Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá sự thay đổi nồng độ dấu ấn chu chuyển xương ở phụ nữ sau mãn kinh sử dụng vitamin D, canxi và bột đậu nành trong 6 tháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.83 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ DẤU ẤN
CHU CHUYỂN XƢƠNG Ở PHỤ NỮ SAU MÃN INH
SỬ DỤNG VITAMIN D, CANXI VÀ BỘT ĐẬU NÀNH TRONG 6 THÁNG
Hoàng Văn Dũng*; Lê Bạch Mai**; Nguyễn Thị Ngọc Lan***
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá sự thay đổi nồng độ dấu ấn chu chuyển xương trong huyết thanh trước
và sau 6 tháng sử dụng sữa bột đậu nành tăng cường vitamin D2 và canxi ở phụ nữ sau mãn
kinh. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu tiến cứu, can thiệp cộng đồng theo dõi trước và
sau can thiệp 140 phụ nữ mãn kinh ≥ 5 năm, tuổi từ 50 - 70; chia thành 2 nhóm: nhóm can
thiệp (n = 70) hàng ngày uống sản phẩm soyplus (50 gram sữa đậu nành có bổ sung 800 IU
vitamin D2 và 400 mg canxi); nhóm chứng (n = 70): uống sản phẩm soyplus (50 gram sữa đậu
nành đơn thuần) trong 6 tháng. Kết quả: sau 6 tháng can thiệp, nồng độ osteocalcin huyết
thanh giảm từ 19,7 ± 5,2 ng/ml xuống 15,4 ± 3,6 ng/ml (giảm 21,3%), nồng độ CTX huyết thanh
giảm từ 0,65 ± 0,2 ng/ml xuống 0,51 ± 0,2 ng/ml (giảm 21,5%), p < 0,01. Kết luận: sau 6 tháng
sử dụng sản phẩm, có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê các dấu ấn chu chuyển xương
(osteocalcin huyết thanh giảm 21,3%, CTX huyết thanh giảm 21,5%).
* Từ khóa: Loãng xương; Phụ nữ sau mãn kinh; Chu chuyển xương; Osteocalcin; CTX.

Evaluation of Changing Bone Tunrvover Markers in Postmenopausal
Women Using Fortified Soy Milk plus Calcium and Vitamin D for
6 Months
Summary
Objectives: To assess changing serum bone markers after 6 months using fortified soy milk
plus calcium and vitamin D2 in postmenopausal women. Subjects and methods: Prospective,
community and follow-up study before and after the intervention was carried out on 140
postmenopausal women in the age from 50 - 70. Intervention group (n = 70) drank 50 gram soy
milk supplemented with 800 IU vitamin D2 and 400 mg calcium daily; control group (n = 70):
50 gram soy milk in 6 months. Result: After 6 months of the intervention, serum osteocalcin
levels decreased from 19.7 ± 5.2 ng/ml to 15.4 ± 3.6 ng/ml (21.3%), serum CTX decreased from


0.65 ± 0.2 ng/ml to 0.51 ± 0.2 ng/ml (21.5%). The difference was statistically significant
compared with the control group (p < 0.01). Conclusion: After 6 months of the intervention,
serum osteocalcin concentrations decreased by 21.3%, 21.5% reduction in serum CTX.
The difference compared with the control group with statistical significance (p < 0.01).
* Key words: Osteoporosis; Postmenopaus; Bone turnover; Osteocalcin; CTX .
* Bệnh viện Bạch Mai
** Viện Dinh dưỡng
*** Đại học Y Hà Nội
Người phản hồi (Corresponding): Hoàng Văn Dũng ()
Ngày nhận bài: 25/03/2016; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 31/05/2016
Ngày bài báo được đăng: 03/06/2016

61


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chu chuyển xương là quá trình thay cũ
đổi mới của xương, diễn ra liên tục. Một
chu kỳ chu chuyển xương gồm 3 giai đoạn
và diễn ra trong 3 - 6 tháng: giai đoạn hủy
xương (resorption), giai đoạn chuyển đổi
(reversal) và giai đoạn tạo xương mới
(formation). Dấu ấn chu chuyển xương
được bài tiết vào máu trong quá trình hoạt
động của tế bào hủy cốt bào (CTX…) hay
tạo cốt bào (osteocalcin, P1NP…). Do đó,
việc theo dõi thay đổi các dấu ấn chu
chuyển xương phản ánh sự thay đổi của

