay đổi quan
niệm “thương cho roi cho vọt” của hầu hết cha
mẹ.
Nhà trường cũng là nơi có thể hỗ trợ trẻ
bằng cách phụ đạo cho các học sinh học trung
bình, hoặc học lực bị sa sút để loại bỏ lý do cha
mẹ đánh trẻ vì học yếu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

4.

5.
6.

7.

Bộ Văn Hóa, Thể Thao Du Lịch; Tổng Cục Thống Kê;
UNICEF; Viện Gia Đình Và Giới (2008). Kết quả điều tra
gia đình Việt Nam năm 2006. 6/2008
Minister of public Works and Government Services
Canada (2003). Health effects of Family violence.
United Nations (2006). Report of the independent expert
for the United Nations study on violence against children
www.violencestudy.org/IMG/pdf/english-2-2.pdf
UNICEF (2008). Child protection from violence,

exploitation
and
abuse-violence.
www.unicef.org/protection/index_violence.htlm, 20/03/2008
UNICEF
Viet
nam.
Trẻ
em
Việt
Nam.
www.unicef.org/vietnam/vi/children.htlm 17/03/2008
World Health Organization. Childmaltreatment and
alcohol.
www.who.int/violence_injury_prevention/violence/world_re
port/factsheets/fs_child.pdf
World Health Organization, ISPCAN (2006). Preventing
childmaltreatment: a guide to taking action and generating
evidence.

Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008

Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008


Nghiên cứu Y học



×