quá trình tạo xương và hủy xương. Nồng
độ các dấu ấn chu chuyển xương tăng
thể hiện tốc độ chu chuyển xương tăng và
tăng nguy cơ loãng xương (LX) cũng như
gãy xương [3].
Sử dụng các dấu ấn chu chuyển
xương trong theo dõi điều trị LX rất hiệu
quả do nồng độ các dấu ấn chu chuyển
xương thay đổi phản ánh hiệu quả tác
động của thuốc điều trị LX theo cơ chế
tác động đặc hiệu trên chuyển hóa
xương, từ đó cho biết sự cải thiện về chất
lượng xương. Đồng thời cho phép đánh
giá hiệu quả can thiệp sớm sau 3 - 6
tháng so với thay đổi mật độ xương chậm
1 - 2 năm khi đo mật độ xương. Bình
thường theo diễn biến tự nhiên, nồng độ
dấu ấn chuyển xương tăng lên trong LX
và giảm đi khi điều trị LX bằng thuốc
chống hủy xương. Nghiên cứu ứng dụng
các dấu ấn chu chuyển xương để theo
dõi đáp ứng điều trị LX là một hướng
nghiên cứu mới, có tính khoa học và độ
chính xác cao [3]. Khuyến cáo sử dụng 1
dấu ấn huỷ xương (CTX) kết hợp với một
dấu ấn tạo xương (osteocalcin, P1NP,
hoặc BSAP) để đánh giá một chu chuyển
62

xương, cũng như tốc độ chu chuyển

xương. Theo nghiên cứu của Marlena và
CS (2010) về hiệu quả can thiệp của sữa
công thức (Anlene) có tăng cường 400 UI
vitamin D và 1.200 mg canxi mỗi ngày,
theo dõi sau 4 tháng ở phụ nữ mãn kinh
> 5 năm tại Indonesia và Philippine cho
thấy nồng độ các dấu ấn chu chuyển
xương giảm rõ rệt: CTX huyết thanh
giảm 40%, osteocalcin giảm 30 - 35% [4].
Tại Việt Nam, nghiên cứu về dấu ấn
chu chuyển xương đang được thực hiện.
Đề tài này được tiến hành với mục tiêu:
Đánh giá sự thay đổi nồng độ dấu ấn chu
chuyển xương trong huyết thanh sau
6 tháng sử dụng sản phẩm sữa bột đậu
nành tăng cường vitamin D2 và canxi ở
phụ nữ sau mãn kinh.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu.
140 phụ nữ mãn kinh ≥ 5 năm, tuổi
50 - 70, khẩu phần canxi ≤ 400 mg/ngày
và đồng ý tham gia nghiên cứu, được
chia thành hai nhóm: nhóm can thiệp
(n = 70): hàng ngày uống sản phẩm:
50 gram sữa đậu nành có bổ sung 800 IU
vitamin D2 và 400 mg canxi trong 6 tháng;
nhóm đối chứng (n = 70): hàng ngày
uống sản phẩm: 50 gram sữa đậu nành
đơn thuần trong 6 tháng. Loại trừ những

phụ mãn kinh do phẫu thuật, mắc các
bệnh liên quan đến chuyển hóa (đái tháo
đường, Basedow), người có dị tật xương khớp bẩm sinh, người mắc các bệnh: ung
thư, suy thận, gãy xương, phẫu thuật
xương khớp trong vòng 5 năm, đang
dùng các thuốc điều trị LX: calcitonin,
estrogen, corticoid trong vòng 6 tháng
gần đây.


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

- Nghiên cứu tiến hành tại xã Tam Hưng,
huyện Thanh Oai, Hà Nội.
- Thời gian từ tháng 1 - 2013 đến 6 2013 (6 tháng can thiệp).
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp cộng
đồng, có đối chứng, theo dõi trước can
thiệp (T0) và sau can thiệp 6 tháng (T6).
- 2 nhóm nghiên cứu được ghép cặp
tương đồng về tuổi, thời gian mãn kinh,
giữ nguyên chế độ ăn, hoạt động thể lực,
tiếp xúc với ánh nắng mặt trời như
thường lệ trong suốt quá trình nghiên
cứu.
* Cỡ mẫu nghiên cứu: áp dụng công
thức tính cỡ mẫu kiểm định sự khác nhau
giữa nồng độ CTX huyết thanh trung bình
trước và sau can thiệp của mỗi nhóm.


n=2

(Z + Z)2 2
(dc - ct) 2

Trong đó: n cỡ mẫu cho can thiệp;
Z = 1,96; Z = 0,84; : độ lệch chuẩn
trung bình (ước tính 0,2 ng/ml); dc: trị số
khác biệt trước và sau can thiệp của
nhóm đối chứng (ước tính -0,05 ng/ml);
ct: trị số khác biệt trước và sau can thiệp
của nhóm can thiệp (ước tính -0,15 ng/ml);
từ đó tính được n = 140 đối tượng.
* Nội dung và chỉ tiêu nghiên cứu:
- Đo chiều cao, cân nặng, chỉ số BMI
trước và sau can thiệp 6 tháng.
- Đo mật độ xương bằng phương pháp
siêu âm định lượng vị trí gót chân: sử
dụng máy đo Sonost-2000 (Hãng Osteosys,
Hàn Quốc) trước và sau 6 tháng: so sánh
các chỉ số T-score, Z-score, SOS.

- Một số xét nghiệm thực hiện đánh giá (bảng 1):
Tên xét
nghiệm

Đơn vị
tính

Phƣơng pháp

đánh giá

Thiết bị sử dụng

Định lượng
osteocalcin

ng/ml

Điện hóa phát
quang miễn dịch

Máy Elecsys
(2010, Hãng
Roche)

Định lượng
CTX

ng/ml

Điện hóa phát Máy Elecsys (2010,
quang miễn dịch
Hãng Roche)

Định lượng
nmol/l
25(OHD)

Phương pháp

miễn dịch hóa
phát quang

Máy miễn dịch tự
động ARCHITECT
(Labo Hóa sinh,
Viện Dinh dưỡng)

Thời điểm
đánh giá

Đơn vị thực hiện

Trước và sau Trung tâm Nghiên cứu Y can thiệp 6
Dược học Quân sự,
tháng
Học viện Quân y
Trước và sau Trung tâm Nghiên cứu Y can thiệp 6
Dược học Quân sự,
tháng
Học viện Quân y
Trước và sau
can thiệp 6
tháng

Labo Hóa sinh
(Viện Dinh dưỡng)

* Phân tích và xử lý số liệu:
- Trung bình, độ lệch chuẩn và tỷ lệ dùng để mô tả đặc điểm đối tượng nghiên cứu.

- Test "χ2" dùng kiểm định sự khác biệt giữa 2 tỷ lệ.
63


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

- Test “t” dùng kiểm định sự khác biệt giữa 2 trị số trung bình.
- Khoảng tin cậy 95% áp dụng cho toàn bộ các test. Sự khác biệt khi giá trị p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm chung đối tƣợng nghiên cứu trƣớc khi can thiệp (n = 140).
Bảng 2:
Nhóm can thiệp

Nhóm chứng

(n = 70)

(n = 70)

Tuổi (năm)

58,5 ± 4,9

59,0 ± 5,0

> 0,05

Tuổi mãn kinh (năm)

48,1 ± 3,7


47,5 ± 6,8

> 0,05

Số năm mãn kinh

10,4 ± 5,7

10,5 ± 5,6

> 0,05

Số con

3,3 ± 1,4

3,1 ± 1,2

> 0,05

21,6 ± 2,5

21,9 ± 2,9

> 0,05

Khẩu phần canxi (mg/ngày)

270,3 ± 66,8


257,0 ± 62,3

> 0,05

T-score

-2,48 ± 0,71

-2,47 ± 0,74

> 0,05

Biến số

2

BMI (kg/m )

p

Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở tất cả các yếu tố đã khảo sát ở 2
nhóm nghiên cứu trước can thiệp.
2. Thay đổi T-score sau 6 tháng can thiệp.
Bảng 3: Đặc điểm T-score trung bình trước và sau 6 tháng can thiệp.

Thời điểm

Nhóm can thiệp


Nhóm chứng

(n = 65)

(n = 65)

p

X ± SD
T-score tại T0

-2,48 ± 0,71

-2,47 ± 0,74

> 0,05

T-score tại T6

-2,67 ± 0,67

-2,72 ± 0,74

> 0,05

Hiệu số T6 - T0

-0,15 ± 0,31

-0,21 ± 0,28


> 0,05

-6,0%

-8,5%

Mức độ thay đổi (%)

Sau 6 tháng can thiệp, T-score trung bình cả 2 nhóm đều giảm, giảm nhiều hơn ở
nhóm chứng. Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
64


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

3. Thay đổi nồng độ osteocalcin, CTX và vitamin D huyết thanh trƣớc và sau
6 tháng can thiệp.
Bảng 4: Thay đổi nồng độ osteocalcin và CTX huyết thanh trước và sau 6 tháng
can thiệp.
Biến số

Thời điểm

Nhóm can thiệp
(n = 65)

Nhóm chứng
(n = 65)


p

T0

19,7 ± 5,2

20,1 ± 5,5

> 0,05

Osteocalcin (ng/ml)

T6

15,4 ± 3,6

18,8 ± 5,1

< 0,01

Hiệu số T6 - T0

-4,2 ± 3,8

-1,3 ± 3,5

< 0,01

Mức độ giảm%


-21,3

-6,5

T0

0,65 ± 0,2

0,65 ± 0,17

> 0,05

T6

0,51 ± 0,2

0,59 ± 0,2

< 0,05

Hiệu số T6 - T0

- 0,14 ± 0,2

- 0,07 ± 0,2

< 0,05

-21,5


-10,7

(T6 - T0)/T0
CTX (ng/ml)

Mức độ giảm % ((T6 - T0)/T0)

- Nồng độ osteocalcin huyết thanh giảm ở cả 2 nhóm sau 6 tháng can thiệp: nhóm
can thiệp giảm 21,3%; nhóm chứng giảm 6,5%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,01.
- Nồng độ CTX huyết thanh giảm ở cả 2 nhóm sau 6 tháng can thiệp: nhóm can
thiệp giảm 21,5%; nhóm chứng giảm 10,7%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,05.
Bảng 5: Mối liên quan giữa thay đổi nồng độ osteocalcin (OC) sau can thiệp với
T-score trước can thiệp (nhóm can thiệp).
LX
(T-score ≤ -2.5)

Không LX
(T-score > -2,5)

Tổng

Tăng (T6 - T0 ≥ 0 )

5 (12,5%)

10 (31,2%)

15


Giảm (T6 - T0 < 0 )

28 (87,5%)

22 (68,8%)

50

33 (100%)

32 (100%)

65 (100%)

T-score tại T0

Thay đổi nồng độ OC
sau can thiệp (T6 - T0)
Tổng
OR (CI:95%); p

OR:2,5 (0,8 - 8,5); p > 0,05

Tỷ lệ giảm nồng độ osteocalcin sau 6 tháng ở nhóm có LX tại T0 (87,5%) cao hơn
nhóm không LX (68,8%), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với
p > 0,05.
65



TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

Bảng 6: Mối liên quan giữa thay đổi nồng độ CTX sau can thiệp với T-score trước
can thiệp (nhóm can thiệp).
LX
(T-score ≤ -2,5)

Không LX
(T-score > -2,5)

Tổng

Tăng (T6 - T0 ≥ 0)

11 (33,3%)

10 (31,3%)

21

Giảm (T6 - T0 < 0)

22 (66,7%)

22 (68,7%)

44

33 (100%)


32 (100%)

65 (100%)

T-score tại T0
Thay đổi nồng độ CTX
sau can thiệp (T6 - T0)
Tổng
OR (CI95%); p

OR: 0,9 (0,3 - 2,5); p > 0,05

Tỷ lệ giảm nồng độ CTX sau 6 tháng ở nhóm có LX tại T0 là 66,7%, ở nhóm không
LX 68,7%, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Bảng 7: Thay đổi nồng độ vitamin D huyết thanh sau 6 tháng can thiệp.
Thời điểm

Nhóm can thiệp
n

X

Nhóm chứng
n

± SD

X

p


± SD

25(OH)D tại T0 (nmol/l)

70

60,04 ± 19,5

70

63,5 ± 22,4

> 0,05

25(OH)D tại T6 (nmol/l)

65

74,0 ± 10,4

65

66,4 ± 17,5

< 0,01

Hiệu số T6 - T0 (nmol/l)

65


14,6 ± 20,2

65

3,7 ± 17,3

< 0,01

5,8

< 0,01

Mức độ tăng (%)

24,3

Sau 6 tháng can thiệp, nồng độ vitamin D nhóm can thiệp tăng 24,3%, nhóm chứng
tăng 5,8%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01
BÀN LUẬN
Sử dụng phương pháp đo mật độ xương
để theo dõi đáp ứng điều trị LX là phương
pháp kinh điển, được khuyến cáo áp dụng
từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, khuyến cáo
tốt nhất là đo mật độ xương (BMD) bằng
phương pháp DXA tại cột sống thắt lưng
và cổ xương đùi để theo dõi hiệu quả
điều trị của thuốc LX, phần trăm thay đổi
mật độ xương phản ánh hiệu quả của mỗi
loại thuốc điều trị. Tuy nhiên, mật độ

xương thay đổi diễn ra rất chậm, theo
khuyến cáo để theo dõi đáp ứng điều trị
LX cần đo mật độ xương nhắc lại sau ít
nhất 1 - 2 năm [3].
66

Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành
can thiệp trên những phụ nữ tuổi trung
bình 58,5 ± 4,9 tuổi, thời gian mãn kinh
trung bình 10,4 ± 5,7 năm. Sử dụng đo
mật độ xương bằng phương pháp siêu
âm định lượng vị trí gót chân trước và
sau 6 tháng can thiệp cho thấy không có
sự khác biệt mật độ xương ở hai nhóm
nghiên cứu trước và sau 6 tháng can thiệp
(p > 0,05). Sau 6 tháng can thiệp, T-score
ở 2 nhóm nghiên cứu đều giảm, giảm
nhiều hơn ở nhóm chứng, tuy nhiên khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
(bảng 3). Tốc độ mất xương hàng năm ở
phụ nữ sau mãn kinh có thể lên 5 - 7%/năm,


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

cùng với khoảng cách đo mật độ xương
trong nghiên cứu chúng tôi chỉ 6 tháng
chưa đủ thời gian đánh giá thay đổi trên
mật độ xương, đồng thời có những sai số
đo lường. Do đó, không đủ kết luận về

hiệu quả của phương pháp can thiệp này
dựa trên kết quả đo mật độ xương đơn
thuần, đặc biệt là đo bằng phương pháp
siêu âm và thời gian đánh giá chỉ có 6
tháng. Do đó, cần có những phương
pháp phản ánh kịp thời hơn sự thay đổi
tốc độ chu chuyển xương chỉ trong vòng 3
- 6 tháng như phương pháp đánh giá thay
đổi nồng độ dấu ấn chu chuyển xương.
Việc ứng dụng các dấu ấn chu chuyển
xương trong chẩn đoán và theo dõi điều
trị LX ngày càng được phổ biến và đưa
vào hướng dẫn quốc gia về quản lý BN
LX ở các nước phát triển và một số nước
trong khu vực Đông Nam Á. Theo Sonia
và CS (2012), để đạt được giá trị dự báo
tăng mật độ xương > 3% với độ đặc hiệu
90% thì sự thay đổi tối thiểu có ý nghĩa
của dấu ấn chu chuyển xương ở mức
CTX huyết thanh giảm 35 - 55%, osteocalcin
huyết thanh giảm 20 - 40% [5]. Nghiên
cứu của chúng tôi sau 6 tháng can thiệp,
nồng độ osteocalcin ở nhóm can thiệp
giảm 21,3%, nhiều hơn ở nhóm chứng
(giảm 6,5%), với p < 0,01 và nồng độ
CTX ở nhóm can thiệp giảm 21,5% so với
nhóm chứng giảm 10,7% với p < 0,01
(bảng 4). Như vậy, ở cả hai nhóm nghiên
cứu, nồng độ các dấu ấn chu chuyển xương
đều giảm, điều này nói lên hiệu quả tác

động phối hợp của sữa đậu nành (isoflavon)
với canxi và vitamin D. Tuy nhiên, ở
nhóm can thiệp, nồng độ các dấu ấn chu
chuyển xương giảm nhiều hơn với sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê so với

nhóm chứng. Điều này khẳng định hiệu
quả tác động của canxi và vitmain D bổ
sung trong sản phẩm can thiệp. Nồng độ
các dấu ấn chu chuyển xương thay đổi
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp
hơn khi so sánh với thay đổi nồng độ
osteocalcin và CTX trong nghiên cứu của
Marlena C. Kruger (phụ nữ Philippine sau
mãn kinh, osteocalcin giảm 33%, CTX giảm
39% sau 4 tháng uống sữa có bổ sung
1.200 mg CaCO3 và 400 IU vitamin D3)
[4]. Sự thay đổi nồng độ osteocalcin và
CTX trong nghiên cứu chúng tôi thấp hơn
khi so sánh với thuốc điều trị LX [2]. Khi
tìm hiểu mối liên quan giữa thay đổi nồng
độ các dấu ấn chu chuyển xương (CTX,
OC) với mật độ xương ban đầu trước can
thiệp, chúng tôi không thấy sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa nhóm có LX hay
không LX (bảng 5, bảng 6).
Căn cứ vào kết quả can thiệp sau 6
tháng cho thấy, nồng độ vitamin D huyết
thanh trung bình ở nhóm can thiệp tăng
lên rõ rệt từ 60,04 ± 19,5 nmol/l trước can

thiệp lên 74,0 ± 10,4 nmol/l sau 6 tháng
can thiệp, tăng 14,6 nmol/l (24,3%), trong
khi ở nhóm chứng, nồng độ vitamin D
trung bình trước can thiệp là 63,5 ± 22,4
nmol/l, cao hơn nhóm can thiệp ở thời
điểm ban đầu, sau can thiệp 6 tháng nồng
độ này là 66,4 ± 17,5 nmol/l, tăng lên 2,5
nmol/l (3,9%), sự khác biệt về nồng độ
vitamin D ở hai nhóm sau can thiệp có ý
nghĩa thống kê với p < 0,01 (bảng 5).
Điều này cho thấy hiệu quả cải thiện nồng
độ 25(OH)D từ sản phẩm can thiệp. Kết
quả này tương đương với cải thiện hàm
lượng 25(OH)D trong nghiên cứu của
Marlena ở phụ nữ mãn kinh người
Indonesia khi sử dụng vitamin D3 với liều
400 IU trong 4 tháng [4].
67


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2016

Như vậy, sau 6 tháng sử dụng sữa bột
đậu nành bổ sung canxi và vitamin D có
làm giảm được nồng độ cả hai dấu ấn
chu chuyển xương là osteocalcin (dấu ấn
tạo xương) và CTX (dấu ấn hủy xương).
Điều này chứng tỏ sản phẩm can thiệp đã
có hiệu quả làm giảm tốc độ chu chuyển
xương, dự báo tăng mật độ xương.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu trên 140 phụ nữ nông thôn
mãn kinh > 5 năm, tuổi từ 50 - 70 sử
dụng sản phẩm sữa bột đậu nành có tăng
cường 800 IU vitamin D2 và 400 mg
canxi mỗi ngày sau 6 tháng, kết quả thay
đổi nồng độ các dấu ấn chu chuyển xương
đạt được như sau:
- Nồng độ osteocalcin (dấu ấn tạo
xương) giảm 21,3%, khác biệt có ý nghĩa
thống kê so với nhóm chứng với p < 0,01.

nguy cơ LX ở phụ nữ mãn kinh. Tạp chí Nội
khoa Việt Nam. 2013, số đặc biệt tháng
10/2013 (chuyên đề Cơ xương khớp, chào
mừng Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ XI
Hội Thấp khớp học Việt Nam, tr.235-243.
2. Đỗ Thị Mỹ Anh, Lê Thu Hà, Vũ Thị
Thanh Hoa. Nhận xét sự biến động nồng độ
osteocalcin và beta - crosslabs huyết thanh ở
phụ nữ mãn kinh LX điều trị fosamax. Y học
thực hành. 2012, tháng 10 (số đặc biệt chuyên đề Cơ xương khớp chào mừng Hội
nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ X - Hội
Thấp khớp học Việt Nam).
3. Vasikaran S, Eastell R, Bruyère AJ,
Foldes P, Garnero A, Griesmacher, McClung
M, MorrisH. A. Markers of bone turnover for
the prediction of fracture risk and monitoring
of osteoporosis treatment: a need for
international reference standards. Osteoporos

Int. 2011, 22, pp.391-420.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

4. Marlena C , Kruger L.M, Barbara KuhnSherlock, Andon Hestiantoro, Paulus Wijanto,
and I.A. Julie Li-Yu , Joanne M. Todd, Richard
Eastell. The effect of a fortified milk drink on
vitamin D status and bone turnover in postmenopausal women from South East Asia.
Bone. 2010, 46, pp.759-767.

1. Lê Thu Hà, Vũ Thị Thanh Hoa, Nguyễn
Thị Hương. Liên quan giữa nồng độ osteocalcin,
beta - crosslab huyết thanh và một số yếu tố

5. Sonia A Talwar MD, George T Griffing
MD. Bone markers in osteoporosis. Medscape.
2012, updated: Jan 3, 2012.

- Nồng độ CTX (dấu ấn hủy xương)
giảm 21,5%, khác biệt có ý nghĩa thống
kê so với nhóm chứng với p < 0,01.

68



×